Connect with us

Sách hay

Sách Tết Quý Mão 2023

Được phát hành

,

Cuốn sách thứ năm trong dự án Sách Tết, là một hợp tuyển văn thơ nhạc họa chủ đề mùa xuân và ngày Tết của nhiều cây bút tên tuổi.

Phần đầu của chương “Tết quê nội, Tết quê ngoại” của nhà văn Xuân Phượng, in trong “Sách Tết Quý Mão 2023”.

Những năm 40 của thế kỷ 20.

Trong cái rét căm căm của những tháng cuối năm ở Đà Lạt, năm chị em chúng tôi luôn thập thò vào căn phòng của mấy bác thợ may được mẹ tội mời đến. Năm chị em chỉ một kiểu áo cánh, quần dài vải màu nâu nhạt. Kèm theo mỗi người một cái áo dài lụa màu vàng cho hai em trai, màu xanh cho ba chị em gái.

Lo cơm rượu, nơi ngủ cho bốn bác thợ may đến tận nhà trong những ngày giáp Tết vẫn là việc hầu như năm nào, trước khi về ăn tết ở Phan Rí, mẹ tôi vẫn phải thu xếp chu đáo.

Ông nội tôi, một vị quan triều đình Huế đã về hưu, là tiên chỉ của làng Liêm Công, thuộc phủ Hòa Đa, tỉnh Phan Rí. Ông rất ghét bọn “mắt xanh mũi lõ” Pháp, nên không cho phép chúng tôi về quê nội với những bộ quần áo hàng ngày ở trường Đà Lạt.

Khoảng hăm sáu Tết.

Súng sính trong những bộ quần áo mới tinh, năm chị em được ba tôi lùa lên chiếc xe ô tô Renault màu đen độc nhất lúc bấy giờ ở thành phố.

Khỏi phải nói là chúng tôi háo hức về chuyến đi từ Đà Lạt về Phan Rí quê nội này như thế nào.

Xe dừng lại một quán ven đường, gần huyện Đức Trọng. Bác chủ quán tỏ vẻ e ngại: “Nên nghỉ tối ở đây, sáng mai hãy đi. Dạo này voi rừng về phá dữ lắm”. Ba tôi chỉ cười mỉm, cảm ơn, rồi lùa chúng tôi lên xe.

Trời sập tối rất nhanh. Đang ngủ gà ngủ gật, bỗng có tiếng thét của mẹ tôi: “Voi về”.

Tuy đã gần tám mươi năm, vẫn còn trong trí nhớ hình ảnh một khối đen xám xịt khổng lồ sầm sập lao tới.

Ba tôi đóng vội các cửa xe, tắt máy và hét to: “Ngồi im”. Một phát đập mạnh. Chiếc xe chao đảo. Những tiếng rống kinh hoàng. Lại tiếng đập vào xe. Rung lắc dữ dội. Tiếng mẹ tôi thầm thì: “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát”.

Em Nhạn tôi, ba tuổi, khóc ré lên. Tôi bịt mồm, ôm chặt em. Tiếng gầm thét, vang vang, cuồng loạn. Mồ hôi túa ra, ướt đẫm quần áo. Toàn là một màu xám rùng rợn, xen lấn, chà đạp vào nhau. Những thân cây đổ rào rào xung quanh chiếc xe. Kinh hoàng đến nỗi tám mươi năm sau vẫn không quên.

Bỗng chiếc xe bớt chao đảo. Trong ánh sáng nhọ nhem của rừng sâu Đức Trọng, cái mảng xám khổng lồ tản dần. Tiếng nghẹn ngào niệm Phật lẫn tiếng nức nở của mẹ tôi. Đàn voi rừng đã bỏ đi.

Ba tôi rồ máy. Chúng tôi rời khỏi khu rừng trong đêm tối mù mịt…

Những ngày sau, gia đình của năm chú và bốn cô ruột của chúng tôi cũng đã từ Phan Thiết, Quy Nhơn, Nha Trang trở về tụ tập đông đủ. Cả tòa ngang dãy dọc mênh mông của gia tộc Nguyễn Xuân, vốn vắng lặng ngày thường, nay đã sáng đèn và rộn rịp tiếng cười nói.

Sáng ba mươi.

Tiếng lanh canh rộn rã ở trước cổng làm tôi tỉnh ngủ. Một cây tre gộc cao vút, ngọn phất phơ một túm lá còn xanh, đang đung đưa theo gió với những chiếc khánh bằng sành kèm mấy dải lụa xanh đỏ vàng. Ba quay lại nói với mẹ: “Mình không năm nào kịp về dự lễ dựng nêu. Biết làm sao được”.

Bác Cửu, người hầu tin cẩn của ông nội tôi, áo dài đen, khăn đóng, bước ra trước sân, dóng lên một hồi trống chầu.

Áo dài vàng, áo dài xanh, giày dép mới, cổ đeo khánh bạc, năm chúng tôi cùng vài chục anh chị em họ, từ ba tuổi đến mười bốn tuổi, từ từ xếp hàng trước cái sân gạch. Bà Tư, bà lão bộc ở với ông bà tôi từ mấy chục năm nay, lưng còng, đôi mắt kèm nhèm, đã đứng sẵn, tay cầm một xấp lụa màu đỏ. Bà gập đôi người, ghé sát tai chúng tôi, phì phò: “Tụi bay phải lau mấy chậu lan thật sạch nghe chưa? Đứa nào làm gãy lá, gãy mầm, hãy coi chừng”.

Nghe mẹ chúng tôi thì thào: “Đúng là Ma Hời giữ của”; còn bác Cửu rỉ tai: “Mụ khọm này có bùa ngải Chàm. Lôi thôi mụ ấy thư cho thì sẽ hóa điên đó”.

Chúng tôi rụt cổ, run run nhận vuông vải điều. Và rồng rắn đến trước dãy những chậu địa lan xếp suốt chiều dài chiếc sân. Lau lá, vun đất, nhổ cỏ. Đến trưa, sau khi bà Tư gườm gườm xem xét từng chậu một, cả lũ được tha, trả về với ba mẹ.

Đêm giao thừa, cả làng rộn tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng pháo. Nhưng chúng tôi bị cấm, không cho ra khỏi nhà, nên chỉ lơ mơ một chặp rồi ngủ thiếp đi.

Mùng một.

Một loạt tiếng pháo đùng chí chát nổ làm chúng tôi choàng thức dậy. Khói pháo chưa tan, các gia đình đã dắt con cái ra đứng chật sân. Hai cánh cửa sơn son thếp vàng, chính giữa chạm hình con hổ vờn mây của ngôi nhà chính, đã mở rộng.

Ông nội tôi mặc triều phục, mũ cánh chuồn, ngồi oai nghiêm nhìn xuống sân. Sau một tiếng trống, Bác Cửu hô: “Bái”. Mấy chục đứa bé quỳ mọp xuống, đầu chạm đất. Đầu tôi đụng phải cái mông của em họ tôi, thằng Tiến, đang cúi lạy ngay sát phía trước tôi. Nó ré lên: “Nhột, nhột”. Chú Bảy tôi vội chạy tới, bịt miệng nó không kịp.

Sau ba tiếng trống, ba lần lạy, tất cả lố nhố nhỏm lên. Ông nội tôi đứng dậy, vung tay. Một loạt đồng tiền điếu bay xuống sân. Bất kể tà áo dài vướng víu, tôi chen thật lực để nhặt một đồng tiền đang kẹt giữa hai mạch của một viên gạch. Em Nhạn tôi, mới lên ba, không chen nổi, thút thít khóc. Mẹ tôi vội vàng đến dúi cho một đồng tiền, nói vào tai em: “Khóc ngày Tết, coi chừng bà Tư”. Nhạn nín bặt.

Sau đó, ba mẹ tôi và chín chú thím, mỗi đôi quỳ lạy chúc Tết ông bà nội và đốt pháo mừng. Thêm dịp để chúng tôi lao ra tìm pháo lẻ, pháo xịt, náo loạn cả sân.

Trưa mùng một Tết, tất cả bọn con trai được lên nhà trên ăn cỗ với người lớn. Mẹ tôi, các thím và lũ nhóc gái chúng tôi ăn ở nhà dưới.

Thắp nhang, cúng lạy tổ tiên ông bà ở gian thờ giữa lộng lẫy sơn son thếp vàng cũng chỉ bọn con trai được phép đi cùng ba mình. Mẹ tôi, các thím và bọn con gái chúng tôi không được phép bước vào gian thờ chính.

Vừa tắt nắng, chúng tôi được cho ra làng chơi. Như chim sổ lồng, chúng tôi ào ra chợ, mấy đồng tiền kẽm xâu toòng teng ở dải rút quần. Chúng tôi sà vào các trò chơi có thưởng: Tôm, Cua, Rùa, Ếch, ném vòng, bịt mắt bắt dê, hô bài chòi, đánh lô tô…

Hai em gái tôi, lên ba và sáu tuổi cũng đòi chơi. Yến đưa hai đồng tiền, Nhạn nhứ nhứ một đồng và nhờ chị Phượng đánh dùm. Tôi giao hẹn: “Thua, tụi bay không bắt đền đó”. Hên quá, không thua, và mỗi đứa hí hửng xâu thêm mấy đồng tiền vào dải rút quần.

Cả ngày mùng hai Tết, chúng tôi được dắt đến nhà bà cô, người cao tuổi nhất trong làng. Ba tôi vừa bước vào, chó Phan Rí rất dữ, cứ thế lao ra sủa, nhe răng trắng ởn. Nhà bà ở trên một đồi cát, gió táp rát mặt.

Ba mẹ tôi bắt chúng tôi quỳ xuống lạy. Bà rút từ từ ra mấy bao giấy đỏ, lẩm bẩm câu gì, đập đập vào đầu mấy đứa, rồi phát cho chúng tôi. Lại lạy, rồi nhanh chóng rút lui. Mẹ tôi giảng: “Bà cô các con đấy”. Hết cả hồn.

Tối về, mấy chị em hí hửng khoe tiền mừng tuổi. Nhớ mãi em Phát, không hiểu chạy đi đâu không có mặt để các cô chú mừng tuổi nên thiếu ba đồng so với “kho tiền” của bốn chúng tôi. Thế là chú ta lăn đùng ra, hai chân đạp tứ phía, rống to: “Bắt đền đây. Bắt đền đây”.

Lại mẹ tôi phải vào cuộc, dúi cho em tôi ba đồng tiền kẽm. Như có phép lạ, cái máy gào khóc câm bặt. Mấy chị em lại dắt nhau, cầm đèn dầu, chạy ra làng rong chơi cùng mấy đứa bạn mới quen đang đứng chờ trước cổng.

Ngày mùng năm Tết.

Ba tôi phải về làm việc. Lại chen chúc nhau lên xe về Đà Lạt. Đứng trước những căn nhà lụp xụp nép mình sau những đồi cát, những bạn bè mới của chúng tôi đưa mắt nhìn theo. Có đứa vẫy tay chào. Trong xe phảng phất mùi cá kho. Bà Tư, làu bàu suốt ngày, đã không quên gửi mấy tỉn nước mắm nhỉ, một nồi to tướng cá nục kho, một bọc me xanh, cho chúng tôi tiếp tục Tết ở Đà Lạt.

Cùng với bác Giáo, cả ba tôi đến chú Bảy chú Chín đều được bà nuôi nấng từ bé. Chúng tôi ai cũng gọi bà bằng bà Tư, kính cẩn và sợ không khác gì bà nội mình. Khi bà mất, mộ bà chôn trong nghĩa trang gia tộc, quanh năm có người chăm lo hương khói.

Vài năm sau, việc ông nội tôi từ giã cõi trần cũng gây xôn xao cả vùng Phan Rí, Phan Thiết.

Ba tôi nhận được một dây thép (bức điện) báo phải cho cả nhà về Phan Rí ngay. Ba ngày sau, khi chúng tôi định lên lạy ông, thì ba tôi nói, giọng rất nghiêm: “Ông nội đang mệt, không được ồn ào”. Cả khối nhà rộng mênh mông với mấy chục đứa con nít, im bặt tiếng cười.

Cho đến một ngày, chúng tôi được lệnh tụ họp sau một hồi trống chầu. Cánh cửa sơn son thếp vàng rộng mở. Một tấm phản lớn được bày trước hiên, phía trên các bậc tam cấp. Cũng theo nhịp trống, hai bác Giáo và các anh họ tôi lên vái lạy ông tôi. Rồi đến lượt gia đình chúng tôi. Sau đó là gia đình các cô các chú.

Ông nội tôi vận bộ triều phục thêu, râu ba chòm dài, bạc phơ, ngồi tựa vào bộ gối xếp bốn tầng bằng gấm màu đỏ, đăm đăm nhìn phía trước. Tôi quỳ lạy mà vẫn nghe tiếng thở khò khè. Bà Tư lọm khọm bưng lên một tô cháo. Ông tôi ăn vài thìa, phất tay ra lệnh dọn ngay. Rồi tiếng ông vang lên, đứt quãng: “Thôi, ông đi đây”.

Bác Cửu chạy đến, đỡ ông nằm dài trên chiếc phản. Chúng tôi nghe tiếng thở khò khè, khò khè, rồi yếu dần, yếu dần. Chung quanh lặng phắt.

Bác Cửu vừa khóc vừa cầm một tờ giấy trắng đặt lên mũi ông. Bác Cả tôi lết đến, vừa lạy vừa đặt một nắm bông trên mặt ông. Rồi cả tòa nhà vang lên tiếng khóc, tiếng trống, tiếng phèn la, tiếng người… Bác Cửu chạy ra trước cổng, hô to: “Ông đi rồi”. Tiếng người rầm rập chạy vào, người lạy, người đốt nhang, đốt đèn bạch lạp, náo động cả xóm.

Ông nội là quan triều đình và tiên chỉ của làng, nên đám tang ông nội tôi kéo dài bảy ngày liền. Việc ông biết trước ngày mất, đánh dây thép gọi cả gia đình về là điều dân làng bàn tán nhiều nhất.

Tôi không nhớ đã thấy ông nội mình cười lần nào chưa. Chỉ nhớ hình ảnh một chòm râu dài trắng như bông, đôi mắt nghiêm nghị và một giọng nói rổn rảng. Có những buổi tối, ông gọi ba tôi, hai em trai và tôi vào phòng khách. Ba chị em nem nép ngồi trên chiếc ghế dài. Ba tôi đứng hầu cạnh ông. Sau khi nâng một chén rượu, ông bắt đầu đọc thơ Đường. Chúng tôi ngồi nghe, lúc đầu còn gắng mở to mắt. Sau đó, đứa nào cũng ngủ gà ngủ gật. Mẹ tôi phải đến lay dậy và dắt về phòng ngủ.

Có lần ông gọi cả ba đứa ra sân, nhìn lên trời. “Các cháu có biết trăng mùng tám gọi là trăng gì không?” Ông lắc đầu: “Ba tụi bay theo Tây học, hỏng quá rồi”. Ngước mắt nhìn lên, chòm râu bạc rung rung, giọng ông sang sảng: “Móng vàng… ai bấm… trời tây…”.

Hơn tám mươi năm đã qua. Tôi không quên câu thơ đêm ấy ở Đà Lạt. Cũng như trên hàng chục năm xa quê hương, ở giữa rừng Việt Bắc, bỗng:

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản

Bạch vân thiên tải không du du…

(Hạc vàng một khi bay đi là không trở lại

Mây trắng nghìn năm vẫn phiêu phiêu)

Hay có những đêm sống giữa rừng già, đã nhói lòng với:

Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương…

(Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Cúi đầu nhớ quê nhà)

Những câu thơ Đường được nghe từ tuổi mười bốn mười lăm đã thấm sâu vào lòng lúc nào không hay. Thích và mê văn thơ, có lẽ bắt đầu từ thuở ấy.

Nghĩ lại, thật biết ơn ông.

Nguồn: https://zingnews.vn/ky-uc-ve-tet-que-noi-post1395186.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng