Connect with us

Sách hay

Sách Tết Quý Mão 2023

Được phát hành

,

Cuốn sách thứ năm trong dự án Sách Tết, là một hợp tuyển văn thơ nhạc họa chủ đề mùa xuân và ngày Tết của nhiều cây bút tên tuổi.

Phần đầu của chương “Tết quê nội, Tết quê ngoại” của nhà văn Xuân Phượng, in trong “Sách Tết Quý Mão 2023”.

Những năm 40 của thế kỷ 20.

Trong cái rét căm căm của những tháng cuối năm ở Đà Lạt, năm chị em chúng tôi luôn thập thò vào căn phòng của mấy bác thợ may được mẹ tội mời đến. Năm chị em chỉ một kiểu áo cánh, quần dài vải màu nâu nhạt. Kèm theo mỗi người một cái áo dài lụa màu vàng cho hai em trai, màu xanh cho ba chị em gái.

Lo cơm rượu, nơi ngủ cho bốn bác thợ may đến tận nhà trong những ngày giáp Tết vẫn là việc hầu như năm nào, trước khi về ăn tết ở Phan Rí, mẹ tôi vẫn phải thu xếp chu đáo.

Advertisement

Ông nội tôi, một vị quan triều đình Huế đã về hưu, là tiên chỉ của làng Liêm Công, thuộc phủ Hòa Đa, tỉnh Phan Rí. Ông rất ghét bọn “mắt xanh mũi lõ” Pháp, nên không cho phép chúng tôi về quê nội với những bộ quần áo hàng ngày ở trường Đà Lạt.

Khoảng hăm sáu Tết.

Súng sính trong những bộ quần áo mới tinh, năm chị em được ba tôi lùa lên chiếc xe ô tô Renault màu đen độc nhất lúc bấy giờ ở thành phố.

Khỏi phải nói là chúng tôi háo hức về chuyến đi từ Đà Lạt về Phan Rí quê nội này như thế nào.

Xe dừng lại một quán ven đường, gần huyện Đức Trọng. Bác chủ quán tỏ vẻ e ngại: “Nên nghỉ tối ở đây, sáng mai hãy đi. Dạo này voi rừng về phá dữ lắm”. Ba tôi chỉ cười mỉm, cảm ơn, rồi lùa chúng tôi lên xe.

Advertisement

Trời sập tối rất nhanh. Đang ngủ gà ngủ gật, bỗng có tiếng thét của mẹ tôi: “Voi về”.

Tuy đã gần tám mươi năm, vẫn còn trong trí nhớ hình ảnh một khối đen xám xịt khổng lồ sầm sập lao tới.

Ba tôi đóng vội các cửa xe, tắt máy và hét to: “Ngồi im”. Một phát đập mạnh. Chiếc xe chao đảo. Những tiếng rống kinh hoàng. Lại tiếng đập vào xe. Rung lắc dữ dội. Tiếng mẹ tôi thầm thì: “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát”.

Em Nhạn tôi, ba tuổi, khóc ré lên. Tôi bịt mồm, ôm chặt em. Tiếng gầm thét, vang vang, cuồng loạn. Mồ hôi túa ra, ướt đẫm quần áo. Toàn là một màu xám rùng rợn, xen lấn, chà đạp vào nhau. Những thân cây đổ rào rào xung quanh chiếc xe. Kinh hoàng đến nỗi tám mươi năm sau vẫn không quên.

Bỗng chiếc xe bớt chao đảo. Trong ánh sáng nhọ nhem của rừng sâu Đức Trọng, cái mảng xám khổng lồ tản dần. Tiếng nghẹn ngào niệm Phật lẫn tiếng nức nở của mẹ tôi. Đàn voi rừng đã bỏ đi.

Advertisement

Ba tôi rồ máy. Chúng tôi rời khỏi khu rừng trong đêm tối mù mịt…

Những ngày sau, gia đình của năm chú và bốn cô ruột của chúng tôi cũng đã từ Phan Thiết, Quy Nhơn, Nha Trang trở về tụ tập đông đủ. Cả tòa ngang dãy dọc mênh mông của gia tộc Nguyễn Xuân, vốn vắng lặng ngày thường, nay đã sáng đèn và rộn rịp tiếng cười nói.

Sáng ba mươi.

Tiếng lanh canh rộn rã ở trước cổng làm tôi tỉnh ngủ. Một cây tre gộc cao vút, ngọn phất phơ một túm lá còn xanh, đang đung đưa theo gió với những chiếc khánh bằng sành kèm mấy dải lụa xanh đỏ vàng. Ba quay lại nói với mẹ: “Mình không năm nào kịp về dự lễ dựng nêu. Biết làm sao được”.

Bác Cửu, người hầu tin cẩn của ông nội tôi, áo dài đen, khăn đóng, bước ra trước sân, dóng lên một hồi trống chầu.

Advertisement

Áo dài vàng, áo dài xanh, giày dép mới, cổ đeo khánh bạc, năm chúng tôi cùng vài chục anh chị em họ, từ ba tuổi đến mười bốn tuổi, từ từ xếp hàng trước cái sân gạch. Bà Tư, bà lão bộc ở với ông bà tôi từ mấy chục năm nay, lưng còng, đôi mắt kèm nhèm, đã đứng sẵn, tay cầm một xấp lụa màu đỏ. Bà gập đôi người, ghé sát tai chúng tôi, phì phò: “Tụi bay phải lau mấy chậu lan thật sạch nghe chưa? Đứa nào làm gãy lá, gãy mầm, hãy coi chừng”.

Nghe mẹ chúng tôi thì thào: “Đúng là Ma Hời giữ của”; còn bác Cửu rỉ tai: “Mụ khọm này có bùa ngải Chàm. Lôi thôi mụ ấy thư cho thì sẽ hóa điên đó”.

Chúng tôi rụt cổ, run run nhận vuông vải điều. Và rồng rắn đến trước dãy những chậu địa lan xếp suốt chiều dài chiếc sân. Lau lá, vun đất, nhổ cỏ. Đến trưa, sau khi bà Tư gườm gườm xem xét từng chậu một, cả lũ được tha, trả về với ba mẹ.

Đêm giao thừa, cả làng rộn tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng pháo. Nhưng chúng tôi bị cấm, không cho ra khỏi nhà, nên chỉ lơ mơ một chặp rồi ngủ thiếp đi.

Mùng một.

Advertisement

Một loạt tiếng pháo đùng chí chát nổ làm chúng tôi choàng thức dậy. Khói pháo chưa tan, các gia đình đã dắt con cái ra đứng chật sân. Hai cánh cửa sơn son thếp vàng, chính giữa chạm hình con hổ vờn mây của ngôi nhà chính, đã mở rộng.

Ông nội tôi mặc triều phục, mũ cánh chuồn, ngồi oai nghiêm nhìn xuống sân. Sau một tiếng trống, Bác Cửu hô: “Bái”. Mấy chục đứa bé quỳ mọp xuống, đầu chạm đất. Đầu tôi đụng phải cái mông của em họ tôi, thằng Tiến, đang cúi lạy ngay sát phía trước tôi. Nó ré lên: “Nhột, nhột”. Chú Bảy tôi vội chạy tới, bịt miệng nó không kịp.

Sau ba tiếng trống, ba lần lạy, tất cả lố nhố nhỏm lên. Ông nội tôi đứng dậy, vung tay. Một loạt đồng tiền điếu bay xuống sân. Bất kể tà áo dài vướng víu, tôi chen thật lực để nhặt một đồng tiền đang kẹt giữa hai mạch của một viên gạch. Em Nhạn tôi, mới lên ba, không chen nổi, thút thít khóc. Mẹ tôi vội vàng đến dúi cho một đồng tiền, nói vào tai em: “Khóc ngày Tết, coi chừng bà Tư”. Nhạn nín bặt.

Sau đó, ba mẹ tôi và chín chú thím, mỗi đôi quỳ lạy chúc Tết ông bà nội và đốt pháo mừng. Thêm dịp để chúng tôi lao ra tìm pháo lẻ, pháo xịt, náo loạn cả sân.

Trưa mùng một Tết, tất cả bọn con trai được lên nhà trên ăn cỗ với người lớn. Mẹ tôi, các thím và lũ nhóc gái chúng tôi ăn ở nhà dưới.

Advertisement

Thắp nhang, cúng lạy tổ tiên ông bà ở gian thờ giữa lộng lẫy sơn son thếp vàng cũng chỉ bọn con trai được phép đi cùng ba mình. Mẹ tôi, các thím và bọn con gái chúng tôi không được phép bước vào gian thờ chính.

Vừa tắt nắng, chúng tôi được cho ra làng chơi. Như chim sổ lồng, chúng tôi ào ra chợ, mấy đồng tiền kẽm xâu toòng teng ở dải rút quần. Chúng tôi sà vào các trò chơi có thưởng: Tôm, Cua, Rùa, Ếch, ném vòng, bịt mắt bắt dê, hô bài chòi, đánh lô tô…

Hai em gái tôi, lên ba và sáu tuổi cũng đòi chơi. Yến đưa hai đồng tiền, Nhạn nhứ nhứ một đồng và nhờ chị Phượng đánh dùm. Tôi giao hẹn: “Thua, tụi bay không bắt đền đó”. Hên quá, không thua, và mỗi đứa hí hửng xâu thêm mấy đồng tiền vào dải rút quần.

Cả ngày mùng hai Tết, chúng tôi được dắt đến nhà bà cô, người cao tuổi nhất trong làng. Ba tôi vừa bước vào, chó Phan Rí rất dữ, cứ thế lao ra sủa, nhe răng trắng ởn. Nhà bà ở trên một đồi cát, gió táp rát mặt.

Ba mẹ tôi bắt chúng tôi quỳ xuống lạy. Bà rút từ từ ra mấy bao giấy đỏ, lẩm bẩm câu gì, đập đập vào đầu mấy đứa, rồi phát cho chúng tôi. Lại lạy, rồi nhanh chóng rút lui. Mẹ tôi giảng: “Bà cô các con đấy”. Hết cả hồn.

Advertisement

Tối về, mấy chị em hí hửng khoe tiền mừng tuổi. Nhớ mãi em Phát, không hiểu chạy đi đâu không có mặt để các cô chú mừng tuổi nên thiếu ba đồng so với “kho tiền” của bốn chúng tôi. Thế là chú ta lăn đùng ra, hai chân đạp tứ phía, rống to: “Bắt đền đây. Bắt đền đây”.

Lại mẹ tôi phải vào cuộc, dúi cho em tôi ba đồng tiền kẽm. Như có phép lạ, cái máy gào khóc câm bặt. Mấy chị em lại dắt nhau, cầm đèn dầu, chạy ra làng rong chơi cùng mấy đứa bạn mới quen đang đứng chờ trước cổng.

Ngày mùng năm Tết.

Ba tôi phải về làm việc. Lại chen chúc nhau lên xe về Đà Lạt. Đứng trước những căn nhà lụp xụp nép mình sau những đồi cát, những bạn bè mới của chúng tôi đưa mắt nhìn theo. Có đứa vẫy tay chào. Trong xe phảng phất mùi cá kho. Bà Tư, làu bàu suốt ngày, đã không quên gửi mấy tỉn nước mắm nhỉ, một nồi to tướng cá nục kho, một bọc me xanh, cho chúng tôi tiếp tục Tết ở Đà Lạt.

Cùng với bác Giáo, cả ba tôi đến chú Bảy chú Chín đều được bà nuôi nấng từ bé. Chúng tôi ai cũng gọi bà bằng bà Tư, kính cẩn và sợ không khác gì bà nội mình. Khi bà mất, mộ bà chôn trong nghĩa trang gia tộc, quanh năm có người chăm lo hương khói.

Advertisement

Vài năm sau, việc ông nội tôi từ giã cõi trần cũng gây xôn xao cả vùng Phan Rí, Phan Thiết.

Ba tôi nhận được một dây thép (bức điện) báo phải cho cả nhà về Phan Rí ngay. Ba ngày sau, khi chúng tôi định lên lạy ông, thì ba tôi nói, giọng rất nghiêm: “Ông nội đang mệt, không được ồn ào”. Cả khối nhà rộng mênh mông với mấy chục đứa con nít, im bặt tiếng cười.

Cho đến một ngày, chúng tôi được lệnh tụ họp sau một hồi trống chầu. Cánh cửa sơn son thếp vàng rộng mở. Một tấm phản lớn được bày trước hiên, phía trên các bậc tam cấp. Cũng theo nhịp trống, hai bác Giáo và các anh họ tôi lên vái lạy ông tôi. Rồi đến lượt gia đình chúng tôi. Sau đó là gia đình các cô các chú.

Ông nội tôi vận bộ triều phục thêu, râu ba chòm dài, bạc phơ, ngồi tựa vào bộ gối xếp bốn tầng bằng gấm màu đỏ, đăm đăm nhìn phía trước. Tôi quỳ lạy mà vẫn nghe tiếng thở khò khè. Bà Tư lọm khọm bưng lên một tô cháo. Ông tôi ăn vài thìa, phất tay ra lệnh dọn ngay. Rồi tiếng ông vang lên, đứt quãng: “Thôi, ông đi đây”.

Bác Cửu chạy đến, đỡ ông nằm dài trên chiếc phản. Chúng tôi nghe tiếng thở khò khè, khò khè, rồi yếu dần, yếu dần. Chung quanh lặng phắt.

Advertisement

Bác Cửu vừa khóc vừa cầm một tờ giấy trắng đặt lên mũi ông. Bác Cả tôi lết đến, vừa lạy vừa đặt một nắm bông trên mặt ông. Rồi cả tòa nhà vang lên tiếng khóc, tiếng trống, tiếng phèn la, tiếng người… Bác Cửu chạy ra trước cổng, hô to: “Ông đi rồi”. Tiếng người rầm rập chạy vào, người lạy, người đốt nhang, đốt đèn bạch lạp, náo động cả xóm.

Ông nội là quan triều đình và tiên chỉ của làng, nên đám tang ông nội tôi kéo dài bảy ngày liền. Việc ông biết trước ngày mất, đánh dây thép gọi cả gia đình về là điều dân làng bàn tán nhiều nhất.

Tôi không nhớ đã thấy ông nội mình cười lần nào chưa. Chỉ nhớ hình ảnh một chòm râu dài trắng như bông, đôi mắt nghiêm nghị và một giọng nói rổn rảng. Có những buổi tối, ông gọi ba tôi, hai em trai và tôi vào phòng khách. Ba chị em nem nép ngồi trên chiếc ghế dài. Ba tôi đứng hầu cạnh ông. Sau khi nâng một chén rượu, ông bắt đầu đọc thơ Đường. Chúng tôi ngồi nghe, lúc đầu còn gắng mở to mắt. Sau đó, đứa nào cũng ngủ gà ngủ gật. Mẹ tôi phải đến lay dậy và dắt về phòng ngủ.

Có lần ông gọi cả ba đứa ra sân, nhìn lên trời. “Các cháu có biết trăng mùng tám gọi là trăng gì không?” Ông lắc đầu: “Ba tụi bay theo Tây học, hỏng quá rồi”. Ngước mắt nhìn lên, chòm râu bạc rung rung, giọng ông sang sảng: “Móng vàng… ai bấm… trời tây…”.

Hơn tám mươi năm đã qua. Tôi không quên câu thơ đêm ấy ở Đà Lạt. Cũng như trên hàng chục năm xa quê hương, ở giữa rừng Việt Bắc, bỗng:

Advertisement

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản

Bạch vân thiên tải không du du…

(Hạc vàng một khi bay đi là không trở lại

Mây trắng nghìn năm vẫn phiêu phiêu)

Hay có những đêm sống giữa rừng già, đã nhói lòng với:

Advertisement

Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương…

(Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Cúi đầu nhớ quê nhà)

Những câu thơ Đường được nghe từ tuổi mười bốn mười lăm đã thấm sâu vào lòng lúc nào không hay. Thích và mê văn thơ, có lẽ bắt đầu từ thuở ấy.

Advertisement

Nghĩ lại, thật biết ơn ông.

Nguồn: https://zingnews.vn/ky-uc-ve-tet-que-noi-post1395186.html

Tiếp tục đọc
Quảng cáo
Nhấn vào đây để bình luận

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sách hay

Lịch sử chưa kể về ramen

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một khảo cứu thú vị về lịch sử món mì ramen ở Nhật Bản thông qua lăng kính phân tích và mối liên hệ chặt chẽ của món ăn với địa lý, chính trị, quan hệ đối ngoại, khoa học dinh dưỡng, truyền thông và bản sắc dân tộc.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 cho thấy Zhu Shun Shui đã chỉ cho Mitsukuni (cận vệ của Tokugawa Mitsukuni) cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa.

Mì ramen được giới thiệu lần đầu đến Nhật Bản vào năm 1665, năm 1884 hay năm 1910? Tiền thân của nó liệu có phải là món ăn được gọi với cái tên ūshin udon, Nankin soba hay Shina soba? Tùy thuộc vào câu trả lời mà chúng ta sẽ nghiệm suy về từng món ăn khác nhau với một giai thoại nguồn cội riêng, cùng một quỹ đạo lịch sử đặc thù mang đến các góc nhìn cụ thể về đất nước Nhật Bản. […]

Mi ra men anh 1

Bìa cuốn sách

Giai thoại đầu tiên, và cũng sống động nhất, đã xuất hiện ban đầu trong công trình nghiên cứu mang tính tiên phong về lịch sử của mì ramen (được xuất bản năm 1987) của nhà sử học về ẩm thực Kosuge Keiko, trong đó ấn định thời điểm món ăn này được trình làng là vào những năm 1660, đồng thời cho rằng Tokugawa Mitsukuni (tên khác là Mito Kōmon, 1628 − 1701) – vị lãnh chúa huyền thoại thời phong kiến (daimyō) nắm hàng thứ hai sau Mạc chủ (shōgun) (1) – là người đầu tiên thưởng thức món mì ramen ở Nhật Bản.

Là nhân vật lịch sử nổi tiếng ở Nhật và từng được một bộ phim truyền hình dài tập mô tả như một vị hảo hán, ở gần cuối mỗi tập phim, Tokugawa Mitsukuni thường tiết lộ danh tính của mình cho những kẻ xấu bằng cách để lộ ra hình ảnh chiếc inrō (hộp đựng trang trí sơn mài kích cỡ nhỏ) có khắc gia huy của dòng họ ông, cho thấy ông là vị daimyō trong vùng.

Advertisement

Câu thoại “Ngươi không nhận ra gia huy này sao?” (Kono mondokoro ga me ni hairanuka?) được Kaku-san (cận vệ của Mitsukuni) nhắc lại trong đoạn cao trào của mỗi tập phim nhằm khôi phục lại trật tự và cấp bậc, và khiến những kẻ bất lương ngang ngược phải lập tức cầu xin sự khoan hồng.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 về các hoạt động của Mitsukuni cho thấy rằng Zhu Shun Shui – một người Trung Quốc tị nạn khỏi chính quyền nhà Minh sống ở Mito vào thời điểm đó (2) – đã chỉ cho Mitsukuni cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa nhiều khả năng chính là món mì ramen ngày nay (3).

Mặc dù Mitsukuni được biết đến nhiều nhất trong lịch sử Nhật Bản khi đã khởi xướng kế hoạch kỳ vĩ biên soạn nên Dai Nihon Shi – hay Lịch sử vĩ đại của Nhật Bản – một cuốn sách mất gần 250 năm và mười thế hệ để hoàn thành, ông cũng là một người ca tụng triết học Lý học (Neo- Confucianism) (4) và đã tìm đến Trung Quốc để được soi đường chỉ lối cách trị nước.

Ông do vậy đã tham vấn và kết giao với Zhu, người trước đó từng nắm chức thượng quan ở Trung Quốc dưới thời nhà Minh nhưng quyết định đến Nhật Bản vào năm 1665 do phải lưu vong khỏi chế độ cai trị của Mãn Châu.

Mi ra men anh 2

Lãnh chúa Tokugawa Mitsukuni. Nguồn: wikipedia.

Zhu trở thành một trong những cố vấn quan trọng nhất của Mitsukuni, và làm việc trong chính quyền cai trị của ông này trong 17 năm tiếp theo cho đến khi qua đời vào năm 1682. Vai trò quan trọng của Zhu trong đội ngũ cố vấn của vị daimyō đã giúp ông có được một cuộc sống thoải mái, cùng một bia mộ nổi bật còn tồn tại cho đến ngày nay trong khu nghĩa trang của gia tộc Tokugawa nhánh Mito (5).

Advertisement

Trong thời gian hầu cận daimyō, Zhu biết được rằng Mitsukuni là một người rất thích ăn udon – loại mì nước hiện vẫn phổ biến ở Nhật Bản – với sợi mì làm từ bột mì sử dụng với nước dùng dashi (làm từ cá ngừ khô và tảo bẹ).

Vào thế kỷ 17, người Nhật thường ăn mì udon với quả mơ ngâm (umeboshi) và vừng. Thấy vậy, Zhu đã gợi ý về năm thành phần thường được sử dụng trong món mì nước Trung Quốc để vị daimyō vùng Mito có thể thêm vào nhằm cải thiện hương vị của món ăn. Năm thành phần (ūshin) mà ông chủ ý đề xuất gồm: rễ kiệu (rakkyō), tỏi, hẹ tỏi (nira), hành lá và gừng (6).

Từ những dữ kiện này, nhà sử học về ẩm thực Kosuge phỏng đoán rằng Tokugawa Mitsukuni chính là cha đẻ của tập tục ăn mì nước Trung Quốc ở Nhật Bản. Sau này Bảo tàng Ramen ở Shin-Yokohama đã phổ biến rộng rãi câu chuyện trên, và kết quả là vào năm 2003, Tập đoàn Thực phẩm Nissin của Nhật Bản nhà sản xuất mì ramen ăn liền lớn nhất thế giới – trong một thời gian ngắn đã cho ra – mắt nhãn hiệu mì ăn liền U-shin có in hình gia huy của gia tộc Tokugawa, được điểm tô bằng giai thoại về Mitsukuni và Zhu.

Mặc dù khó xác định liệu món ăn từng được ưa chuộng bởi vị lãnh chúa nổi tiếng của vùng Mito kia tương thích ra sao với món ăn ngày nay được gọi với cái tên “mì ramen”, cần ghi nhớ rằng câu chuyện được lưu truyền rộng rãi ở trên về sự xuất hiện tại Nhật Bản của món mì nước kiểu người Hoa đã thiết lập nên một giai thoại nguồn cội trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên hiện đại – một thời đại được đánh dấu bằng việc người Nhật có xu hướng học hỏi người Trung Quốc.

Mặc dù câu chuyện trên được coi như một phiên bản bao trùm đầy lôi cuốn về nguồn gốc của món ăn, với đầy đủ các nhân vật ngoài đời thực cùng những tương tác tưởng tượng dựa trên các cách diễn giải không thành kiến đối với những ghi chép lịch sử, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhấn mạnh sự ngưỡng mộ của người Nhật đối với một nước Trung Quốc thời tiền Thanh.

Advertisement

—————-

1. Một tước hiệu đặc biệt dành cho những vị tướng quân có chức vụ cao nhất trong thời kỳ phong kiến của Nhật Bản. (ND)

2. Khi triều đại nhà Thanh củng cố quyền lực của mình lên miền nam Trung Quốc, một số học giả Nho giáo làm việc cho chính quyền nhà Minh đã trốn sang Đại Hàn và Nhật Bản để làm cố vấn.

3. Kosuge Keiko, Nippon Rāmen Monogatari: Chūka soba wa itsu doko de umareta ka (Tokyo: Shinshindō, 1987), tr.45-59.

4. Tư tưởng triết lý Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Lý học có thể được xem là nỗ lực hợp lý hóa cũng như thế tục hóa Nho giáo bằng cách loại bỏ các yếu tố mê tín, huyền bí của Đạo giáo và Phật giáo, vốn từng được đưa vào Nho giáo trong và sau đời nhà Hán. (ND)

Advertisement

5. Sĩ quan hải quân người Mỹ. (ND)

6. Cho đến năm 1854, khi Hiệp ước Perry đầu tiên có hiệu lực, triều đại Tokugawa ở Nhật Bản đã duy trì chính sách tránh tiếp xúc với các cường quốc phương Tây (ngoài Hà Lan) trong hơn hai thế kỷ để hạn chế tình trạng hỗn loạn do những nỗ lực cải đạo của các nhà truyền giáo Cơ đốc ở Nhật Bản. Riêng Hà Lan đã đồng ý giới hạn mối quan hệ giữa hai nước chỉ trong lĩnh vực thương mại, kết quả là Hà Lan trở thành quốc gia châu Âu duy nhất duy trì quan hệ thương mại và ngoại giao với Nhật Bản từ năm 1639 đến năm 1854.

Nguồn: https://znews.vn/giai-thoai-ve-su-xuat-hien-cua-mi-ramen-mon-an-quoc-dan-nhat-ban-post1455469.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Nóng giận là bản năng tĩnh lặng là bản lĩnh

Được phát hành

,

Bởi

Trong cuốn sách, tác giả Tống Mặc đã trò chuyện với độc giả về cách kiềm chế cơn nóng giận, học cách bao dung, kiểm soát cảm xúc của mình trước những tác động của cuộc sống.

Ai chẳng có lúc giận dữ, nóng giận là hạt mầm được gieo vào tâm ta từ lúc mới chào đời. Nhưng kìm chế cơn giận là bản lĩnh cần rèn luyện mỗi ngày.

Kim che con gian anh 1

Thái độ điềm tĩnh sẽ giúp con người dễ dàng vượt qua nghịch cảnh, đón nhận thử thách. Ảnh: P.G.

Điềm đạm là sự điềm tĩnh xuất phát từ nội tâm. Cổ nhân cho rằng: “Điềm tĩnh dưỡng thần, phật dịch ô vật.” Ý muốn nói, điềm tĩnh có thể dưỡng tâm, giúp con người không phụ thuộc vào thứ bên ngoài. Điềm tĩnh nói đến một thái độ sống “lùi”, vạn sự thuận theo tự nhiên, người giữ được tinh thần như vậy, chắc chắn có thể làm tốt việc dưỡng tâm.

Hiện giờ, ngày càng có nhiều người theo đuổi việc “dưỡng sinh”. Dưỡng sinh gồm có dưỡng tâm, dưỡng tính và dưỡng thân. Nhưng rất nhiều người chỉ quan tâm đến việc dưỡng thân, cho rằng chỉ cần chăm sóc cơ thể cho thật đẹp đẽ, khỏe mạnh, thì có thể hưởng thụ cuộc sống lâu dài. Cho nên, số người có thể kiên trì hàng ngày tập luyện thể thao, ăn uống lành mạnh thì nhiều, nhưng số người có thể kiên trì dưỡng tâm hàng ngày lại rất ít.

Advertisement

Có một bà mẹ cực kỳ chú trọng việc dưỡng sinh. Gặp ai cô ấy cũng thao thao bất tuyệt về đạo lý dưỡng sinh, về việc mỗi ngày phải ăn cái gì, ăn bao nhiêu, ăn thế nào, vận động bao lâu… Cô ấy nói hết lần này đến lần khác: Chỉ có làm như vậy, mới không bị bệnh! Nhưng mỗi lần nghe những điều này, tôi đều thấy rất lạ. Một người ngày nào cũng bận rộn chuẩn bị đồ ăn lành mạnh cho bản thân từ sáng đến tối, sợ mình ăn phải đồ ăn không tốt sẽ sinh bệnh, không thể sống thọ, ngày nào cũng lo lắng như vậy, liệu có vui vẻ được không?

Nếu như chúng ta dư ỡng sinh mà không bắt đầu từ việc dưỡng tâm dưỡng tính, trong lòng sẽ có nhiều phiền não, có nhiều ham muốn. Như vậy, “hạnh phúc” mà chúng ta được hưởng chỉ dừng ở mức ăn ngon mặc đẹp và cơ thể khỏe mạnh, đó không phải cuộc sống thăng hoa chân chính.

Đại sư Hoằng Nhất cho rằng điềm đạm là “điều đầu tiên của việc dưỡng tâm”. Điềm đạm mà ngài nói tới suy cho cùng là cần con người phải tĩnh tâm. Thế gian này bao chuyện phiền não, dễ ảnh hưởng đến tâm lý của con người.

Kim che con gian anh 2

Cuốn sách Nóng giận là bản năng, tĩnh lặng là bản lĩnh mang đến cho người đọc nhiều lời khuyên hữu ích. Ảnh: Chi.

Cho nên, nhiều người nghĩ rằng tâm mình không tĩnh là vì đang bị quá nhiều chuyện quấy nhiễu. Thật ra, ta bị quấy rầy không phải vì những chuyện phiền nhiễu trên đời, mà vì tâm không tĩnh. Khi chúng ta có thể tách khỏi tất cả sự vật bên ngoài, cho dù ở trong hoàn cảnh nào, ta cũng có thể hưởng thụ cuộc sống an nhàn thực sự.

Trong xã hội hiện thực này, rất nhiều chuyện sẽ làm cho chúng ta “dao động”.

Advertisement

Khi một người mỗi ngày kiếm được 10 đồng, chỉ đủ để ăn no, anh ta cảm thấy rất thoải mái, nhưng lại mơ mỗi ngày kiếm được 100 đồng; khi kiếm được 100 đồng mỗi ngày, anh ta lại cảm thấy mệt hơn trước rất nhiều, và không thấy hài lòng lắm, bởi vì có người mỗi ngày kiếm được 1.000 đồng.

Anh ta làm việc chăm chỉ hơn, cuối cùng cũng có thể kiếm 1.000 đồng mỗi ngày, anh ta bắt đầu mua xe, mua nhà, sống cuộc sống tốt đẹp mà anh ta từng ao ước, nhưng anh ta lại bắt đầu hướng về cuộc sống mỗi ngày kiếm được 10.000 đồng…

Chúng ta luôn rơi vào một vòng tròn kỳ lạ như vậy. Chúng ta luôn cho rằng khi đạt được điều gì mình mong đợi đã lâu, trong lòng sẽ cảm thấy yên tâm, hài lòng, từ đó có thể hạnh phúc. Nhưng sau khi đạt được điều mình muốn, ta lại có cảm giác cũng chỉ thế mà thôi. Những ham muốn lớn hơn nối tiếp nhau, mục tiêu ngày càng cao, và chúng ta càng ngày càng mệt hơn.

Do đó, một người sau khi có biệt thự, xe hơi, anh ta càng không hạnh phúc, bởi anh ta lo sợ một ngày nào đó sẽ mất đi cuộc sống như vậy, do đó đành phải dốc sức làm việc nhiều hơn, ép bản thân phải kiếm được 100.000 mỗi ngày, nếu chỉ kiếm được 80.000 thì thở dài ngao ngán.

Ngày nào cũng sống trong nỗi sợ mất đi danh lợi, gánh áp lực khủng khiếp, làm sao mà không sinh bệnh cho được? Dĩ nhiên, không phải con người không thể sống như vậy, danh lợi vốn là sự theo đuổi lớn nhất cuộc đời đối với một người bình thường.

Advertisement

Nhưng ý ở đây muốn nói, nếu như cuộc sống như vậy làm cho chúng ta cảm thấy thêm áp lực, thêm phiền muộn, không hề có cảm giác hạnh phúc, thì bạn hoàn toàn có thể suy nghĩ theo hướng khác.

Không nhất thiết phải từ bỏ những thứ như biệt thự, xe hơi, chỉ cần từ bỏ việc cố chấp gắn bó với những thứ này, dù kiếm được 1.000.000 mỗi ngày cũng không ngạo mạn, mà mỗi ngày kiếm được 10 đồng cũng không chán chường, muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, không cần gượng ép bản thân, bạn có thể cảm nhận được sự hạnh phúc ngay lập tức.

Người có nội tâm điềm đạm là người ngay cả khi mặc một chiếc áo vải, ăn một bữa cơm đạm bạc, vẫn có thể an nhàn thoải mái, không có chút cảm giác khó chịu hay không vui nào. Cho dù đối mặt với phiền não và sinh tử, họ cũng có thể thản nhiên đối diện, trong lòng không một chút gợn sóng đau khổ, không cần ăn ngon mặc đẹp vẫn cảm thấy yên bình và hạnh phúc.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/kim-che-con-gian-la-ban-linh-can-co-cua-nguoi-truong-thanh-post1455101.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tuổi ấy mình yêu

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn tản văn “Tuổi ấy mình yêu” ghi lại nhiều ký ức về Hà Nội của thế hệ 6X, 7X. Khi ấy thành phố tuy còn nhiều gian khó nhưng đầy lãng mạn với những biệt thự cổ rêu phong, cùng những thanh niên tha thiết yêu đời!

Dòng thời gian miên man đưa ta về những kỷ niệm ấu thơ không thể nào quên. Mùa hè nóng như đổ lửa, chẳng có điều hòa lẫn quạt điện, chỉ đành phe phẩy quạt nan xua đi cái nóng.

Tuoi ay minh yeu anh 1

Cảnh mấy đứa trẻ ngồi ở bể nước công cộng để mẹ tắm rửa là hình ảnh quen thuộc thời bao cấp. Ảnh: Fclikr.

Ở miền ôn đới mà nhiệt độ lên tới 40 thì không thể không coi là sự kiện. Vì thế mà ai chưa kịp trẻ lại, gầy đi, chết vì nóng thì cứ, rất nhiều người thích, tranh thủ cởi gần hết cho da có màu suy nghĩ. Cái màu này, Tây và ngay cả ta chưa từng trải đời này dăm chục năm tha hồ suy nghĩ cũng chả biết là màu gì.

[…]

Advertisement

Thành phố uể oải trong hơi nóng làm người cứ lơ mơ, thương chả ra thương nhớ chẳng ra nhớ, cứ dằng dai lừng khừng. Chẳng biết có phải dân ở những xứ nóng động cái là sùng sục hừng hực lên là vì một năm mấy mùa đã tha hồ uể oải rồi không?

Chiều qua thứ bảy, chỉ còn mấy tiếng nữa cửa hàng cửa họ đóng, đóng cửa luôn ngày chủ nhật là ngày đến Chúa cũng không làm gì (mà còn làm làm gì, sửa sai thế nào được nữa sau khi đã tạo ra con người) nhưng nắng vẫn còn chấp chới trên bờ tường, ngọn cây, mái nhà. Say nắng trưa rồi, không dám đi xa, chỉ lếch thếch ra đầu phố xem có quả dưa hấu nào nhẹ hơn một yến để tha về ăn giải nhiệt chờ mưa.

Mưa thì chưa, dưa thì không nhẹ, chẳng mua bán gì nữa, đi về. Ngang qua cái quán nhỏ đầu phố thấy bàn nào cũng có người ngồi lơ mơ. Có ông lẩn mẩn lúc quờ cốc cà phê đưa lên môi lúc sờ cây bút bi chơi đố chữ.

Có mẹ nạ dòng cháu sớm phom dáng cực kì hùng tráng vẫn chẳng ngần ngại gọi cốc kem to cho xứng người, ăn thi với cháu. Có bà già lim dim mắt xếp tà váy rồi ngồi vắt chân đầy vẻ quý phái khiêu khích kiểu Marlene Dietrich, thay vì điếu thuốc trên tay lại thấy phảy một cái quạt giấy thật là xinh.

Kỷ vật của những ngày nắng hạ Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Tuynidi gì đó đây, không biết cụ mua hay cụ trai nào tặng, mùa hạ vừa đi qua hay từ đời thăm thẳm nỗi niềm nào.

Advertisement

Bất chợt thấy mình chậm bước. Bất chợt hình dung lại, ngày xưa, cũng quạt giấy như này. Bà tóc bạc vấn lẳn trong vành khăn trắng để “trở” ai trong họ chẳng biết. Bà đứng chờ tàu điện chỗ Ô Cầu Dền. Bà luôn luôn có cái quạt trong tay phe phảy cho cháu bám quẩn bên chân.

Bà ngồi chân co chân duỗi đầu tấm phản sau này hạ xuống che cái hầm trú ẩn đào ngay dưới gậm giường rồi cúi người vuốt ngay ngắn ống quần, mở âu giầu, tỉ mẩn tiện miếng vỏ quạch, xé mảnh lá giầu không, bổ nhỏ miếng cau đã bổ sáu từ trước, quết chút vôi trắng, nhúm chút thuốc lào rồi đưa lên miệng, rồi bận bịu dọi lại vành cái quạt nan, xếp lại cái quạt giấy, lầm thầm không biết là mắng đứa cháu nào dùng đồ xong buông quăng bỏ vãi, vô ý vô tứ chẳng biết của bền tại người.

Chao ôi những buổi chiều Hà Nội hết chiến tranh, đã khó nghèo càng thêm khó nghèo vì mẹ mất, nhưng bà còn đó cho chị em mình nương dựa, bà còn đó, giữ lại cho chị em mình những gì còn có thể giữ được, là sự ngây ngô quý giá nhất của tuổi ấu thơ.

Tuoi ay minh yeu anh 2

Cuốn tản văn Tuổi ấy mình yêu của nhà văn Lê Minh Hà. Ảnh: NXB Trẻ.

Cũng cái quạt giấy này, trong bàn tay con gái những ngày cuối cùng đến lớp, giấy trang kim màu tím, nan tre, thằng bạn ngồi bên giằng lấy hỏng luôn chỗ tay cầm, những cái nan rời nhau ra, thế mà nó ra sức khoát tay quạt cho cả mình với nó. Tức mà nghĩ tới những ngày sắp xa đi, gặp lại không biết có đủ tự tin như giờ vẫn hay gây sự với nhau, nghĩ tới cái compa dở hơi nó vẫn nhường mình trong giờ hình học, thôi im vậy.

Bà già váy hoa vẫn đang lơ mơ bên cốc kem phe phẩy cái quạt giấy rõ là xinh. Uể oải thì mình đang uể oải lắm rồi, nhưng có mơ đâu, mà cảm như từ đâu xưa hơi gió từ cái quạt giấy muôn đời. Chỉ phảy nhẹ phảng phất thôi đã đủ làm xao động hơi nóng ngày tháng hạ vì cái mùi hơi thum thủm của những nan quạt vót từ tre ngâm ao bùn.

Advertisement

Ở Hà Nội giờ hay gặp các bà đi tập dưỡng sinh. Khi biểu diễn dưỡng sinh, các bà mặc cả bộ sa tanh đỏ, cứ từng lúc lại khuỵu đầu gối trong tư thế cảm tử lao về phía trước, trong tay là cái quạt hình thù như cái quạt giấy mình quen pạch một cái đồng loạt xòe ra.

Chưa tới gần nên không biết nan quạt bằng tre bằng gỗ hay bằng nhựa, nhưng cái quạt cũng màu đỏ rực, lại có tua rua, xòe ra đều còn hơn các diễn viên hội đoàn tập múa, chỉ còn thiếu hai bím tóc ngắn vểnh ngang tai và trẻ đi dăm chục tuổi là gần bằng diễn viên kinh kịch Bắc Kinh nhảy một cái, xoạc chân một cái, cao giọng á a a trên sân khấu Hà Nội một thời.

Về với Hà Nội, cứ lần nào nhìn thấy những mảnh tam giác đỏ rực ấy chói lọi trong nắng sớm cũng giật mình.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/mua-he-da-xa-post1455038.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Xu hướng