Connect with us

Sách hay

Mai rồi mưa tạnh trong xuân

Được phát hành

,

Huế hiện lên đầy thơ mộng trong nỗi nhớ niềm thương của tác giả Thái Kim Lan, được ghi chép lại tỉ mỉ qua cuốn tản văn “Mai rồi mưa tạnh trong xuân”. Những ký ức về bà và mạ, về những ngày xuân xưa cũ chốn cố đô khiến người đọc cảm thấy thật xúc động.

Mùa xuân là thời khắc tuyệt diệu mà bao người mong mỏi, nhất là những người con sống xa quê. Khi nắng ấm mùa xuân nhảy múa trên cành lá, lòng người lại nô nức niềm vui đoàn tụ.

Ve nha don Tet anh 1

Ngày Tết hãy dành thời gian về bên gia đình, hưởng niềm vui sum vầy. Ảnh: L.Đ.

Kể từ đã mấy mươi năm xa quê, câu nói ấy hầu như hàng năm được tôi lặp lại, mỗi khi những ngày cuối của tháng Mười Hai bên ni dương lịch lụn dần, theo với mùa tuyết đổ, rồi cũng theo với trận gió thổi tuyết tan bất ngờ, cảm giác mơ hồ như có ai đến sau lưng gõ nhẹ trên vai nhắc nhở rằng bên nớ năm tháng âm lịch cũng đang nghiêng mau, Tết nay mai sắp đến.

Có khi tôi nói câu ấy âm thầm, như căn dặn với mình hay như vỗ về một cái tôi tưởng đã mất hút trong vô thức hồi nào đang lững thững trở về từ một nẻo rất xa, mà hình như nẻo xa ấy chính là con đường đã đi những ngày Tết của tuổi thơ.

Có khi tôi nói câu ấy như một lời bâng quơ, ai nghe được thì nghe, có khi câu ấy bỗng trở thành như một lời tuyên bố công khai quả quyết rằng, việc về nhà ăn Tết của tôi là nghiêm trang cần phải thực hiện cho bằng được. Ấy vậy mà những mấy mươi năm đã trôi qua, nhiều lần trở về quê, trong năm có khi hai lần, tôi vẫn vụng về tính ngày tháng làm sao mà cứ hụt hoài cái Tết, đến nỗi chưa được ăn “nó” một lần ở nhà.

Nói ra thì mọi chuyện đều lơ mơ, chẳng có cái chi là xác quyết, đến nỗi đã nhiều chuyến định về ăn Tết hóa ra nửa chừng xuân, trở thành chuyện nực cười cho thiên hạ và cả cho người thân. Mơ hồ lắm! Mà quả thật là mơ hồ chỉ nội cái chữ “Về nhà ăn Tết” ấy.

Con tôi sẽ bảo “Thì nhà mạ ở Muenchen đây nì”, ăn Tết ở đây cũng là ăn Tết ở nhà, chớ có đi mô xa, nhưng rồi chính con đọc thấy trong mắt mẹ một nỗi ngờ, e chữ “nhà” ấy tuồng như là một cưỡng bách, vì nó chỉ đúng với mạ một phần, phần bên kia đại dương cũng là nhà mạ, dù bao nhiêu người thân đã ra đi.

Cứ thế “cái nhà” treo lơ lửng lưng chừng, đến nỗi lắm chuyến về ăn Tết thành ra dở dang… cũng vì cái nhà nọ níu kéo cái nhà kia…mà thành ra lỡ chuyện.

Cái nhà đã lơ lửng thinh không… thì “ăn Tết” ở đâu mới là nhà? Hay “ăn Tết” chỉ là một thứ mộng triệu, một ước mơ của những người xa quê?

Thật tình, hai chữ “ăn Tết” hình như đối với người xa quê có một điều chi lạ lùng, hai chữ ấy không phải đơn giản chỉ là “ăn” như ăn cơm, ăn kẹo, ăn bánh…, một khi ăn xong, thưởng thức xong, được no, được thỏa là có thể quên, bụng dạ và đầu óc thảnh thơi có thể nghĩ đến những bận bịu bổn phận này hay công danh khác.

Ve nha don Tet anh 2

Tản văn Mai rồi mưa tạnh trong xuân của tác giả Thái Kim Lan. Ảnh: K.Đ.

Chúng cũng không có nghĩa bóng của những thứ ăn tạp kiểu ăn gian, ăn tham như ăn hối lộ, ăn bớt, ăn xén, ăn vụng… ăn xong là phải giấu diếm hoặc phải xấu hổ, hay đi sám hối vì cảm thấy tội lỗi đã lỡ phạm vào những cuộc ăn như thế (có người sẽ mỉm cười nói thời kinh tế thị trường này ai có thì giờ đi sám hối, nhưng…đó cũng chỉ là chuyện kinh tế thị trường).

Ở mỗi thứ ăn nói trên, đối tượng ăn cụ thể, được định hình bằng hiện vật rõ ràng, dù phẩm chất ăn khác xa nhau một trời một vực, trong lúc hai chữ ăn Tết đối với người xa quê thường có những âm vang bí nhiệm kêu gọi một sự quay về, một hồi hướng hầu như không thể gọi được gọn ghẽ một tên chính xác, bởi vì chúng nói lên nhiều thứ, nhiều điều, đến nỗi nếu ta thử nói lên một điều nào là lập tức đã thấy thiếu điều kia, vừa kể xong điều này là đã thấy ngay chưa vừa, chưa đủ điều nọ… cho nên… mới gọi là ăn… Tết: Ăn cả một cái Tết nhưng ăn gì nơi cái Tết ấy?

Chữ Tết nghe như nhiều, nhiều lắm, nhiều đến “ăn” không hết mà lại “ăn” mấy cũng chưa vừa cho những kẻ xa quê, nó vượt lên trên mọi thứ “ăn” thường tục để đến nỗi có thể trở thành thiêng liêng như một thứ đi mà chưa đến, một kiểu hành hương.

Dĩ nhiên mỗi khi xuân về Tết đến, người xa quê nào cũng ráng “ăn một cái Tết” ra hồn ngay trên mảnh đất tha phương mà mình đang sống, dù ở nơi hẻo lánh hay nơi chốn phồn hoa tấp nập, dù trong trại tị nạn, ngay cả trong ngục tù, trong căn phòng chật chội hay trong căn nhà rộng lớn, một mình hay với bạn bè đồng hương, lắm khi đầy đủ lễ nghi rình rang còn hơn ở quê nhà, cũng chợ hoa, cũng thiệp chúc Tết tưng bừng, cũng hội chợ ngày xuân, có khi cả bài chòi bài tới, bầu cua cá cọp…

Và họ có thể ăn lu bu, ăn kĩ lưỡng, ăn đến nơi đến chốn, cái gọi là “cliché” ngày Tết, đại khái như “thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh…”, và lắm khi cũng “ăn” luôn những “câu đối đỏ”, “nêu cao” ngất nghểu, “pháo nổ” giòn giã nơi những góc trời xa ngái Mỹ Âu.

Chẳng thiếu một thứ nào trong những buổi chơi xuân, đón Tết ở quê người. Ấy vậy mà sao nghe như có một điều chi chưa trọn, chưa tròn, chưa tự nhiên, chưa thật, đến nỗi mỗi khi tiệc tan, trên đường về… sau tiếng cười hầu như còn đọng lại một điều chi nghẹn ngào trong cổ, có lẽ một tiếng nấc chưa thành hay một thứ gai lạnh làm rùng mình, chợt tỉnh về nỗi cô đơn trong những ngày đầu xuân… người xa quê bỗng càng nhớ Tết… Mỗi cái Tết xa quê trở nên một cái “bồng binh” dồn nỗi nhớ Tết quê hương.

Xin đừng hỏi nhớ điều chi nơi Tết quê hương ấy. Một nhánh mai? Vị mứt gừng cay lưỡi trong cơn lạnh mưa xuân, hoa hải đường trước sân hay cành đào trước ngõ? Đòn bánh chưng bánh tét thơm mùi nếp mới? Hay nhớ tuổi thanh xuân? Hay tiếng chào năm mới? Tết là một tiếng vọng từ trong lòng đất sinh thành thoát ra, chập chờn như một nhắc nhở quay về của người xa quê.

Có lẽ tính vô thường của thời gian, sự đổi thay cũ mới, sự hóa nhập từ đông sang xuân sẽ dễ dàng được chịu đựng, được cảm nhận vẹn toàn, được cảm khái hoan hỉ khi chúng xảy ra chính trong không gian sống của con người, bứng ra nơi khác, vô thường hóa ra cô đơn, cũ mới trở nên khắc khoải, và mùa xuân hiển hiện lại làm cho kẻ tha hương càng thấy như mình đang ngồi bên vệ đường trông ngóng xuân sang mà chưa có lần nhập cuộc.

Đáng thương là sự ngóng xuân nơi đất khách ấy, nhất là những kẻ lẻ loi – mà ai không một lần lẻ loi trong khi lênh đênh trên đất khách?

Độc tại vị hương vi dị khách

Mỗi phùng giai tiết bội tư thân

Mỗi khi xuân về Tết đến, làm người khách lạ nơi chốn lạ thật khó làm sao! Những lúc ấy thấy thương thân mình gấp bội và nỗi ao ước “năm sau về nhà ăn Tết” trở thành một hối thúc tự nhiên, bỏ vào cái bồng binh năm tháng, nhốt nó lại nhiều năm cho đến khi thành hai câu đối dán lên trên cột ba ngày Tết, đóng đinh nỗi nhớ xuân quê, mà cụ nghè Chu Mạnh Trinh có lần đã viết cho một người khách lưu lạc:

Vọng xuân xuân khả liên, lĩnh thụ trùng đà thiên lí mục,

Dục quy quy vị đắc, cô chu nhất hệ cố viên tâm.

(Trông xuân xuân đáng thương, cây núi ngăn đôi nghìn dặm mắt,

Muốn về về chửa được, con thuyền buộc một mối tình nhà)

Bao nhiêu năm ấm ức nó có thể trở thành tâm bệnh. Cho nên phải đập vỡ bồng binh dồn và nhốt nhớ Tết quê hương, tôi khăn gói lên đường tìm về cái Tết nhớ mấy mươi năm.

Cuộc đi còn chưa đến… Tết chưa về, bỗng nhiên ngập ngừng trong dòng người ào ạt như thác đổ nơi thành phố một thời là hòn ngọc viễn đông, tự hỏi mình đi VỀ đâu? Có phải Tết năm nay là cái Tết ở nhà?

Câu trả lời nghe xa, như tôi đang thấy mình còn lạ. Chỉ biết một điều, tôi sẽ trở về dòng sông ấy, ngắm núi mùa xuân trong lòng sông, thả con thuyền buộc mối tình nhà về bến, để trả lời một câu thơ hầu như là định mệnh của kẻ tha hương: “Xuân lai giang thượng kỉ nhân hoàn” (Xuân tới trên sông đã mấy người trở về) rằng đã có người đang về… ăn… Tết.

Nguồn: https://zingnews.vn/nam-nay-ve-nha-an-tet-post1395048.html

Tiếp tục đọc
Nhấn vào đây để bình luận

You must be logged in to post a comment Login

Leave a Reply

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng