Connect with us

Sách hay

Mai rồi mưa tạnh trong xuân

Được phát hành

,

Huế hiện lên đầy thơ mộng trong nỗi nhớ niềm thương của tác giả Thái Kim Lan, được ghi chép lại tỉ mỉ qua cuốn tản văn “Mai rồi mưa tạnh trong xuân”. Những ký ức về bà và mạ, về những ngày xuân xưa cũ chốn cố đô khiến người đọc cảm thấy thật xúc động.

Mùa xuân là thời khắc tuyệt diệu mà bao người mong mỏi, nhất là những người con sống xa quê. Khi nắng ấm mùa xuân nhảy múa trên cành lá, lòng người lại nô nức niềm vui đoàn tụ.

Ve nha don Tet anh 1

Ngày Tết hãy dành thời gian về bên gia đình, hưởng niềm vui sum vầy. Ảnh: L.Đ.

Kể từ đã mấy mươi năm xa quê, câu nói ấy hầu như hàng năm được tôi lặp lại, mỗi khi những ngày cuối của tháng Mười Hai bên ni dương lịch lụn dần, theo với mùa tuyết đổ, rồi cũng theo với trận gió thổi tuyết tan bất ngờ, cảm giác mơ hồ như có ai đến sau lưng gõ nhẹ trên vai nhắc nhở rằng bên nớ năm tháng âm lịch cũng đang nghiêng mau, Tết nay mai sắp đến.

Có khi tôi nói câu ấy âm thầm, như căn dặn với mình hay như vỗ về một cái tôi tưởng đã mất hút trong vô thức hồi nào đang lững thững trở về từ một nẻo rất xa, mà hình như nẻo xa ấy chính là con đường đã đi những ngày Tết của tuổi thơ.

Có khi tôi nói câu ấy như một lời bâng quơ, ai nghe được thì nghe, có khi câu ấy bỗng trở thành như một lời tuyên bố công khai quả quyết rằng, việc về nhà ăn Tết của tôi là nghiêm trang cần phải thực hiện cho bằng được. Ấy vậy mà những mấy mươi năm đã trôi qua, nhiều lần trở về quê, trong năm có khi hai lần, tôi vẫn vụng về tính ngày tháng làm sao mà cứ hụt hoài cái Tết, đến nỗi chưa được ăn “nó” một lần ở nhà.

Nói ra thì mọi chuyện đều lơ mơ, chẳng có cái chi là xác quyết, đến nỗi đã nhiều chuyến định về ăn Tết hóa ra nửa chừng xuân, trở thành chuyện nực cười cho thiên hạ và cả cho người thân. Mơ hồ lắm! Mà quả thật là mơ hồ chỉ nội cái chữ “Về nhà ăn Tết” ấy.

Con tôi sẽ bảo “Thì nhà mạ ở Muenchen đây nì”, ăn Tết ở đây cũng là ăn Tết ở nhà, chớ có đi mô xa, nhưng rồi chính con đọc thấy trong mắt mẹ một nỗi ngờ, e chữ “nhà” ấy tuồng như là một cưỡng bách, vì nó chỉ đúng với mạ một phần, phần bên kia đại dương cũng là nhà mạ, dù bao nhiêu người thân đã ra đi.

Cứ thế “cái nhà” treo lơ lửng lưng chừng, đến nỗi lắm chuyến về ăn Tết thành ra dở dang… cũng vì cái nhà nọ níu kéo cái nhà kia…mà thành ra lỡ chuyện.

Cái nhà đã lơ lửng thinh không… thì “ăn Tết” ở đâu mới là nhà? Hay “ăn Tết” chỉ là một thứ mộng triệu, một ước mơ của những người xa quê?

Thật tình, hai chữ “ăn Tết” hình như đối với người xa quê có một điều chi lạ lùng, hai chữ ấy không phải đơn giản chỉ là “ăn” như ăn cơm, ăn kẹo, ăn bánh…, một khi ăn xong, thưởng thức xong, được no, được thỏa là có thể quên, bụng dạ và đầu óc thảnh thơi có thể nghĩ đến những bận bịu bổn phận này hay công danh khác.

Ve nha don Tet anh 2

Tản văn Mai rồi mưa tạnh trong xuân của tác giả Thái Kim Lan. Ảnh: K.Đ.

Chúng cũng không có nghĩa bóng của những thứ ăn tạp kiểu ăn gian, ăn tham như ăn hối lộ, ăn bớt, ăn xén, ăn vụng… ăn xong là phải giấu diếm hoặc phải xấu hổ, hay đi sám hối vì cảm thấy tội lỗi đã lỡ phạm vào những cuộc ăn như thế (có người sẽ mỉm cười nói thời kinh tế thị trường này ai có thì giờ đi sám hối, nhưng…đó cũng chỉ là chuyện kinh tế thị trường).

Ở mỗi thứ ăn nói trên, đối tượng ăn cụ thể, được định hình bằng hiện vật rõ ràng, dù phẩm chất ăn khác xa nhau một trời một vực, trong lúc hai chữ ăn Tết đối với người xa quê thường có những âm vang bí nhiệm kêu gọi một sự quay về, một hồi hướng hầu như không thể gọi được gọn ghẽ một tên chính xác, bởi vì chúng nói lên nhiều thứ, nhiều điều, đến nỗi nếu ta thử nói lên một điều nào là lập tức đã thấy thiếu điều kia, vừa kể xong điều này là đã thấy ngay chưa vừa, chưa đủ điều nọ… cho nên… mới gọi là ăn… Tết: Ăn cả một cái Tết nhưng ăn gì nơi cái Tết ấy?

Chữ Tết nghe như nhiều, nhiều lắm, nhiều đến “ăn” không hết mà lại “ăn” mấy cũng chưa vừa cho những kẻ xa quê, nó vượt lên trên mọi thứ “ăn” thường tục để đến nỗi có thể trở thành thiêng liêng như một thứ đi mà chưa đến, một kiểu hành hương.

Dĩ nhiên mỗi khi xuân về Tết đến, người xa quê nào cũng ráng “ăn một cái Tết” ra hồn ngay trên mảnh đất tha phương mà mình đang sống, dù ở nơi hẻo lánh hay nơi chốn phồn hoa tấp nập, dù trong trại tị nạn, ngay cả trong ngục tù, trong căn phòng chật chội hay trong căn nhà rộng lớn, một mình hay với bạn bè đồng hương, lắm khi đầy đủ lễ nghi rình rang còn hơn ở quê nhà, cũng chợ hoa, cũng thiệp chúc Tết tưng bừng, cũng hội chợ ngày xuân, có khi cả bài chòi bài tới, bầu cua cá cọp…

Và họ có thể ăn lu bu, ăn kĩ lưỡng, ăn đến nơi đến chốn, cái gọi là “cliché” ngày Tết, đại khái như “thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh…”, và lắm khi cũng “ăn” luôn những “câu đối đỏ”, “nêu cao” ngất nghểu, “pháo nổ” giòn giã nơi những góc trời xa ngái Mỹ Âu.

Chẳng thiếu một thứ nào trong những buổi chơi xuân, đón Tết ở quê người. Ấy vậy mà sao nghe như có một điều chi chưa trọn, chưa tròn, chưa tự nhiên, chưa thật, đến nỗi mỗi khi tiệc tan, trên đường về… sau tiếng cười hầu như còn đọng lại một điều chi nghẹn ngào trong cổ, có lẽ một tiếng nấc chưa thành hay một thứ gai lạnh làm rùng mình, chợt tỉnh về nỗi cô đơn trong những ngày đầu xuân… người xa quê bỗng càng nhớ Tết… Mỗi cái Tết xa quê trở nên một cái “bồng binh” dồn nỗi nhớ Tết quê hương.

Xin đừng hỏi nhớ điều chi nơi Tết quê hương ấy. Một nhánh mai? Vị mứt gừng cay lưỡi trong cơn lạnh mưa xuân, hoa hải đường trước sân hay cành đào trước ngõ? Đòn bánh chưng bánh tét thơm mùi nếp mới? Hay nhớ tuổi thanh xuân? Hay tiếng chào năm mới? Tết là một tiếng vọng từ trong lòng đất sinh thành thoát ra, chập chờn như một nhắc nhở quay về của người xa quê.

Có lẽ tính vô thường của thời gian, sự đổi thay cũ mới, sự hóa nhập từ đông sang xuân sẽ dễ dàng được chịu đựng, được cảm nhận vẹn toàn, được cảm khái hoan hỉ khi chúng xảy ra chính trong không gian sống của con người, bứng ra nơi khác, vô thường hóa ra cô đơn, cũ mới trở nên khắc khoải, và mùa xuân hiển hiện lại làm cho kẻ tha hương càng thấy như mình đang ngồi bên vệ đường trông ngóng xuân sang mà chưa có lần nhập cuộc.

Đáng thương là sự ngóng xuân nơi đất khách ấy, nhất là những kẻ lẻ loi – mà ai không một lần lẻ loi trong khi lênh đênh trên đất khách?

Độc tại vị hương vi dị khách

Mỗi phùng giai tiết bội tư thân

Mỗi khi xuân về Tết đến, làm người khách lạ nơi chốn lạ thật khó làm sao! Những lúc ấy thấy thương thân mình gấp bội và nỗi ao ước “năm sau về nhà ăn Tết” trở thành một hối thúc tự nhiên, bỏ vào cái bồng binh năm tháng, nhốt nó lại nhiều năm cho đến khi thành hai câu đối dán lên trên cột ba ngày Tết, đóng đinh nỗi nhớ xuân quê, mà cụ nghè Chu Mạnh Trinh có lần đã viết cho một người khách lưu lạc:

Vọng xuân xuân khả liên, lĩnh thụ trùng đà thiên lí mục,

Dục quy quy vị đắc, cô chu nhất hệ cố viên tâm.

(Trông xuân xuân đáng thương, cây núi ngăn đôi nghìn dặm mắt,

Muốn về về chửa được, con thuyền buộc một mối tình nhà)

Bao nhiêu năm ấm ức nó có thể trở thành tâm bệnh. Cho nên phải đập vỡ bồng binh dồn và nhốt nhớ Tết quê hương, tôi khăn gói lên đường tìm về cái Tết nhớ mấy mươi năm.

Cuộc đi còn chưa đến… Tết chưa về, bỗng nhiên ngập ngừng trong dòng người ào ạt như thác đổ nơi thành phố một thời là hòn ngọc viễn đông, tự hỏi mình đi VỀ đâu? Có phải Tết năm nay là cái Tết ở nhà?

Câu trả lời nghe xa, như tôi đang thấy mình còn lạ. Chỉ biết một điều, tôi sẽ trở về dòng sông ấy, ngắm núi mùa xuân trong lòng sông, thả con thuyền buộc mối tình nhà về bến, để trả lời một câu thơ hầu như là định mệnh của kẻ tha hương: “Xuân lai giang thượng kỉ nhân hoàn” (Xuân tới trên sông đã mấy người trở về) rằng đã có người đang về… ăn… Tết.

Nguồn: https://zingnews.vn/nam-nay-ve-nha-an-tet-post1395048.html

Tiếp tục đọc
Nhấn vào đây để bình luận

You must be logged in to post a comment Login

Leave a Reply

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng