Connect with us

Sách hay

Chuyện kể từ biên giới phía Bắc: Không sự hy sinh nào bị quên lãng

Được phát hành

,

Thông qua tư liệu, số liệu, câu chuyện từ hàng trăm nhân chứng, sách “Những mảnh ký ức 1979-1989 – Chuyện kể từ biên giới phía Bắc” là một lời tri ân và khẳng định: Không sự hy sinh nào bị quên lãng.

Nhung manh ky uc anh 1

Tập hợp và hệ thống hàng trăm tư liệu quý chắt lọc từ sách, báo, tạp chí tiếng Việt và tiếng nước ngoài; kết nối và thu thập hàng trăm câu chuyện qua lời kể của các nhân chứng, cuốn Những mảnh ký ức 1979-1989- Chuyện kể từ Biên giới phía Bắc của ba tác giả Đào Thanh Huyền – Hà Hương – Phạm Hoài Thanh đã kể lại lịch sử cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc với nhiều cảm xúc và góc nhìn khác nhau.

Chắp nối lại những mảnh ghép không liền mạch

45 năm trước, ngày 17/2/1979, súng đã nổ trên khắp dải biên cương phía Bắc của Tổ quốc. Thêm một lần nữa quân và dân ta phải thực hiện một cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới trước quân xâm lược.

Cuộc chiến ác liệt và đầy hy sinh mất mát này đã kéo dài 9 năm liên tục sau đó, mà trọng điểm là chiến trường Vị Xuyên – Hà Tuyên (nay là Hà Giang) cuối cùng cũng đã kết thúc.

Thế nhưng nó đã để lại nhiều di chứng cho rất nhiều người, nhất là với những người lính trẻ phải gồng mình dưới bom khốc liệt. Họ đã chứng kiến bạn thân, đồng đội, đồng hương ra đi trong một chớp mắt; tự tay chôn đồng đội hay bị vùi lấp bởi đạn pháo. Họ đã để lại tuổi xuân và một phần thân thể của mình nơi chiến trường…

Nhung manh ky uc anh 2
Hai trang trong cuốn sách. Nguồn ảnh: NXB Trẻ.

Theo tác giả Hà Hương (Lời ngỏ của nhóm biên soạn), sau chiến tranh, nhiều người lính đã trở về quê hương, nhiều người chọn ở lại chiến trường và có những người đi đến miền đất mới. Họ ngỡ ngàng trước hậu phương thời mở cửa. Nhiều người cảm thấy bị lãng quên, giằng xé và sang chấn tâm lý… có người không chia sẻ ký ức với ai ngoài đồng đội. Sau 40 năm, câu chuyện của họ là những mảnh ghép không liền mạch.

Với suy nghĩ không để sự hy sinh nào bị quên lãng, tôn trọng và không quên lịch sử, không quên những người đã ngã xuống, nhìn về quá khứ để hướng tới tương lai, ba tác giả Đào Thanh Huyền – Hà Hương – Phạm Hoài Thanh đã thực hiện một dự án nhằm tái hiện lại một phần nào đó về cuộc chiến để người đọc hiểu hơn về chiến tranh và trân trọng hơn những gì ta có ngày hôm nay.

Điều này đúng với tinh thần lời phát biểu của nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: “Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương sẽ không bao giờ quên lãng việc tri ân chiến sĩ và đồng bào đã ngã xuống trong cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc. […] Chúng ta ghi dấu nơi xảy ra tội ác không phải để nhắc lại mối thâm thù mà để tôn trọng lịch sử, giáo dục và xây dựng biên giới hai nước cùng hợp tác, phát triển trong hòa bình…”.

Hay như lời của Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm, nguyên Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam: “Biên cương đã im tiếng súng, nhưng thời gian không thể làm suy suyển sự thật và bản chất lịch sử. Lịch sử cần được nhìn nhận, ghi nhớ, không phải nhen lên thù hận dân tộc, mà để xây đắp cho ước vọng hòa bình, để chúng ta không bao giờ bị bất ngờ trong nhiệm vụ tối hậu: bảo vệ độc lập chủ quyền thiêng liêng…”.

Góp phần lấp đầy những khoảng trống tư liệu

Và sau ba năm tính từ ngày khởi động dự án đầu năm 2021, ba tác giả đã tiếp xúc được một lượng lớn tư liệu, đi thực địa ở nhiều tỉnh biên giới phía Bắc trải dài 1.400 km, phỏng vấn được hàng trăm nhân chứng…

Kết quả là cuốn sách Những mảnh ký ức 1979-1989- Chuyện kể từ Biên giới phía Bắc dày gần 300 trang, với nhiều tư liệu, hình ảnh, bản đồ, được thể hiện bằng ngôn ngữ đồ họa sống động theo phong cách báo hiện đại và gần 120 câu chuyện qua lời kể của các nhân chứng đã chính thức ra mắt bạn đọc.

Các tác giả đã tái hiện lại bức tranh tổng thể cuộc chiến từ nhiều góc cạnh và điểm nhìn khác nhau.

Mặc dù, tác giả Hà Hương khiêm tốn khi nói rằng gần 120 người kể chuyện bao gồm người dân cựu chiến binh chỉ là con số rất nhỏ so với hàng trăm nghìn người đã phải trải qua 10 năm bi thương, nhưng với những gì đã làm được, các tác giả đã tái hiện lại bức tranh tổng thể cuộc chiến từ nhiều góc cạnh và điểm nhìn khác nhau.

Đồng thời, nhóm tác giả cũng góp phần lấp đầy những khoảng trống tư liệu và nối dài những cảm xúc đáng trân trọng, tự hào về những gì mà quân và dân ta đã làm được trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc.

Những mảnh ký ức 1979-1989- Chuyện kể từ Biên giới phía Bắc mở ra trang đầu tiên (được đặt trước cả lời giới thiệu sách) là hình ảnh tư liệu trang nhất Báo Nhân dân số 9036, ngày thứ ba (ra ngày 6/3/1979) đăng trang trọng Lệnh tổng động viên cả nước để bảo vệ Tổ quốc của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng và Quyết định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổng động viên và huy động mọi nhân lực tài lực vật lực để đảm bảo yêu cầu của cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc.

Một tin khác cũng được đăng trên trang báo này là Cả nước nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng: 3.000 đoàn viên và thanh niên Hà Nội hô vang Năm lời thề quyết thắng.

Nhung manh ky uc anh 3
Bản tin Tổng động viên in trên báo Nhân Dân được đưa vào cuốn sách. Nguồn ảnh: NXB Trẻ.

Bố cục của cuốn sách gồm 4 chương. Mỗi chương đều được đặt tên dựa trên những câu trích từ những bài hát về chiến tranh biên giới.

Chương 1 “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới” là câu trích từ bài hát Chiến đấu vì độc lập, tự do của nhạc sĩ Phạm Tuyên sáng tác ngay trong đêm 17/2/1979.

Sách trình bối cảnh lịch sử kèm theo đồ họa mô phỏng hình vẽ sơ đồ cuộc chiến tranh xâm lược của địch (ngày 17/2) đăng trên Báo Quân đội Nhân dân số 6348, ra ngày 18/2/1979.

Tiếp đó là hình ảnh sơ đồ trận địa ở các mặt trận Lạng Sơn, Hà Tuyên, Cao Bằng, Quảng Ninh, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu và câu chuyện của những người lính (các nhân vật có địa chỉ cụ thể, hình ảnh kể về những thời điểm cụ thể) trên các mặt trận này. Sau cùng là hình ảnh vũ khí trang thiết bị của Quân đội Nhân dân Việt Nam (1979) gồm: vũ khí trang bị cá nhân, hỏa lực bộ binh, pháo binh, xe cơ giới.

Với việc sắp xếp lớp lang như vậy, người đọc dễ dàng hình dung thời điểm, diễn biến cũng như cảm xúc của người trong cuộc. Chẳng hạn, ở mặt trận Cao Bằng, nhóm tác giả đã đưa vào 10 câu chuyện của những người lính thuộc tỉnh đội Cao Bằng (trung đoàn 567; trung đoàn 851, sư đoàn 364, huyện đội Quảng Uyên).

Mỗi câu chuyện của mỗi nhân chứng / người trong cuộc là một mảnh ký ức đồng thời là một cuộc phỏng vấn – tác nghiệp của nhóm tác giả (đều là nhà báo).

Qua lời kể giản dị, chân thực, khách quan của họ (nhóm tác giả gần như không diễn đạt lại), bên cạnh những thông tin về bản thân họ như thời gian nhập ngũ quá trình chiến đấu, chúng ta biết được diễn biến ở mặt trận Cao Bằng trong những ngày đầu của cuộc chiến, như: Tình hình hậu cần, chuyện sinh hoạt ở chiến trường, vấn đề công sự, quân tiếp viện, vũ khí, sức chiến đấu, bắt tù binh, những tổn thất, và cả cảm xúc của người lính trước cái chết cận kề…

Chương 2 “Lửa đã cháy và máu đã đổ trên khắp dải biên cương” cũng là câu trích từ bài hát trên. Chương 2 bắt đầu bằng hình ảnh Báo Nhân Dân số 9020 ra ngày 18/2/1979 đăng toàn văn Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam về cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới phía Bắc.

Tiếp đó hình ảnh hàng vạn người dân, trốn chạy trong cảnh màn trời chiếu đất, hình ảnh thảm sát ở Tổng Chúp (Cao Bằng) và những câu chuyện được kể bởi các nhân chứng là những người dân (ở các tỉnh Biên giới) và những người lính không mang súng (đó là các phóng viên xung kích ở mặt trận, những trí thức sẵn sàng gác bút nghiên tòng quân xung trận, những cán bộ trên mặt trận ngoại giao).

Qua câu chuyện của họ, chúng ta biết thêm đời sống thực tế của người dân vùng biên giới trong chiến tranh, không khí sục sôi của đất nước sau lời kêu gọi Tổng động viên, đời sống của những quân nhân trong thời chiến, hành trình tác nghiệp của các phóng viên trên chiến trường, cuộc chiến cân não trên bàn đàm phán…

Chương 3 “Sống bám đá đánh giặc, chết hóa đá bất tử” là câu mở đầu bài hát Lũy đá bất tử của nhạc sĩ Trương Quý Hải. Ông từng là thành viên của đội tuyên văn thuộc phòng Chính trị Sư đoàn 365 và từng có mặt tại Mặt trận Vị Xuyên.

Từ số liệu thống kê được đồ họa hóa và những câu chuyện của người lính và người dân, chúng ta biết thêm cuộc chiến ác liệt và đầy hy sinh mất mát kéo dài 9 năm liên tục, mà trọng điểm là chiến trường Vị Xuyên – Hà Tuyên (nay là Hà Giang) với hàng trăm trận đánh giành giật từng cao điểm giữa ta và địch. Tất cả vì một mục tiêu là chiến đấu để giữ đất bằng mọi giá.

Chương 4 “Có một bài ca không bao giờ quên” là câu mở đầu của bài hát Bài ca không quên của nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn sáng tác năm 1981. Đây là bài hát viết cho bộ phim cùng tên của đạo diễn Nguyễn Văn Thông chiếu năm 1982.

Nội dung chương sách là hình ảnh về ngày Giỗ trận theo cách gọi của các cựu chiến binh và ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7 ở Nghĩa trang Liệt sĩ Vị Xuyên. Vẫn còn đó rất nhiều câu chuyện cho thấy nỗi đau và niềm day dứt của người, nhưng cuốn sách khép lại bằng việc nhân dân hai nước đi lại với nhau, mở ra mốc khởi đầu cho sự bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.

Nhung manh ky uc anh 4
Sơ đồ trận địa ở Mặt trận Vị Xuyên.

Nhận xét về cuốn sách Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm, nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, cho rằng có thể cuốn sách chưa phải là toàn bộ cuộc chiến và có lẽ không một cuốn sách nào có thể làm được nhiệm vụ này. Tuy vậy, việc cho ra đời những cuốn sách thế này là rất cần thiết, đặc biệt có ý nghĩa đối với thế hệ trẻ tuổi, chưa từng kinh qua chiến tranh.

Việc cho ra đời những cuốn sách thế này là rất cần thiết, đặc biệt có ý nghĩa đối với thế hệ trẻ tuổi, chưa từng kinh qua chiến tranh.

Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm

“Với tư cách một độc giả, đồng thời là một cựu binh, tôi thấy câu chuyện lịch sử được kể và tái hiện ở nhiều phương diện, góc nhìn, gồm đa dạng các nguồn tin chính thống khả tín kết hợp với tư liệu phỏng vấn công phu. Cuốn sách được tổ chức theo hình thức hiện đại, nhưng vẫn bám sát tình hình chiến sự nóng hổi của 40 năm về trước, điều đó chắc chắn sẽ giúp bạn đọc ở nhiều thế hệ dễ tiếp cận hơn cuộc chiến đặc biệt này”, Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm viết.

Nguồn: https://znews.vn/chuyen-ke-tu-bien-gioi-phia-bac-khong-su-hy-sinh-nao-bi-quen-lang-post1490515.html

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng