Connect with us

Sách hay

Hội nghị Fontainebleau: Sai lầm và cái giá phải trả của đế quốc Pháp

Được phát hành

,

Hội nghị Fontainebleau là “Hội nghị của cơ hội cuối cùng”. Tuy nhiên, tính cứng rắn trong chính sách của Pháp đã khiến cho những cuộc thương lượng không thể có kết cục tốt đẹp.

Hồ Chí Minh cơ hội cuối cùng (Hội nghị Việt – Pháp tại Fontainebleau, tháng 7 năm 1946) (Ho Chi Minh, dernière chance – La conférence franco-vietnamien de Fontainebleau, Juillet 1946) của nhà báo, nhà văn chuyên nghiên cứu các vấn đề lịch sử đương đại Henri Azeau (1922-1990) là một công trình hiếm hoi viết một cách cụ thể, chi tiết về Hội nghị Việt – Pháp tại Fontainebleau và chuyến thăm Pháp năm 1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hội nghị của cơ hội cuối cùng

Cuốn sách được nhà xuất bản Flammarion phát hành lần đầu tiên năm 1968, đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu Việt Nam. Tuy nhiên, phải 53 năm sau, bản dịch tiếng Việt cuốn sách này (TS Trần Xuân Trí và TS Ninh Xuân Giao, Đại học Sư phạm dịch) mới được xuất bản tại Việt Nam (trước đó có 2 đơn vị dịch cuốn sách này, nhưng chưa công bố chính thức mà chỉ là tài liệu lưu nội bộ).

Hồ Chí Minh, cơ hội cuối cùng đề cập đến một giai đoạn đặc biệt (từ ngày 19/6/1940 – thời điểm Nhật Bản gửi cho chính quyền Pháp ở Đông Dương tối hậu thư đầu tiên cho đến ngày 14/9/1946, ngày Pháp – Việt ký Tạm ước 1946). Đó là giai đoạn mà chưa bao giờ trong lịch sử hiện đại, đất nước Việt Nam lại chứng kiến nhiều diễn biến chính trị – quân sự đảo chiều liên tục như vậy.

Trong cuốn sách này, vấn đề trung tâm là sự kiện Hội nghị Việt – Pháp tại Fontainebleau và bản Tạm ước 14/9/1946 đã được tác giả đặt trong bối cảnh quốc gia khu vực và thế giới đang diễn biến sinh động và rất khó lường.

Về hình thức, Hội nghị chỉ mang tính chất song phương giữa Việt Nam và Pháp, thậm chí dưới con mắt của Chính phủ de Gaulle và chính quyền Đông Dương thuộc Pháp đây “chỉ là vấn đề nội bộ” của đế chế Pháp. Tuy nhiên, thực chất nó phản ánh một phần cục diện của thế giới mới đang hình thành với sự can dự của tất cả các nước lớn là Mỹ, Liên Xô, Trung Hoa Dân quốc, Anh, Pháp vào vấn đề thuộc địa nói chung và vấn đề Đông Dương nói riêng.

Quan điểm của tác giả sách về sự kiện này đã được thể hiện trực diện và rõ ràng ngay từ tiêu đề sách: Hội nghị Fontainebleau là “Hội nghị của cơ hội cuối cùng”.

Sau Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 vốn được Đô đốc Georges Thierry d’Argenlieu – Cao ủy Pháp ở Đông Dương lúc bấy giờ – đánh giá là một “Hiệp định tốt”, còn Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Hiệp định mở đường cho sự thừa nhận của quốc tế đối với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Tuy nhiên, còn hai vấn đề cốt lõi là “Độc lập” và “Thống nhất” ba kỳ cho Việt Nam thì bị gác lại do quan điểm hai bên còn những bất đồng. Chính vì thế Hội nghị Fontainebleau là cơ hội để hai bên đàm phán đưa ra một giải pháp phù hợp.

Giai sach Quoc gia anh 1

Sách Hồ Chí Minh cơ hội cuối cùng (Hội nghị Việt – Pháp tại Fontainebleau, tháng 7 năm 1946). Ảnh: Việt Linh.

Cái giá phải trả cho sự bỏ lỡ

Trong cuốn sách, tác giả đã đưa ra lập luận rằng Hội nghị Fontainebleau diễn ra sau Hiệp định sơ bộ 06/3 nên nếu một trong hai bên nhân nhượng thì hòa bình có thể được thiết lập, mặc dù nó “bấp bênh, mong manh và dễ tan vỡ” giống như “một đứa trẻ cần có cho tất cả sự yêu thương và chăm sóc của cả bố lẫn mẹ để sống sót”; còn cả hai bên giữ nguyên quan điểm thì “điều mà người ta gọi là chiến tranh Đông Dương” sẽ không thể tránh khỏi.

Tuy nhiên, tính cứng rắn trong chính sách của Pháp đã khiến cho những cuộc thương lượng không thể có kết cục tốt đẹp.

Mặt khác chúng ta còn được chứng kiến một bức màn chắn được dựng lên trong giới bảo thủ, từ Chủ tịch Herriot cho đến tướng de Gaulle thông qua Đảng Phong trào Cộng hòa bình dân, một kiểu liên mình thần thánh tự được thành lập để chống lại mọi thỏa thuận Việt – Pháp. Do vậy, vào thời điểm này, de Gaulle dứt khoát từ chối gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, mặc dù mỗi lần tiếp xúc với Sainteny, Chủ tịch Việt Nam đều bày tỏ mong muốn gặp ông.

Đề cập đến việc này tác giả cho rằng: Chính Pháp đã bỏ lỡ cơ hội cuối cùng để vãn hồi hòa bình, để thiết lập mối quan hệ hữu nghị với Việt Nam trong bối cảnh các nhà lãnh đạo Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh có mặt tại nước Pháp lúc đó và cái giá phải trả cho sự bỏ lỡ này là rất lớn.

Cuối cùng, dù hai bên trực tiếp đàm phán và ký kết hai hiệp ước ngoại giao (Hiệp định sơ bộ 06/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946), nhưng nền hòa bình không được cứu vãn, dẫn đến cuộc chiến tranh kéo dài tới 8-9 năm.

Tác giả viết: “Làm thế nào để từ giai đoạn đầu tiên của thỏa thuận đã được cụ thể hóa trong Tạm ước, người ta có thể bước đến một cuộc chiến tranh thực sự, và vượt quá giới hạn mà văn kiện này đã xác định. […] Thời khắc đã đến, giống như tướng Valluy đã viết cho cấp dưới của ông ấy, thời khắc mà ‘những dự tính đáng trân trọng không còn hợp thời’ và cần phải cho họ ‘một bài học’ nghiêm khắc.

‘Bài học nghiêm khắc bắt đầu’, chúng ta biết điều đó, bằng cuộc nã pháo của ba chiến hạm Pháp vào ba khu phố đông dân của Hải Phòng. […] ‘Bài học’ kéo dài trong 7 năm ròng, rồi kết thúc bằng một cách không giống như những người khởi xướng ra nó mong muốn, ở Điện Biên Phủ. Đó là một cơn hấp hối thuộc địa dài, rất dài…”.

Trong phần Phụ lục IX của cuốn sách có tên là “Cái giá phải trả cho thất bại ở Fontainebleau (những thiệt hại ở Đông Dương)” gồm 4 trang, tác giả cho biết tổng thiệt hại của Quân đội Pháp và các quốc gia liên kết là: 318.702 người, riêng lính gốc Pháp chiếm khoảng 20,5 % con số đó.

Tạm ước 14/9: Trí tuệ Hồ Chí Minh

Bên cạnh Hội nghị Fontainebleau, nhan đề của cuốn sách cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân vật trung tâm của mọi sự kiện ở giai đoạn này. Tác giả đã phác họa người đứng đầu Nhà nước Việt Nam một cách chi tiết, sinh động với tư cách là một nhà chính trị dày dạn kinh nghiệm và là chiến lược gia thiên tài.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá chính xác về tình hình chính trị “nội bộ” của Việt Nam và Pháp lúc đó, cũng như nhìn ra một cách thấu đáo xu thế phát triển trong quan hệ quốc tế sau Thế chiến thứ hai. Ngay sau Hiệp định sơ bộ 06/3/1946, Người đã nhận thấy rằng: “Hòa bình hay chiến tranh cuối cùng sẽ được lựa chọn ở Paris. Phải đi Paris một cách nhanh nhất…”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đi Paris với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp chứ không phải là trưởng đoàn đàm phán. Với tư cách này Người đã gặp gỡ bạn bè, trao đổi với chính giới, báo giới và doanh nghiệp Pháp.

Khi Hội nghị Fontainebleau thất bại, Chủ tịch Hồ Chí Minh chắc chắn chiến tranh sẽ xảy ra nhưng không thể về nước với hai bàn tay trắng. Ngày 14/9, một văn kiện ngoại giao mang tên Tạm ước Pháp – Việt đã được đại diện Chính phủ hai nước ký kết, phía Chính phủ Việt Nam là Chủ tịch Hồ Chí Minh, còn phía Chính phủ Pháp là Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại Marius Moute.

Tạm ước 14/9 có thể được coi là thành quả mà hai bên Pháp và Việt Nam đạt được tại Hội nghị Fontainebleau tuy hội nghị chính không mang lại thỏa thuận. Đối với Việt Nam, bản Tạm ước có ý nghĩa chiến lược ở chỗ, nó khẳng định Hiệp định Sơ bộ 06/3, trực tiếp đưa vấn đề độc lập thống nhất của Việt Nam ra trước chính giới và công luận Pháp, tạo vị thế cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và cứu vãn hòa bình khi ta còn có thể.

Giải thưởng Sách Quốc gia do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Xuất bản Việt Nam tổ chức. Lễ trao Giải thưởng Sách Quốc gia lần thứ sáu (2023) tổ chức ngày 29/12/2023 tại Nhà hát Lớn (Hà Nội). Đơn vị tài trợ Kim cương: Ngân hàng VIB, Đơn vị tài trợ bạc: THACO.

Nguồn: https://znews.vn/hoi-nghi-fontainebleau-sai-lam-va-cai-gia-phai-tra-cua-de-quoc-phap-post1450775.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng