Connect with us

Tác giả

Thanh Tịnh làm báo Tết

Được phát hành

,

Ðược ở gần nhà thơ Thanh Tịnh chừng hai chục năm thôi, nhưng tôi biết ông là một “tỉ phú” về ngôn từ, chữ nghĩa.

Tôi có may mắn được làm việc ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội ngót ngét 40 năm. Ở Nhà số 4, tôi lại may mắn được gần những bậc thầy, những bậc đàn anh về viết báo, làm báo như Thanh Tịnh, Mai Ngữ, Hồ Phương, Xuân Thiều, Vương Trí Nhàn, Ngô Thảo…, đặc biệt là “sư phụ” Thanh Tịnh, Tổng biên tập thứ hai của Văn nghệ Quân đội. Những câu chuyện làm báo của ông cả trong cương vị lãnh đạo Văn nghệ Quân đội và ở vị trí một người làm báo đều khiến tôi nhớ mãi.

Ðược ở gần nhà thơ Thanh Tịnh chừng hai chục năm thôi, nhưng tôi biết ông là một “tỉ phú” về ngôn từ, chữ nghĩa. Không phải ngẫu nhiên mà anh em báo chí văn nghệ ở “phố nhà binh” gọi ông là “pho tự điển sống” là “bậc huynh trưởng”. Ông không chỉ viết báo, làm báo giỏi mà còn chỉ cho nhiều nhà báo trẻ cách viết báo, làm báo một cách rất cụ thể, như thầy trò, như bầu bạn như đồng nghiệp… Thanh Tịnh là vậy, làm báo, viết báo, kể cả báo Tết, báo Xuân, báo số đặc biệt…, làm cái gì cũng cứ nhẹ tênh tênh, nhưng để theo ông, học ông thật chẳng dễ chút nào. Ðôi khi chỉ là để hiểu ý ông thôi mà mươi năm, thậm chí cả đời người vẫn chưa làm được.

Ðời làm báo của ông, như ông kể, tháng nào tuần nào cũng phải tự “trình diện” trước bạn đọc, bạn viết và… cấp trên. Tết, làm báo Tết mới bận rộn làm sao! Ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội có lệ mỗi lần Tết đến, mọi phóng viên trong tòa soạn phải góp một bài cho số báo đặc biệt này. Thơ còn không ngại, chứ đến truyện ngắn và các mục râu ria như giai thoại, thơ vui, câu đối cùng nhiều thể tài gọi là “bài vụn” khác, thì quả thật viết đã khó, mà chạy ra bài lấp đầy các số báo cũng không dễ… Tôi từng nghe kể, những lúc ấy nhà văn Nguyễn Minh Châu thường nhìn cánh “trực biên tập” (tức là đang lo dựng các số báo) một cách thương hại và tủm tỉm: “Trông kia kìa, chắc cụ Thanh Tịnh đã viết được vài bài rồi, giờ lại đang viết tiếp đấy. Tết năm ngoái đọc sơ sơ các báo, mình đếm chắc chưa đầy đủ mà đã có đến chục bài kí tên Thanh Tịnh. Ở nhà này về khoản làm báo, cánh cầm bút lớp sau cứ gọi là xách dép cho cụ Tịnh cũng không đáng”. Để tưởng nhớ nhà văn Tổng biên tập (Chủ nhiệm Tạp chí VNQĐ đời thứ 2, sau tướng Văn Phác), tôi xin kể vài câu chuyện về ông:

Advertisement

Nhà văn, nhà báo, nhà thơ (Tự họa)

Văn phẩm Thanh Tịnh để lại không thật đồ sộ, nhưng ông được người đời gọi là nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà thơ. Là nhà văn bởi ông có các tập truyện ngắn Ngậm ngải tìm trầm (1943) và trước đó là tập Quê mẹ (1941). Là nhà thơ bởi ngay từ năm 1937, lúc mới 26 tuổi ông đã cho in tập thơ Hận chiến trường nổi tiếng và đến năm 1942 được ghi danh trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân với những thi phẩm nổi tiếng như Mòn mỏi, Tơ trời và tơ lòng, Rồi một hôm

Thanh Tinh anh 1

Trước đó, năm 1936 ông đã đoạt giải Nhất về thơ do tờ Hà Nội báo tổ chức. Ông còn để lại cho đời rất nhiều câu ca dao bất hủ như: Nhà tan cửa nát cũng ừ/ Quyết tâm thắng Mỹ cực chừ sướng sau. Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong. Hà Nội, Huế, Sài Gòn/ Là cây một gốc là con một nhà…

Đời ông, một nhà thơ xứ Huế, một sĩ quan cao cấp của quân đội, nhưng lại đã từng “Trải qua mấy chục năm trường / Ăn cơm tập thể nằm giường cá nhân” ở Hà Nội. Những năm tháng “ngày Bắc, đêm Nam” ấy ông đã để lại biết bao nhiêu kỉ niệm trong làng văn, làng báo cùng rất nhiều giai thoại dọc “phố nhà binh” – Phố Lý Nam đế Hà Nội.

Thanh Tịnh luôn luôn có những câu nói “xuất khẩu thành vần”. Một lần có một bạn đọc đến thăm ông tại căn phòng vừa là chỗ ở vừa là nơi làm việc ở số 4 – Lý Nam Đế hỏi ông: “Dạ thưa bác, bác đi làm có xa không ạ?” Thanh Tịnh trả lời rằng “Thưa không phải đi đâu ạ!”.

Người nọ còn ngỡ ngàng chưa hiểu ra thì nhà thơ đã giải thích: “Tôi được người ta gọi bằng bốn danh hiệu: nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà thơ. Nhưng xin thưa: bốn nhà ấy hiện không nhà ở!”. Về sau, khi đã được Quân đội chia một căn hộ riêng bên số 8 – Lý Nam Đế, nhắc đến câu nói kia ông đề nghị sửa chữa thành: Nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà nghèo. Ông bảo đó là “chân dung tự họa” của ông.

Truyện ngắn và đồng hồ

Biên tập viên tờ báo nọ đến đặt Thanh Tịnh viết bài cho số báo tất niên. Anh ta thưa với nhà thơ rằng ông là một tác giả viết nhanh, luôn đúng hẹn, lại là người “sáng lập” ra mục “những đoạn văn ngắn” của tờ Văn nghệ Quân đội và đặt vấn đề với ông viết cho một truyện ngắn.

Advertisement

Anh biên tập viên tin rằng với thời gian “cần”, “gấp” nhất định nhà thơ sẽ có truyện ngắn gửi đăng. Nghe xong Thanh Tịnh bảo: Sao không đặt mình viết truyện dài? Người khách nọ: Dạ sợ bác không đủ thời gian ạ. Nhà thơ cười: Vậy ra theo anh làm một cái đồng hồ nhỏ và chạy tốt lại dễ hơn làm cái đồng hồ to à?.

Văn chương và bánh chưng

Nhà thơ Thanh Tịnh xa quê đúng 30 năm và đón Tết một mình cũng đủ 30 lần. Nhưng với ông, Tết nhất luôn luôn phải vui vẻ. Buồn đến chết, Tết cũng vui, ông hay nhắc đi nhắc lại câu ấy mỗi năm hoa đào nở. Và như đã thành tục lệ, dù là “ăn cơm tập thể, nằm giường cá nhân” mỗi Tết trong phòng ông đều có bánh chưng, hoa đào và dĩ nhiên là cả báo Tết cùng một vài câu đối do ông sáng tác để mừng xuân, mừng Tết, mừng tuổi bạn bè, người thân…

Có một năm, hai mươi ba Tết ông Táo rồi mà ông vẫn chưa nghĩ được một vế tiếp theo của đôi câu đối mừng một tờ báo lớn kỉ niệm 50 năm ra số đầu tiên. Nhìn chiếc bánh chưng, cành đào nhỏ và chồng báo Tết của ông, người bạn nhà báo tức cảnh làm mấy câu thơ:

Tết nhất năm nay bác rất xôm

Bánh chưng xếp lộn với văn chương

Advertisement

Cành đào hé đúng mười ba nụ

Câu đối mừng ai viết nửa chừng…

Nghe vậy nhà thơ xứ Huế cười xí xóa: “Mới chiều 23 mà. Thời gian từ đây đến giao thừa còn dài dài. Thế nào rồi cũng xong. Với tui ‘tuổi tuy hưu trí, chí chưa hưu’ mà!”

Chữa cháy báo xuân

Tờ báo nọ dự định ra số xuân sớm hơn mọi năm vì quan niệm báo Tết là thứ hàng hóa, phải kịp thời đến tay bạn đọc. Nhưng hiềm một nỗi ông họa sĩ “mi” tính toán số chữ không chính xác nên khi “bông” ra thấy “thủng” rất nhiều chỗ. Đưa ảnh vào cũng được nhưng kiếm không ra, đưa bài khác vào thì đảo lộn hết ý đồ mà cũng chẳng đủ “đất”. Viên thư kí tòa soạn nhanh ý guồng xe đến “cụ” Thanh Tịnh xin vài mẩu chuyện hoặc câu đối để “lấp chỗ trống”.

Thanh Tinh anh 2

Năm ấy tuổi đã thất thập cổ lai hi nên viết lách có phần chậm. Có tí vốn liếng nào cũng “bị” các báo Tết khác nhanh chân hơn đến “chộp” trước mất rồi, vì thế nên khi nghe lời “thỉnh cầu” đầy vẻ S.O.S của người thư ký tòa soạn ông cũng rất lo. Nhưng chỉ một thoáng đã thấy ông hỏi:

– Bản bông có đây không?

Advertisement

Người thư kí mở cặp đưa ra cho nhà thơ xem. Quả là bị “thủng” đến mấy chỗ. Dường như không phải suy nghĩ nhiều, nhà thơ cao niên vớ lấy cây bút bi, giương kính lão lên và viết liền vào mấy chỗ trống kia. Chỗ thì chữ “vi nhét”, chỗ thì chữ “hoa đào”. Chỗ “thủng” hơi to thấy ông “lia” vội “câu đố”:

Phần đầu tôi mệt lắm rồi

Phần đuôi lặng lẽ giúp người che thân

Nếu ai đem ghép hai phần

Tôi kêu một tiếng xa gần biết tên

Advertisement

Sau đó ghi thêm chữ “là chữ gì?” trong ngoặc đơn và tiếp chữ “xem giải đáp trang…”. Ông lật đi lật lại bản “bông” và tìm ra một chỗ “thủng” khác để “lia” bút viết lời giải đó: Pháo (ph: mệt phờ + áo = pháo). Đoạn ông bỏ kính, cất bút trao bản “bông” cho người khách và bảo “ổn chưa?” Người nọ chỉ biết “dạ” và guồng xe trở lại nhà in…

Thay cho lời kết

Năm ấy nghe tin Thanh Tịnh ốm nặng, Đỗ Chu vừa từ Bắc Ninh xuống sang ngay nhà thăm. Lâu ngày đôi bạn một già một trẻ mới gặp nhau, chuyện trò vui vẻ đến nỗi Thanh Tịnh như khỏe ra. Ông gượng dậy lấy rượu mời Đỗ Chu và câu chuyện thêm vui, thêm cả buồn lẫn lộn.

Nghe Thanh Tịnh nói về cuộc đời phiêu bạt, đơn côi của mình, Đỗ Chu thương lắm. Là người biết ít chữ Hán, chữ lại đẹp anh bèn cầm cây bút dạ viết luôn câu: Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân (trong bài thơ chữ Hán Dạ hành của thi hào Nguyễn Du) tặng nhà thơ già. Thanh Tịnh trân trọng treo câu thơ đó lên tường sát chỗ giường nằm.

Không ngờ mấy ngày sau bệnh ông càng thêm nặng, ông phải vào Viện Quân y 108… Và trước phút tác giả của Quê mẹ về quê mẹ, Đỗ Chu cũng có mặt. Nhà thơ còn níu nhìn người bạn văn trẻ và thều thào đọc câu thơ nọ Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân (nghĩa là: Trên con đường nhỏ, gió lạnh dồn thổi vào một người – thơ Nguyễn Du)… Không một ai ở đó khi ấy cầm nổi nước mắt!

Quả câu thơ rất hợp với ông, nhưng tôi nghĩ con đường xưa ông đi, quá khứ đời ông trải không chỉ có gió lạnh, đường xa và sự đơn côi mà còn có cả những chặng đường hoa cùng những ngày ấm áp nơi chiến khu xa và trên những con đường đường Hà Nội rụng vàng lá me lá sấu!

Advertisement

Nguồn: https://zingnews.vn/thanh-tinh-lam-bao-tet-post1396491.html

Tiếp tục đọc
Quảng cáo
Nhấn vào đây để bình luận

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Tác giả

Nữ tác giả viết để chữa lành thương tổn

Được phát hành

,

Bởi

Ở những tháng ngày chông chênh nhất, Amanda Huỳnh đã đặt bút viết để tự chữa lành tổn thương.

Chua lanh thuong ton anh 1

Tác giả Amanda Huỳnh.

Nhà văn Amanda Huỳnh từng ký họa 2 cuốn sách Lam, Có hẹn với Paris. Đây là nhật ký ghi lại những gì cô trải qua và tích luỹ từ cuộc sống.

Ngày 31/3, Amanda Huỳnh sẽ chính thức ra mắt cuốn sách Nơi chúng ta thuộc về. Cô mở đầu tác phẩm bằng lời tựa ám ảnh: “Một tuổi thơ lạc lõng của đứa trẻ lớn lên trong một gia đình đổ vỡ. Một thanh xuân ngông cuồng mập mờ giá trị của bản thân”. Ở những tháng ngày chông chênh nhất, cô đã đặt bút viết để chữa lành tổn thương của mình.

Chua lanh thuong ton anh 2

Nhà văn tâm sự: “Thật ra nơi chúng ta thuộc về không phải là một nơi, một chốn hữu hình. Đã không ít lần giữa những đêm say, những cuộc vui rộn ràng, bạn sẽ tự hỏi liệu mình có thuộc về nơi này? Với tôi, vào một đêm trên chuyến xe ở Reykjavík, giữa con đường xa lộ ngút ngàn, phía đường trời ánh tím ửng hồng, hai bên là những triền núi lửa trắng xoá, bài hát của Asgeir trong album In the silence khẽ vang, tôi đặt tay phải trên dòng chữ ‘biết ơn’ trên tay trái mình và cảm thấy hạnh phúc. Cũng là những chuyến đi, nhưng khác những chuyến đi tuổi trẻ, đã từ lâu, tôi biết nơi trái tim tôi thuộc về”.

Nơi chúng ta thuộc về gồm 3 chương: Yêu – Thương – Tha thứ. Nhà văn viết cuốn sách này vì chính mình và muốn thấu hiểu bạn đọc. “Biết đâu trong những gì tôi sắp kể ra đây, bạn đã hoặc đang chuẩn bị trải qua những gì gần giống như vậy. Biết đâu ở một khoảnh khắc nào đó, chúng ta đã rất giống nhau. Trong khoảng trắng giữa hai dòng chữ, biết đâu ta hiểu nhau. Trong giây phút ngắn ngủi ấy, bạn có tôi và tôi có bạn. Và mong muốn lớn nhất của tôi, đó là bạn biết bạn không chỉ có một mình”, Amanda Huỳnh nói.

Advertisement

Nguồn: https://zingnews.vn/nu-tac-gia-viet-de-chua-lanh-thuong-ton-post1388654.html

Tiếp tục đọc

Tác giả

Tại sao hình tượng Allan Poe tràn ngập trong ‘Wednesday’

Được phát hành

,

Bởi

Những người bình thường khi cô đơn và không được ai thấu hiểu, đã tìm thấy bản thân mình trong hình ảnh mệt mỏi nhưng khôn ngoan của Poe.

the pale blue eye anh 1

Ảnh trong phim The pale blue eye.

Gần đây, Netflix đã phát hành bộ phim bí ẩn kinh dị The Pale Blue Eye với nhân vật tên Edgar Allan Poe, lấy cảm hứng từ nhà văn Edgar Allan Poe, là một học viên tại học viện Quân sự Mỹ. Bên cạnh đó, trong năm 2023, Netflix cũng có dự định ra mắt một bộ phim truyền hình ngắn tập dựa trên truyện ngắn Sự sụp đổ của dòng họ Usher của nhà văn Edgar Allan Poe.

Hình tượng yếu thế của Poe trên màn bạc

Edgar Allan Poe vẫn luôn là một trong những nhà văn nổi tiếng và được biết đến nhiều nhất trên thế giới. Ông được nhiều người coi là nhân vật trung tâm của Chủ nghĩa lãng mạn ở Mỹ và của văn học Mỹ. Edgar Allan Poe còn được coi là người phát minh ra thể loại tiểu thuyết trinh thám, đồng thời là người có đóng góp đáng kể cho thể loại khoa học viễn tưởng mới nổi.

Bước sang thế kỷ 20, người ta vẫn xem đại văn hào như một kẻ yếu thế trong xã hội bất công. Một số vở kịch tiểu sử Poe đã mô tả ông như một nhân vật bất hạnh, nạn nhân của nền văn hóa và môi trường xuất bản thù địch, những tác phẩm của ông do đó chưa có được thành công thời điểm ấy.

Advertisement

Hình tượng này đã xuất hiện trên màn bạc vào đầu năm 1909 trong phim ngắn Edgar Allan Poe của D.W. Griffith. Để có tiền trang trải cho người vợ ốm yếu, nhà thơ đã phải đem bán bài thơ Con quạ. Bị từ chối, thậm chí bị coi thường, song cuối cùng, ông vẫn xoay sở bán được bản thảo và có tiền mua các thứ thiết yếu cho người bệnh, chỉ để khi trở về nhà, ông phát hiện vợ mình đã qua đời.

Những bộ phim sau này cũng khắc họa Poe là một nhà văn, nhà thơ bị đánh giá thấp và không được hiểu đúng ở thời của mình. Một bộ phim tiểu sử cực kỳ thiếu tính chính xác ra mắt vào năm 1942, The Loves of Edgar Allan Poe, đã kết thúc với giọng thuyết minh: “…công chúng không biết rằng bản thảo của bài thơ Con quạ, cuốn bản thảo nhà văn đã cố gắng để bán được với giá 25 đô, sau này đã được một tay sưu tầm rao bán với giá 17.000 USD”.

Thực tế, quả thực những bản phác thảo đầu tiên của Con quạ bị từ chối bởi một biên tập viên nhưng Poe đã không gặp khó khăn gì trong việc bán bài thơ, và nó thậm chí còn lập tức gây chấn động trong công chúng.

Dẫu sao, Con quạ cũng đã trở thành biểu tượng cho chính Poe, ẩn dụ về một tuyệt tác đầy bí ẩn và tăm tối mà những người cùng thời không hiểu được.

Trong bộ phim The Man with a Cloak (1951), nhân vật Dupin lấy cảm hứng từ Poe là một nhà văn không ai biết đến đồng thời là một thám tử nghiệp dư. Bộ phim kết thúc với hình ảnh người chủ quán rượu để nước mưa làm mờ đi nét mực trên tờ giấy ghi nợ của Dupin. Mặt trái của tờ giấy là bản thảo gốc bài thơ Annabel Lee, mà như người cầm nó đã cam đoan rằng: “Cái tên này sẽ chẳng bao giờ nổi danh. Cả trăm năm nữa cũng không”. Về điều này, hẳn những khán giả của bộ phim ở 100 năm sau sẽ biết rõ hơn.

Advertisement

Học viện Nevermore và nỗi đau buồn bất tận

Trong bộ phim The Pale Blue Eye, Harry Melling vào vai Edgar Allan Poe, một chàng trai lập dị nhưng có khả năng phá án siêu việt. Phiên bản thanh niên của Poe rõ ràng là một thay đổi mới mẻ, ông không còn được mô tả như một nghệ sĩ bị hành hạ hay một nhân vật ám ảnh, buồn bã. Dù vậy, Poe trong The Pale Blue Eye vẫn bị bắt nạt bởi các bạn đồng nghiệp và bị cấp trên coi thường. Ông vẫn được khắc họa như một kẻ yếu thế mà công chúng muốn cổ vũ.

Poe trong The Pale Blue Eye là một nhân vật hiện đại phù hợp với hình tượng đương đại của ông, một hình tượng tràn ngập trong các tập đầu của Wednesday, phần ngoại truyện của Addams Family lấy bối cảnh ở học viện Nevermore, nơi có rất nhiều ẩn dụ về Poe.

Cô hiệu trưởng của học viện Nevermore – một trường học phép thuật như Hogwarts nhưng dành cho những kẻ bị xã hội ruồng bỏ – đã nhắc đến Poe như là “học viên nổi tiếng nhất” của trường. Điều này giải thích tại sao giải đua thuyền thường niên của trường là Cup Poe và tại sao có một bức tượng của Poe canh gác lối đi bí mật.

the pale blue eye anh 2

Nhân vật chính Wednesday do Jenna Ortega thủ vai.

Nhân vật chính Wednesday do Jenna Ortega thủ vai, là một người chống đối xã hội đầy thú vị, một kẻ bị ruồng bỏ trong số những kẻ bị ruồng bỏ – cô là hiện thân của Poe trong học viện mang cái tên gợi lên Poe.

Trong một phân đoạn, một giáo viên đã khuyến khích cô bé hãy giữ lấy “khả năng không để người khác định nghĩa mình. Đây là một tài năng thiên bẩm, một món quà”. Cô giáo cũng nói thêm: “Những cái cây thú vị nhất mọc trong bóng râm”.

Advertisement

Khi John Lennon hát “Chà, bạn phải nhìn họ đá Edgar Allan Poe” trong bài hát I Am the Walrus, anh ấy đã không cần giải thích ai đá Poe hay vì sao. Trọng điểm là, Poe xứng đáng với những điều tốt hơn; những cái cây thú vị nhất mọc trong bóng râm, xấu xí và thiếu thốn tình thương.

Đó chính xác là lí do rất nhiều người – những nhà văn và các nghệ sĩ được truyền cảm hứng, nhưng cũng đồng thời là những người bình thường khi cô đơn và không được ai thấu hiểu – đã tìm thấy bản thân mình trong hình ảnh mệt mỏi nhưng khôn ngoan của Poe.

Nguồn: https://zingnews.vn/tai-sao-hinh-tuong-allan-poe-tran-ngap-trong-wednesday-post1413284.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Tác giả

Nghị lực phi thường của tác giả ‘Thép đã tôi thế đấy’

Được phát hành

,

Bởi

Nikolai Ostrovsky là một nhà văn tài năng. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Ostrovsky là cuốn tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy”.

Nghị lực phi thường và khát khao sáng tác đã giúp một con người bị mù, bại liệt tạo ra một tác phẩm được các thế hệ tìm đọc, trở thành cuốn sách gối đầu giường của nhiều người, được xuất bản tại 47 quốc gia với 56 thứ tiếng.

Bản thân nhà văn cho biết chính việc viết cuốn tiểu thuyết này đã không cho phép ông đánh mất ý chí và khát vọng được sống trở lại. Tính cách thép của Ostrovsky đã được tôi luyện trong những hoàn cảnh vô cùng nghiệt ngã.

Tuổi thơ và tuổi trẻ

Nikolai Alexeevich Ostrovsky sinh ngày 29/9/1904 trong một gia đình khá giả ở làng Viliya, tỉnh Volyn. Thời thơ ấu là khoảng thời gian hạnh phúc nhất trong cuộc đời nhà văn. Khi Nikolai đến tuổi thiếu niên, gia đình trở nên nghèo khó và dân làng không có nhiều tình cảm đối với những người giàu có trước đây. Ngoài ra, vào thời điểm này, chiến tuyến của Thế chiến I đã đến gần ngôi làng địa phương. Người mẹ đã đưa các con rời đến Shepetinka – một ngã ba đường sắt lớn.

Advertisement

Tại đây, Nikolai bắt đầu làm việc trong căng-tin của nhà ga, nhưng tiền lương thấp và không đủ sống. Ostrovsky đặc biệt thông minh và học rất giỏi, anh theo học trường giáo xứ và tốt nghiệp loại xuất sắc. Sau đó, anh vào một trường trung cấp, đồng thời làm đủ mọi công việc, từ đốt lò, thợ làm khuôn cho đến nhân công nhà bếp. Chàng trai trẻ đã không nề hà bất cứ công việc gì để giúp gia đình tồn tại.

Năm 1919, Ostrovsky gia nhập tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản Komsomol. Không lâu sau, anh ra mặt trận, chiến đấu rất kiên cường và quả cảm đến mức quên mình. Trong một trận chiến anh đã bị thương nặng, sau đó phải nằm viện hơn hai tháng. Hầu hết thời gian đó Nikolai bị bất tỉnh và mê sảng. Các bác sĩ đã hết hy vọng. Bất chấp tất cả, anh vẫn sống sót và đứng vững trở lại.

Nikolai Ostrovsky anh 1

Sau đó, Ostrovsky lại nhanh chóng ra tiền tuyến. Chỉ sau một thời gian ngắn, trong một trận chiến anh bị ngã từ trên lưng ngựa và bị thương ở cột sống và lại phải nhập viện. Các biến chứng đã khiến mắt của anh bị giảm thị lực, một mảnh đạn đã làm hỏng dây thần kinh của mắt phải. Sau đó, anh được chuyển sang đội dự bị, song con người dũng cảm không thể ngồi yên và không ngừng nghỉ đóng góp cho đất nước, ít nhất là ở hậu phương.

Người đoàn viên thanh niên cộng sản kiên cường Nikolai Ostrovsky đã đến Kyiv để góp sức khôi phục đường sắt. Công việc nặng nhọc, những người thợ xây sống trong khu nhà không có hệ thống sưởi, có rất ít thức ăn. Một ngày nọ, anh cảm thấy khắp người đau nhói. Anh đã gắng gượng dùng tất cả sức lực của mình vượt qua nó để đi làm việc như những người khác. Hậu quả là công trình chưa kịp hoàn thành thì chàng trai trẻ đã bị căn bệnh viêm đa khớp quật ngã. Các bác sĩ đã đưa ra một chẩn đoán đáng thất vọng: tất cả các khớp xương đang trong tình trạng dần bị cốt hóa. Hội đồng y khoa đã xếp anh vào nhóm khuyết tật, nhưng Ostrovsky đã từ chối tiền trợ cấp để giấu cha mẹ sự thật rằng anh đã trở thành người khuyết tật nhóm I.

Thép đã được tôi luyện

Ba năm sau, Ostrovsky được cử đến quận Berezdovski với tư cách là thư ký ủy ban quận Komcomol. Lúc này anh đi lại khập khiễng, khó nhọc và không thể di chuyển nếu không có đôi nạng. Song sự thương hại của những người xung quanh khiến anh vô cùng khó chịu và không thể chịu đựng được khi họ cố gắng giúp đỡ nên luôn giận dữ từ chối. Cuối cùng, anh đổ bệnh và tình trạng mỗi ngày càng trở nên tồi tệ. Các bác sĩ đề nghị Nikolai cắt cụt chân, nhưng anh cương quyết từ chối.

Trong một bức thư gửi cho người bạn của mình, Nikolai viết rằng anh tự thấy mình giống như một con sói con bị nhốt trong lồng, thậm chí còn không thể tự chải đầu. Sự bất lực này khiến cho nhà văn tương lai lo sợ đến mức anh đã gắng tập luyện đến khi kiệt sức với dụng cụ là một con lăn được đóng đinh vào trần nhà phía trên giường, một sợi dây thừng được vắt lên đó, một đầu dây được buộc vào chân. Nikolai dùng tay nắm lấy đầu dây bên kia. Khi anh kéo dây, hai chân anh nhấc lên, nhưng khi buông dây thì đôi chân lại thõng xuống. Những nỗ lực đến tuyệt vọng đã không có tác dụng và khả năng di chuyển không bao giờ khôi phục được nữa, đồng thời đôi mắt anh cũng đã bị hỏng hoàn toàn.

Advertisement

Tại thời điểm này, Nikolai nảy ra ý tưởng viết một cuốn tiểu thuyết. Anh phải chứng minh cho sự tồn tại của mình bằng cách nào đó, điều được coi là không hề dễ dàng. Đồng thời, Nikolai biết rất rõ rằng mình cần phải khẩn trương hơn. Anh đã yêu cầu người vợ Raisa viết lại những thứ mình đọc, song anh thấy thất vọng vì cô viết rất chậm. Với ánh mắt vô hồn, nhà văn đã nhìn thẳng về phía trước và cảm thấy như đã nhìn thấy tận mắt những gì mình đọc ra.

Raisa không thể luôn túc trực bên giường, cô còn phải làm việc. Nikolai bắt đầu tự mình viết. Anh lấy những tờ giấy và rất nỗ lực viết từng chữ bằng bút chì nhưng thấy rất khó để cầm bút bằng những ngón tay khó bảo của mình. Thường xuyên xảy ra hiện tượng các dòng chữ chồng lên nhau và những gì đã được viết ra sau đó không thể đọc được. Để khắc phục điều này, anh đã tạo ra một chiếc khuôn đặc biệt, trên tấm bìa cứng có khía những dòng kẻ dài rộng và anh đã viết lên đó.

Hầu hết Nikolai thường làm việc vào ban đêm. Người vợ anh để sẵn cho anh một tập giấy và vài cây bút chì được vót nhọn. Nhà văn đã làm việc suốt những đêm dài. Đến sáng, trên khắp sàn nhà trải đầy những tờ giấy viết nguệch ngoạc. Anh đánh số các trang rồi sau đó người nhà xếp chúng theo thứ tự. Một thời gian sau, một người hàng xóm là cô Galina Alexeevna bắt đầu giúp đỡ Ostrovsky. Với sự trợ giúp của cô, vào mùa thu năm 1931, anh đã hoàn thành phần đầu tiên của cuốn tiểu thuyết Thép đã tôi thế đấy. Trong cuốn tiểu thuyết, theo cách riêng của mình, anh đã truyền đạt tất cả những điều mà bản thân đã trải qua.

Ostrovsky gửi bản thảo cho Tạp chí Đội cận vệ thanh niên nhưng chỉ nhận được sự đánh giá tiêu cực. Nhà văn vẫn cố thuyết phục họ xem xét lại và rồi những trang viết vẫn được in. Các nhà xuất bản sách thì vẫn từ chối. Sau khi được đăng trên tạp chí, câu chuyện bắt đầu được tìm đọc rồi nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Trong các thư viện là những hàng người chờ đến lượt đọc và các buổi đọc truyện trực tiếp đã được tổ chức. Ostrovsky bắt đầu nhận được rất nhiều thư khen ngợi từ các độc giả biểu thị lòng biết ơn. Điều đó đã khích lệ anh rất nhiều. Anh đã sẵn sàng làm việc nhiều hơn trong lĩnh vực viết văn. Kể từ khi đó thành công đã trở nên trọn vẹn khi cuốn sách đã được đưa vào xuất bản. Ngay cả khi Ostrovsky còn sống, cuốn tiểu thuyết đã được tái bản hơn 40 lần.

Thành tựu trở thành di sản

Trong những năm tiếp theo, cuốn sách đã được dịch sang tiếng Nhật và tiếng Anh. Chưa dừng lại ở đó, tổng cộng cuốn tiểu thuyết đã được xuất bản tại 47 quốc gia với 56 ngôn ngữ khác nhau. Trong bản dịch tiếng Anh, cuốn Thép đã tôi thế đấy được đổi tên thành Tạo ra người anh hùngTrở thành anh hùng. Ostrovsky đồng ý với sự thay đổi đó, nhưng cũng yêu cầu có kèm theo tiêu đề gốc.

Advertisement

Tại Liên Xô, Thép đã tôi thế đấy đã trở thành cuốn sách được xuất bản nhiều nhất. Chỉ tính riêng xuất bản phẩm bằng tiếng Nga đã có hơn 500 lần tái bản. Còn trong số 75 ngôn ngữ của các dân tộc Liên Xô, cuốn tiểu thuyết được xuất bản tới 773 lần với số lượng phát hành hơn 53 triệu bản! Cuốn tiểu thuyết cũng ba lần được dựng thành phim vào các năm 1942, 1956 và 1973. Trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, cuốn truyện đã được đọc trước những người lính trong chiến hào. Một con phố ở Moscow thậm chí còn được đặt theo tên của nhân vật chính – đây là trường hợp duy nhất khi một đường phố được đặt theo tên của một nhân vật văn học.

Phần thưởng xứng đáng

Năm 1935, Nikolai Ostrovsky đã được trao tặng Huân chương Lenin đồng thời được phong danh hiệu Chính ủy Lữ đoàn. Chính phủ Liên Xô đã cấp cho nhà văn một ngôi nhà ở Sochi và một căn hộ ở Moscow. Những tháng cuối đời, Ostrovsky sống ở con phố mang tên mình, ông tiếp đón độc giả và các nhà văn tại nhà. Vào mùa hè cùng năm, nhà văn chính thức cam kết sẽ viết một cuốn sách mới mà ông đặt tên là Sinh ra trong bão táp. Cuốn tiểu thuyết này được coi như một tác phẩm về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản Ucraine chống lại Ba Lan và cuộc đấu tranh sắp tới chống chủ nghĩa phát xít. Việc cuốn sách mới này ít tiếng vang hơn cuốn trước là điều hiển nhiên, nhưng tác phẩm vẫn khẳng định tài năng và sự phát triển nghề nghiệp của tác giả.

Thật không may, đã không còn dịp để đánh giá một cách trọn vẹn sáng tác của nhà văn. Cuốn sách mới đã không bao giờ có hồi kết. Vào ngày 22/12/1936 Nikolai Alexeevich Ostrovsky đã trút hơi thở cuối cùng khi còn chưa kịp hoàn thành cuốn tiểu thuyết mới của mình. Khi đó ông mới chỉ 32 tuổi. Theo các bác sĩ thời nay, nhà văn đã qua đời vì căn bệnh đa xơ cứng và bệnh viêm cột sống dính khớp tiến triển.

Người con vĩ đại của đất nước Xô Viết có tính cách thép đã được mai táng tại Moscow. Bất chấp mọi trở ngại vô cùng nghiệt ngã và cái chết trẻ, cùng với sự giúp sức của người vợ yêu thương và chung thủy, nhà văn – chiến sĩ đã không thể bị đánh bại.

Nguồn: https://zingnews.vn/nghi-luc-phi-thuong-cua-tac-gia-thep-da-toi-the-day-post1413359.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Xu hướng