Connect with us

Sách hay

Phạm Duy Nghĩa trong bản đồ truyện ngắn Việt

Được phát hành

,

Với tìm tòi bứt phá ở mạch truyện luận đề xã hội và tâm linh kỳ ảo, bằng lối viết gai góc, kỹ lưỡng, biến hóa, Phạm Duy Nghĩa khẳng định vị trí trên bản đồ truyện ngắn.

Truyen ngan anh 1

Đời văn của một người, dù có là tài năng thì cũng không tránh khỏi những thăng trầm trồi sụt. Điều đó tưởng cũng chẳng có gì đáng để làm buồn. Trường hợp Phạm Duy Nghĩa là một ví dụ. Lẽ thường, trong sáng tác văn chương, người cầm bút phải khổ công kiếm tìm danh tính cho mình. Phạm Duy Nghĩa có nỗi khổ kép: phải tạo ra danh tiếng, để rồi phải vượt qua chính danh tiếng ấy.

Phạm Duy Nghĩa sáng tác không nhiều. Phải đến hơn 10 năm, Phạm Duy Nghĩa mới trở lại với Người bay trong gió xanh (NXB Hội Nhà văn liên kết Tao Đàn, 2022). Đây cũng là tác phẩm duy nhất đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 2022. Người bay trong gió xanh gồm 12 truyện, ghi lại dấu ấn “giai đoạn Hà Nội” của anh. Một giai đoạn không ít lần nằm “chung cư ngoại thành” còn thảng thốt ngỡ mình đang bay trên một thảo nguyên đầy hoa cỏ và nắng gió.

Trong miền ký ức xa xôi…

Ấn tượng, gai ngạnh và kiêu hãnh trong khuôn hình cổ điển

Đọc Người bay trong gió xanh, có thể nhận ra sự chuyển dịch mạnh mẽ của Phạm Duy Nghĩa về mã truyện. Người bay trong gió xanh chạm sâu vào các vấn đề xã hội, văn hóa, tâm linh. Có thể nói, chính những suy tư về thời cuộc và luận đề thế sự đã giúp Phạm Duy Nghĩa trở lại và vượt qua chính mình, trong một chiều sâu mới.

Advertisement

Sài thục mở đầu tập truyện bằng một thế giới bưng bít, cô đơn. Một huyền thoại u sầu. Truyện có ba nhân vật chính, không rõ mặt. Một ông bố cục cằn, gia trưởng. Một bà mẹ nhẫn nhục. Một đứa con gái ngơ ngác, u hoài. Hành động trong truyện là những cú đấm, đá của người đàn ông bất nhẫn. Viền truyện đầy phân thải và máu huyết. Cộng hưởng với hình tượng bố (trật tự, đơn phiến, cố chấp, kẻ tạo ra và duy trì luật lệ), củ sài thục là một biểu tượng của luân lí, nam quyền.

Trong thung lũng hoang vắng, sài thục cũng là một ẩn dụ về bất hạnh khổ đau. Khi người mẹ chạy trốn, đứa con gái xót xa: “Ở trên núi buồn thê lương, và nhiều bất trắc nữa. Ai đó bảo rằng trên đó có tự do. Tự do là gì, cái đó có thật sự cần không, nếu con người ta vẫn có thể sống ở một nơi tù túng mà an toàn”. Sài thục cuối cùng cũng bị giải thiêng. Điều húy kị được xóa bỏ. Sau đổ vỡ đau đớn, một trật tự thế giới mới hình thành.

Sài thục còn choán ngợp bởi đồi hoang, giông gió, thảo nguyên, khe núi, đồng cỏ ngù gai, rất nhiều hoa mộc kinh và những tiếng lục lạc buồn. “Cũng mãi sau này” là sự điểm nhịp cho nỗi cô đơn truyền kiếp. Sài thục đánh dấu sự trở lại của Phạm Duy Nghĩa, ấn tượng, gai ngạnh và kiêu hãnh trong một khuôn hình cổ điển.

Người bayGió xanh có cùng mã truyện, song được triển hiện theo những cách thể khác nhau. Nếu Người bay là câu chuyện giả tưởng phản ánh cực thực hiện cảnh “chân trời không có người bay” thì Gió xanh lại là một truyện ngắn đậm tiếng cười. Trong Người bay, bị vây bủa bởi định kiến, hẹp hòi, ganh ghét, đố kị, khinh khi, giấc mơ cất cánh của cậu bé chẳng bao giờ trở thành hiện thực. Nói khác đi, người ta chỉ có thể bay lên trong trời cao gió lộng, nơi không còn những sợi xích và trói buộc, nhưng đó chỉ là một giấc mơ.

Phạm Duy Nghĩa là nhà văn giỏi tạo tình huống. Bạn đọc hẳn còn nhớ hiện cảnh trớ trêu trong Cơn mưa hoa mận trắng mà Thuận và Kiên được đặt vào. Người bay trong gió xanh cũng vậy. Hầu như truyện nào trong đây cũng có một tình huống hấp dẫn gọi mời.

Advertisement

Nếu ở Người bay, một cậu bé đột nhiên biết bay thì trong Gió xanh, “đang yên đang lành”, thung lũng bỗng xuất hiện những cơn gió lạ. Cơn gió xanh mát lành, mộng mơ, làm đẹp cho đời. Có điều trớ trêu là, khởi nguồn từ gió xanh, “bệnh yêu đời”, “bệnh trong sáng” bộc phát trở thành những căn bệnh kinh niên, thậm chí nan y. Gió xanh, một mặt khác, cũng là ẩn ý về những hão huyền, phù phiếm, cái làm khô kiệt đời sống xác thân, thế tục và thế tất dẫn đến tiêu vong.

Thực tiễn cho thấy, đặc điểm tác phẩm tự sự phần lớn được quyết định bởi nhân dạng của người kể chuyện, chính xác hơn là bởi điểm nhìn của người kể chuyện. Đọc Phạm Duy Nghĩa, thường thấy xuất hiện kiểu nhân vật người kể chuyện là những cậu bé, cô bé ưa quan sát, pha chút mộng mơ.

Trong Con dê xanh trên núi tuyết, nếu con dê lông xanh là biểu tượng của cái đẹp thì cậu bé chăn dê tượng trưng cho khát khao thay đổi, khát khao về một cuộc đời đẹp đẽ hơn. Cự tuyệt lối sống bầy đàn, chấp nhận cô đơn, dê xanh, bù lại, được chết kiêu hãnh cho ước mộng tự do. Cậu bé chăn dê cuối cùng cũng nhận ra, thế giới thực khác xa với những viễn cảnh mà người ta nhào nặn ra cho cậu. Không phải ngẫu nhiên, cậu thường xuyên dự cảm về một ngày kia, “cơn bão sẽ đến”, cái cây đầy sâu sẽ đổ.

Phân tích truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa, thấy hình tượng người kể chuyện trong truyện ngắn của anh thường hiện thể trong việc tự hình dung mình của chính nhà văn (tất nhiên, trong trường hợp gần gũi nhất, nó cũng không bao giờ là bản thân tác giả). Dễ nhận ra, có đến quá nửa số truyện trong tập có người kể chuyện hoặc điểm nhìn kể chuyện là nhà văn, nhà báo, trưởng ban nghệ thuật, cựu sinh viên đại học văn khoa, gã nghệ sĩ độc thân, nhà văn trên dưới bốn mươi, cơ quan văn hóa văn nghệ, miền núi, trường sư phạm, chung cư ngoại thành, độc thân…

Trong hiện dạng này, truyện thường mang tính tự trào, hoặc là sự ngoại hiện hóa những thương tổn nội tâm của chủ thể. Ở trường hợp thứ nhất, Bệnh tỉnh là câu chuyện thú vị pha chút trào tiếu của một gã trung niên muộn vợ. Điều bi hài là ở chỗ, gã luôn nhìn thấu hệ tiêu hóa của người nữ cùng những vận động đầu vào đầu ra của nó.

Advertisement

Bệnh tỉnh cũng đan xen những giễu nhại về vai trò, chức năng văn học và giải thiêng ảo tưởng văn chương (“chưa đầy ba mươi tuổi, văn học đã phá hỏng đời nàng”, “người có hộ khẩu thường trú trên mây”, những người làm thơ rẩm rít…). Tuy nhiên, trò chơi ngôn ngữ trong Bệnh tỉnh không khiến tác giả xao lãng những suy tư nhân thế. Thực tại chua chát ở đây là, nhân vật phải sống trong một xã hội mà ở đó mọi người càng nói dối nhiều càng hay, “mọi lời nói dối trơ trẽn đều được coi là thật theo một sự thỏa thuận ngầm”.

Khác với Bệnh tỉnh, Người hùng biết sợ là sự ngoại hiện hóa cái tôi người kể trong một câu chuyện chua xót về thân phận, về sự tha hóa đến đáng thương của con người. Người hùng cuối cùng cũng chẳng thể thoát khỏi cõi đời tục lụy. Điều đau khổ là anh ta cảm nhận được rất rõ sự tha hóa trong từng giây khắc sống của mình.

Truyen ngan anh 2

Sách Người bay trong gió xanh. Ảnh: P.T.

Những vấn đề nhức nhối của đời sống

Cùng trong mạch truyện luận đề xã hội, Trong nắng huy hoàng đi sâu vào hiện cảnh bất công. Như một sự giễu nhại nhan đề, câu chuyện mở ra và khép lại bằng một ngày tàn. Nhân vật trung tâm, kẻ đấu tranh vì chính nghĩa luôn trong trạng thái bất lực, hư vô, ám ảnh bị đeo bám, và luôn dự cảm, hình dung về cái chết (đang đến rất gần) với mình. Ở đây, đô thị hóa đi liền với bần cùng hóa người dân, lưu manh hóa quan chức. Người có công với nước (như ông Thận) bị hắt hủi, xua đuổi, bị bỏ quên, “quanh năm lủi nhủi như con chồn con cáo”.

Truyện chạm vào những vấn đề nhức nhối của đời sống với tham quan lại nhũng và thói vô cảm, vô luân (“sông núi trong tay họ, muốn làm gì thì làm”). Điều trớ trêu là, trong hiện cảnh ấy, không phải con người, mà những hồn ma sẽ thực thi công lý. Kết truyện, một chân trời đỏ thẫm “ma quái” như đang báo hiệu những “cơn giông”.

Đọc Người bay trong gió xanh, có thể nhận ra một chuyển dịch mới trong thi pháp truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa: xu hướng viết truyện luận đề xã hội mang màu sắc tâm linh. Vấn đề ở đây không chỉ là thủ pháp thu hút độc giả, mà còn là những nghiền ngẫm của nhà văn về cõi thực và cõi khác. Con ma trong hội xô xe là sự đan dệt những câu chuyện tâm linh ma quái bí ẩn, hấp dẫn, mời gọi, đồng thời là những suy niệm sâu xa về ân oán, nghiệp quả báo ứng, tương khắc, tương sinh. Công lý ở đời trong đây, thêm một lần được giải quyết bởi người âm.

Advertisement

Đọc Chiếc áo second-hand, có thể nhận ra mô hình cấu trúc lắp ghép trong Hoa cẩm tú cầu ứng mệnh. Tuy nhiên, đường biên truyện đã đi xa khỏi thực tại thuần túy, gắn với những suy niệm về luân hồi, chiêm mộng, quả báo, hồn ma. Trong một khung cảnh mà “đến cả ma cũng bị bịt mồm”, yếu tố kỳ ảo tâm linh khi ấy như một sự cứu rỗi con người khỏi thực tại. Câu chuyện phiêu lưu chiếc áo của Giotto cho thấy ở đời, mọi công danh tiền bạc, dẫu cần, song suy cho cùng cũng chỉ là phù du. Phép màu, điều tốt đẹp rồi cũng sẽ rời xa khi con người ta phai nhạt từ tâm, lương thiện, vướng vào vô độ sân si.

Trong các truyện mang màu sắc tâm linh, Khí lạ vừa u huyền vừa phảng phất sầu bi. Ngôi nhà hoa hồng kỳ bí. Những giấc mơ màu đỏ máu. Những hồn ma. Trong cái nhìn người kể chuyện, vạn vật hữu linh. Do đó, không chỉ có hồn ma người, vong nội, vong hài nhi, mà còn hồn ma của chó, rắn, đỉa, … khắp cõi nhân gian. Truyện đậm màu sắc ma mị. Nhân vật Lê Phong như một ẩn dụ về con rồng bị kìm chân, bị “khí lạ đè nén”, không sao cất đầu lên được.

Nếu Con ma trong hội xô xe, Chiếc áo second-hand,Khí lạ là những truyện ngắn mang bóng dáng tâm linh, kỳ ảo thì Thành phố biến mất lại là truyện ngắn đậm chất phi lý. Truyện chạm vào những vấn đề xã hội sâu xa. Tình huống truyện ở đây là nhân vật chính thức dậy khi mọi thứ xung quanh biến mất. Trạng thái “xóa đi làm lại” khiến các nhân vật phơi bày tận cùng bản chất của mình. Vấn đề đặt ra là cuộc sống sẽ đi đến đâu, hay lại dẫm lên vết xe đổ nếu nó được xây dựng thuần toàn bằng khiếm khuyết: “gầy”, “lùn”, “què”, “đầu đất” (cô gái có đuôi) và kẻ dẫn dắt độc tài.

Có thể nhận thấy, ở hiện tại, ít có cây bút văn xuôi nào miêu tả thiên nhiên đẹp, sinh động, hấp dẫn như Phạm Duy Nghĩa. Bước vào thế giới truyện Phạm Duy Nghĩa, là bước vào không gian lóng lánh của thiên nhiên. Người bay trong gió xanh trập trùng núi đồi, thảo nguyên, sơn cước khắc khoải, mộng mơ, phảng phất buồn. Cánh đồng cỏ ngù gai, bạt ngàn lau trắng, cây trắc bá xanh rờn, những rừng sồi, rừng thích, thung lũng hoang liêu, những dòng sông cạn.

Thiên nhiên trong truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa ngập tràn các loài hoa: hoa mộc kinh xanh lam, hoa dã xuân xanh biếc, hoa mạc thi long lanh như tuyết, hoa li la trắng muốt, “hoa sở ngào ngạt trắng”, “hoa mơ hoa táo nở trắng ngần”…

Advertisement

Có cảm giác, nhà văn như một họa sĩ, chớp rất nhanh những khoảnh khắc giao hòa màu sắc và ánh sáng của tự nhiên để đưa chúng vào thế giới của mình. “Hoa cải nở vàng sáng cả một dải đất ven sông, cái rét càng làm hoa sáng và lung linh hơn trong những buổi chiều đông ảm đạm”; “vào một buổi sáng mùa xuân trời đẹp, tại lối đi nhỏ bên bờ rào có những những cây mận nở đầy hoa”; “giữa màu xanh mướt của những dải đồi mênh mông, màu vàng tươi trong vắt của nắng, màu vàng rực của những cánh đồng hoa hướng dương nở rộ vào tháng bảy và màu vàng xuộm trù phú của những thảm lúa mì”; “một dải hồ xanh bạc mênh mông uốn quanh dãy đồi bạch đàn quanh năm không ngừng gió”…

Cùng thiên nhiên, truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa còn giàu chất thơ là bởi anh thường đưa các cụm từ chỉ thời gian, đặc biệt là thời gian mùa (phiếm chỉ năm) mang phong vị các câu chuyện cổ để khơi gợi vào cảm xúc: “mùa xuân sang, cây cổ thụ nảy nở hồi sinh”, “mùa xuân cây lá đỏ gọi về rất nhiều chim”; “mùa đông năm ấy vùng núi phía bắc trải qua một trận rét chưa từng có”, “Khi ấy là cuối mùa hè, những vệt nắng vàng ươm đang tắt và hoàng hôn xanh ngát dâng ngập núi đồi”…

Có thể nói, việc miêu tả điểm xuyết thiên nhiên và diễn giải cảm xúc khiến mạch truyện của Phạm Duy Nghĩa không bị nhấn chìm bởi sự kiện, tốc độ trần thuật được hãm chậm, văn bản truyện của anh, do thế luôn có sự căng, chùng, giàu nhịp điệu.

Truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa còn hấp dẫn bởi không khí chuyện luôn lãng đãng khói sương. Nhà văn có xu hướng đẩy không gian, thời gian lùi ra xa để gợi vào luyến nhớ. Không phải ngẫu nhiên, truyện của anh thường xuất hiện cụm từ kiểu “ngày ấy”, “ngày đó”, miền núi phía Bắc những năm cuối thế kỷ trước, những năm tám mươi của thế kỷ trước, ban nhạc Boney M., bài hát Chủ nhật tươi hồng, đội chiếu bóng lưu động…

Mặc dù Người bay trong gió xanh đậm tính phúng dụ luận đề, không gian truyện đã mở sang tận cõi âm, song dường như đồi núi, chính xác hơn là thiên nhiên, con người đồi núi vẫn được nhà văn biệt đãi. Không phải ngẫu nhiên, Phạm Duy Nghĩa chọn Đi về vùng thảo nguyên để khép lại tập truyện của mình. Đi về vùng thảo nguyên là một giấc mơ đẹp đẽ, u sầu, gửi gắm niềm thương nỗi nhớ khôn khuây về người xưa chốn cũ. Có thể nhận ra, khi viết về miền núi, ngòi bút Phạm Duy Nghĩa luôn được thả lỏng, khoáng đạt, góc cạnh, phiêu lãng, mộng mơ.

Advertisement

Phạm Duy Nghĩa làm thơ, viết tiểu luận, nghiên cứu phê bình, song có lẽ truyện ngắn đã chọn anh để gửi bản mệnh người văn. Từ sau Cơn mưa hoa mận trắng, đặc biệt là với Người bay trong gió xanh, Phạm Duy Nghĩa đã trở lại đầy ấn tượng trong một nhân dạng mới: đẹp, sâu, hấp dẫn, ly kỳ.

Có thể khẳng định, với những tìm tòi bứt phá ở mạch truyện luận đề xã hội nhân sinh và tâm linh kỳ ảo, bằng lối viết gai góc, kỹ lưỡng, biến hóa tự nhiên, sát ván nhưng tinh tế, vừa chua chát đắng cay vừa lãng mạn u sầu, Phạm Duy Nghĩa tiếp tục khẳng định vị trí hàng đầu của mình trong bản đồ truyện ngắn Việt Nam đương đại. Có cảm giác, trong trùng điệp núi đồi truyện ngắn tiếng Việt hôm nay, đứng ở xa vẫn thấy Người bay trong gió xanh của Phạm Duy Nghĩa.

Nguồn: https://zingnews.vn/pham-duy-nghia-trong-ban-do-truyen-ngan-viet-post1391261.html

Advertisement
Tiếp tục đọc
Quảng cáo
Nhấn vào đây để bình luận

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sách hay

Lịch sử chưa kể về ramen

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một khảo cứu thú vị về lịch sử món mì ramen ở Nhật Bản thông qua lăng kính phân tích và mối liên hệ chặt chẽ của món ăn với địa lý, chính trị, quan hệ đối ngoại, khoa học dinh dưỡng, truyền thông và bản sắc dân tộc.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 cho thấy Zhu Shun Shui đã chỉ cho Mitsukuni (cận vệ của Tokugawa Mitsukuni) cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa.

Mì ramen được giới thiệu lần đầu đến Nhật Bản vào năm 1665, năm 1884 hay năm 1910? Tiền thân của nó liệu có phải là món ăn được gọi với cái tên ūshin udon, Nankin soba hay Shina soba? Tùy thuộc vào câu trả lời mà chúng ta sẽ nghiệm suy về từng món ăn khác nhau với một giai thoại nguồn cội riêng, cùng một quỹ đạo lịch sử đặc thù mang đến các góc nhìn cụ thể về đất nước Nhật Bản. […]

Mi ra men anh 1

Bìa cuốn sách

Giai thoại đầu tiên, và cũng sống động nhất, đã xuất hiện ban đầu trong công trình nghiên cứu mang tính tiên phong về lịch sử của mì ramen (được xuất bản năm 1987) của nhà sử học về ẩm thực Kosuge Keiko, trong đó ấn định thời điểm món ăn này được trình làng là vào những năm 1660, đồng thời cho rằng Tokugawa Mitsukuni (tên khác là Mito Kōmon, 1628 − 1701) – vị lãnh chúa huyền thoại thời phong kiến (daimyō) nắm hàng thứ hai sau Mạc chủ (shōgun) (1) – là người đầu tiên thưởng thức món mì ramen ở Nhật Bản.

Là nhân vật lịch sử nổi tiếng ở Nhật và từng được một bộ phim truyền hình dài tập mô tả như một vị hảo hán, ở gần cuối mỗi tập phim, Tokugawa Mitsukuni thường tiết lộ danh tính của mình cho những kẻ xấu bằng cách để lộ ra hình ảnh chiếc inrō (hộp đựng trang trí sơn mài kích cỡ nhỏ) có khắc gia huy của dòng họ ông, cho thấy ông là vị daimyō trong vùng.

Advertisement

Câu thoại “Ngươi không nhận ra gia huy này sao?” (Kono mondokoro ga me ni hairanuka?) được Kaku-san (cận vệ của Mitsukuni) nhắc lại trong đoạn cao trào của mỗi tập phim nhằm khôi phục lại trật tự và cấp bậc, và khiến những kẻ bất lương ngang ngược phải lập tức cầu xin sự khoan hồng.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 về các hoạt động của Mitsukuni cho thấy rằng Zhu Shun Shui – một người Trung Quốc tị nạn khỏi chính quyền nhà Minh sống ở Mito vào thời điểm đó (2) – đã chỉ cho Mitsukuni cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa nhiều khả năng chính là món mì ramen ngày nay (3).

Mặc dù Mitsukuni được biết đến nhiều nhất trong lịch sử Nhật Bản khi đã khởi xướng kế hoạch kỳ vĩ biên soạn nên Dai Nihon Shi – hay Lịch sử vĩ đại của Nhật Bản – một cuốn sách mất gần 250 năm và mười thế hệ để hoàn thành, ông cũng là một người ca tụng triết học Lý học (Neo- Confucianism) (4) và đã tìm đến Trung Quốc để được soi đường chỉ lối cách trị nước.

Ông do vậy đã tham vấn và kết giao với Zhu, người trước đó từng nắm chức thượng quan ở Trung Quốc dưới thời nhà Minh nhưng quyết định đến Nhật Bản vào năm 1665 do phải lưu vong khỏi chế độ cai trị của Mãn Châu.

Mi ra men anh 2

Lãnh chúa Tokugawa Mitsukuni. Nguồn: wikipedia.

Zhu trở thành một trong những cố vấn quan trọng nhất của Mitsukuni, và làm việc trong chính quyền cai trị của ông này trong 17 năm tiếp theo cho đến khi qua đời vào năm 1682. Vai trò quan trọng của Zhu trong đội ngũ cố vấn của vị daimyō đã giúp ông có được một cuộc sống thoải mái, cùng một bia mộ nổi bật còn tồn tại cho đến ngày nay trong khu nghĩa trang của gia tộc Tokugawa nhánh Mito (5).

Advertisement

Trong thời gian hầu cận daimyō, Zhu biết được rằng Mitsukuni là một người rất thích ăn udon – loại mì nước hiện vẫn phổ biến ở Nhật Bản – với sợi mì làm từ bột mì sử dụng với nước dùng dashi (làm từ cá ngừ khô và tảo bẹ).

Vào thế kỷ 17, người Nhật thường ăn mì udon với quả mơ ngâm (umeboshi) và vừng. Thấy vậy, Zhu đã gợi ý về năm thành phần thường được sử dụng trong món mì nước Trung Quốc để vị daimyō vùng Mito có thể thêm vào nhằm cải thiện hương vị của món ăn. Năm thành phần (ūshin) mà ông chủ ý đề xuất gồm: rễ kiệu (rakkyō), tỏi, hẹ tỏi (nira), hành lá và gừng (6).

Từ những dữ kiện này, nhà sử học về ẩm thực Kosuge phỏng đoán rằng Tokugawa Mitsukuni chính là cha đẻ của tập tục ăn mì nước Trung Quốc ở Nhật Bản. Sau này Bảo tàng Ramen ở Shin-Yokohama đã phổ biến rộng rãi câu chuyện trên, và kết quả là vào năm 2003, Tập đoàn Thực phẩm Nissin của Nhật Bản nhà sản xuất mì ramen ăn liền lớn nhất thế giới – trong một thời gian ngắn đã cho ra – mắt nhãn hiệu mì ăn liền U-shin có in hình gia huy của gia tộc Tokugawa, được điểm tô bằng giai thoại về Mitsukuni và Zhu.

Mặc dù khó xác định liệu món ăn từng được ưa chuộng bởi vị lãnh chúa nổi tiếng của vùng Mito kia tương thích ra sao với món ăn ngày nay được gọi với cái tên “mì ramen”, cần ghi nhớ rằng câu chuyện được lưu truyền rộng rãi ở trên về sự xuất hiện tại Nhật Bản của món mì nước kiểu người Hoa đã thiết lập nên một giai thoại nguồn cội trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên hiện đại – một thời đại được đánh dấu bằng việc người Nhật có xu hướng học hỏi người Trung Quốc.

Mặc dù câu chuyện trên được coi như một phiên bản bao trùm đầy lôi cuốn về nguồn gốc của món ăn, với đầy đủ các nhân vật ngoài đời thực cùng những tương tác tưởng tượng dựa trên các cách diễn giải không thành kiến đối với những ghi chép lịch sử, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhấn mạnh sự ngưỡng mộ của người Nhật đối với một nước Trung Quốc thời tiền Thanh.

Advertisement

—————-

1. Một tước hiệu đặc biệt dành cho những vị tướng quân có chức vụ cao nhất trong thời kỳ phong kiến của Nhật Bản. (ND)

2. Khi triều đại nhà Thanh củng cố quyền lực của mình lên miền nam Trung Quốc, một số học giả Nho giáo làm việc cho chính quyền nhà Minh đã trốn sang Đại Hàn và Nhật Bản để làm cố vấn.

3. Kosuge Keiko, Nippon Rāmen Monogatari: Chūka soba wa itsu doko de umareta ka (Tokyo: Shinshindō, 1987), tr.45-59.

4. Tư tưởng triết lý Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Lý học có thể được xem là nỗ lực hợp lý hóa cũng như thế tục hóa Nho giáo bằng cách loại bỏ các yếu tố mê tín, huyền bí của Đạo giáo và Phật giáo, vốn từng được đưa vào Nho giáo trong và sau đời nhà Hán. (ND)

Advertisement

5. Sĩ quan hải quân người Mỹ. (ND)

6. Cho đến năm 1854, khi Hiệp ước Perry đầu tiên có hiệu lực, triều đại Tokugawa ở Nhật Bản đã duy trì chính sách tránh tiếp xúc với các cường quốc phương Tây (ngoài Hà Lan) trong hơn hai thế kỷ để hạn chế tình trạng hỗn loạn do những nỗ lực cải đạo của các nhà truyền giáo Cơ đốc ở Nhật Bản. Riêng Hà Lan đã đồng ý giới hạn mối quan hệ giữa hai nước chỉ trong lĩnh vực thương mại, kết quả là Hà Lan trở thành quốc gia châu Âu duy nhất duy trì quan hệ thương mại và ngoại giao với Nhật Bản từ năm 1639 đến năm 1854.

Nguồn: https://znews.vn/giai-thoai-ve-su-xuat-hien-cua-mi-ramen-mon-an-quoc-dan-nhat-ban-post1455469.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Nóng giận là bản năng tĩnh lặng là bản lĩnh

Được phát hành

,

Bởi

Trong cuốn sách, tác giả Tống Mặc đã trò chuyện với độc giả về cách kiềm chế cơn nóng giận, học cách bao dung, kiểm soát cảm xúc của mình trước những tác động của cuộc sống.

Ai chẳng có lúc giận dữ, nóng giận là hạt mầm được gieo vào tâm ta từ lúc mới chào đời. Nhưng kìm chế cơn giận là bản lĩnh cần rèn luyện mỗi ngày.

Kim che con gian anh 1

Thái độ điềm tĩnh sẽ giúp con người dễ dàng vượt qua nghịch cảnh, đón nhận thử thách. Ảnh: P.G.

Điềm đạm là sự điềm tĩnh xuất phát từ nội tâm. Cổ nhân cho rằng: “Điềm tĩnh dưỡng thần, phật dịch ô vật.” Ý muốn nói, điềm tĩnh có thể dưỡng tâm, giúp con người không phụ thuộc vào thứ bên ngoài. Điềm tĩnh nói đến một thái độ sống “lùi”, vạn sự thuận theo tự nhiên, người giữ được tinh thần như vậy, chắc chắn có thể làm tốt việc dưỡng tâm.

Hiện giờ, ngày càng có nhiều người theo đuổi việc “dưỡng sinh”. Dưỡng sinh gồm có dưỡng tâm, dưỡng tính và dưỡng thân. Nhưng rất nhiều người chỉ quan tâm đến việc dưỡng thân, cho rằng chỉ cần chăm sóc cơ thể cho thật đẹp đẽ, khỏe mạnh, thì có thể hưởng thụ cuộc sống lâu dài. Cho nên, số người có thể kiên trì hàng ngày tập luyện thể thao, ăn uống lành mạnh thì nhiều, nhưng số người có thể kiên trì dưỡng tâm hàng ngày lại rất ít.

Advertisement

Có một bà mẹ cực kỳ chú trọng việc dưỡng sinh. Gặp ai cô ấy cũng thao thao bất tuyệt về đạo lý dưỡng sinh, về việc mỗi ngày phải ăn cái gì, ăn bao nhiêu, ăn thế nào, vận động bao lâu… Cô ấy nói hết lần này đến lần khác: Chỉ có làm như vậy, mới không bị bệnh! Nhưng mỗi lần nghe những điều này, tôi đều thấy rất lạ. Một người ngày nào cũng bận rộn chuẩn bị đồ ăn lành mạnh cho bản thân từ sáng đến tối, sợ mình ăn phải đồ ăn không tốt sẽ sinh bệnh, không thể sống thọ, ngày nào cũng lo lắng như vậy, liệu có vui vẻ được không?

Nếu như chúng ta dư ỡng sinh mà không bắt đầu từ việc dưỡng tâm dưỡng tính, trong lòng sẽ có nhiều phiền não, có nhiều ham muốn. Như vậy, “hạnh phúc” mà chúng ta được hưởng chỉ dừng ở mức ăn ngon mặc đẹp và cơ thể khỏe mạnh, đó không phải cuộc sống thăng hoa chân chính.

Đại sư Hoằng Nhất cho rằng điềm đạm là “điều đầu tiên của việc dưỡng tâm”. Điềm đạm mà ngài nói tới suy cho cùng là cần con người phải tĩnh tâm. Thế gian này bao chuyện phiền não, dễ ảnh hưởng đến tâm lý của con người.

Kim che con gian anh 2

Cuốn sách Nóng giận là bản năng, tĩnh lặng là bản lĩnh mang đến cho người đọc nhiều lời khuyên hữu ích. Ảnh: Chi.

Cho nên, nhiều người nghĩ rằng tâm mình không tĩnh là vì đang bị quá nhiều chuyện quấy nhiễu. Thật ra, ta bị quấy rầy không phải vì những chuyện phiền nhiễu trên đời, mà vì tâm không tĩnh. Khi chúng ta có thể tách khỏi tất cả sự vật bên ngoài, cho dù ở trong hoàn cảnh nào, ta cũng có thể hưởng thụ cuộc sống an nhàn thực sự.

Trong xã hội hiện thực này, rất nhiều chuyện sẽ làm cho chúng ta “dao động”.

Advertisement

Khi một người mỗi ngày kiếm được 10 đồng, chỉ đủ để ăn no, anh ta cảm thấy rất thoải mái, nhưng lại mơ mỗi ngày kiếm được 100 đồng; khi kiếm được 100 đồng mỗi ngày, anh ta lại cảm thấy mệt hơn trước rất nhiều, và không thấy hài lòng lắm, bởi vì có người mỗi ngày kiếm được 1.000 đồng.

Anh ta làm việc chăm chỉ hơn, cuối cùng cũng có thể kiếm 1.000 đồng mỗi ngày, anh ta bắt đầu mua xe, mua nhà, sống cuộc sống tốt đẹp mà anh ta từng ao ước, nhưng anh ta lại bắt đầu hướng về cuộc sống mỗi ngày kiếm được 10.000 đồng…

Chúng ta luôn rơi vào một vòng tròn kỳ lạ như vậy. Chúng ta luôn cho rằng khi đạt được điều gì mình mong đợi đã lâu, trong lòng sẽ cảm thấy yên tâm, hài lòng, từ đó có thể hạnh phúc. Nhưng sau khi đạt được điều mình muốn, ta lại có cảm giác cũng chỉ thế mà thôi. Những ham muốn lớn hơn nối tiếp nhau, mục tiêu ngày càng cao, và chúng ta càng ngày càng mệt hơn.

Do đó, một người sau khi có biệt thự, xe hơi, anh ta càng không hạnh phúc, bởi anh ta lo sợ một ngày nào đó sẽ mất đi cuộc sống như vậy, do đó đành phải dốc sức làm việc nhiều hơn, ép bản thân phải kiếm được 100.000 mỗi ngày, nếu chỉ kiếm được 80.000 thì thở dài ngao ngán.

Ngày nào cũng sống trong nỗi sợ mất đi danh lợi, gánh áp lực khủng khiếp, làm sao mà không sinh bệnh cho được? Dĩ nhiên, không phải con người không thể sống như vậy, danh lợi vốn là sự theo đuổi lớn nhất cuộc đời đối với một người bình thường.

Advertisement

Nhưng ý ở đây muốn nói, nếu như cuộc sống như vậy làm cho chúng ta cảm thấy thêm áp lực, thêm phiền muộn, không hề có cảm giác hạnh phúc, thì bạn hoàn toàn có thể suy nghĩ theo hướng khác.

Không nhất thiết phải từ bỏ những thứ như biệt thự, xe hơi, chỉ cần từ bỏ việc cố chấp gắn bó với những thứ này, dù kiếm được 1.000.000 mỗi ngày cũng không ngạo mạn, mà mỗi ngày kiếm được 10 đồng cũng không chán chường, muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, không cần gượng ép bản thân, bạn có thể cảm nhận được sự hạnh phúc ngay lập tức.

Người có nội tâm điềm đạm là người ngay cả khi mặc một chiếc áo vải, ăn một bữa cơm đạm bạc, vẫn có thể an nhàn thoải mái, không có chút cảm giác khó chịu hay không vui nào. Cho dù đối mặt với phiền não và sinh tử, họ cũng có thể thản nhiên đối diện, trong lòng không một chút gợn sóng đau khổ, không cần ăn ngon mặc đẹp vẫn cảm thấy yên bình và hạnh phúc.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/kim-che-con-gian-la-ban-linh-can-co-cua-nguoi-truong-thanh-post1455101.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tuổi ấy mình yêu

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn tản văn “Tuổi ấy mình yêu” ghi lại nhiều ký ức về Hà Nội của thế hệ 6X, 7X. Khi ấy thành phố tuy còn nhiều gian khó nhưng đầy lãng mạn với những biệt thự cổ rêu phong, cùng những thanh niên tha thiết yêu đời!

Dòng thời gian miên man đưa ta về những kỷ niệm ấu thơ không thể nào quên. Mùa hè nóng như đổ lửa, chẳng có điều hòa lẫn quạt điện, chỉ đành phe phẩy quạt nan xua đi cái nóng.

Tuoi ay minh yeu anh 1

Cảnh mấy đứa trẻ ngồi ở bể nước công cộng để mẹ tắm rửa là hình ảnh quen thuộc thời bao cấp. Ảnh: Fclikr.

Ở miền ôn đới mà nhiệt độ lên tới 40 thì không thể không coi là sự kiện. Vì thế mà ai chưa kịp trẻ lại, gầy đi, chết vì nóng thì cứ, rất nhiều người thích, tranh thủ cởi gần hết cho da có màu suy nghĩ. Cái màu này, Tây và ngay cả ta chưa từng trải đời này dăm chục năm tha hồ suy nghĩ cũng chả biết là màu gì.

[…]

Advertisement

Thành phố uể oải trong hơi nóng làm người cứ lơ mơ, thương chả ra thương nhớ chẳng ra nhớ, cứ dằng dai lừng khừng. Chẳng biết có phải dân ở những xứ nóng động cái là sùng sục hừng hực lên là vì một năm mấy mùa đã tha hồ uể oải rồi không?

Chiều qua thứ bảy, chỉ còn mấy tiếng nữa cửa hàng cửa họ đóng, đóng cửa luôn ngày chủ nhật là ngày đến Chúa cũng không làm gì (mà còn làm làm gì, sửa sai thế nào được nữa sau khi đã tạo ra con người) nhưng nắng vẫn còn chấp chới trên bờ tường, ngọn cây, mái nhà. Say nắng trưa rồi, không dám đi xa, chỉ lếch thếch ra đầu phố xem có quả dưa hấu nào nhẹ hơn một yến để tha về ăn giải nhiệt chờ mưa.

Mưa thì chưa, dưa thì không nhẹ, chẳng mua bán gì nữa, đi về. Ngang qua cái quán nhỏ đầu phố thấy bàn nào cũng có người ngồi lơ mơ. Có ông lẩn mẩn lúc quờ cốc cà phê đưa lên môi lúc sờ cây bút bi chơi đố chữ.

Có mẹ nạ dòng cháu sớm phom dáng cực kì hùng tráng vẫn chẳng ngần ngại gọi cốc kem to cho xứng người, ăn thi với cháu. Có bà già lim dim mắt xếp tà váy rồi ngồi vắt chân đầy vẻ quý phái khiêu khích kiểu Marlene Dietrich, thay vì điếu thuốc trên tay lại thấy phảy một cái quạt giấy thật là xinh.

Kỷ vật của những ngày nắng hạ Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Tuynidi gì đó đây, không biết cụ mua hay cụ trai nào tặng, mùa hạ vừa đi qua hay từ đời thăm thẳm nỗi niềm nào.

Advertisement

Bất chợt thấy mình chậm bước. Bất chợt hình dung lại, ngày xưa, cũng quạt giấy như này. Bà tóc bạc vấn lẳn trong vành khăn trắng để “trở” ai trong họ chẳng biết. Bà đứng chờ tàu điện chỗ Ô Cầu Dền. Bà luôn luôn có cái quạt trong tay phe phảy cho cháu bám quẩn bên chân.

Bà ngồi chân co chân duỗi đầu tấm phản sau này hạ xuống che cái hầm trú ẩn đào ngay dưới gậm giường rồi cúi người vuốt ngay ngắn ống quần, mở âu giầu, tỉ mẩn tiện miếng vỏ quạch, xé mảnh lá giầu không, bổ nhỏ miếng cau đã bổ sáu từ trước, quết chút vôi trắng, nhúm chút thuốc lào rồi đưa lên miệng, rồi bận bịu dọi lại vành cái quạt nan, xếp lại cái quạt giấy, lầm thầm không biết là mắng đứa cháu nào dùng đồ xong buông quăng bỏ vãi, vô ý vô tứ chẳng biết của bền tại người.

Chao ôi những buổi chiều Hà Nội hết chiến tranh, đã khó nghèo càng thêm khó nghèo vì mẹ mất, nhưng bà còn đó cho chị em mình nương dựa, bà còn đó, giữ lại cho chị em mình những gì còn có thể giữ được, là sự ngây ngô quý giá nhất của tuổi ấu thơ.

Tuoi ay minh yeu anh 2

Cuốn tản văn Tuổi ấy mình yêu của nhà văn Lê Minh Hà. Ảnh: NXB Trẻ.

Cũng cái quạt giấy này, trong bàn tay con gái những ngày cuối cùng đến lớp, giấy trang kim màu tím, nan tre, thằng bạn ngồi bên giằng lấy hỏng luôn chỗ tay cầm, những cái nan rời nhau ra, thế mà nó ra sức khoát tay quạt cho cả mình với nó. Tức mà nghĩ tới những ngày sắp xa đi, gặp lại không biết có đủ tự tin như giờ vẫn hay gây sự với nhau, nghĩ tới cái compa dở hơi nó vẫn nhường mình trong giờ hình học, thôi im vậy.

Bà già váy hoa vẫn đang lơ mơ bên cốc kem phe phẩy cái quạt giấy rõ là xinh. Uể oải thì mình đang uể oải lắm rồi, nhưng có mơ đâu, mà cảm như từ đâu xưa hơi gió từ cái quạt giấy muôn đời. Chỉ phảy nhẹ phảng phất thôi đã đủ làm xao động hơi nóng ngày tháng hạ vì cái mùi hơi thum thủm của những nan quạt vót từ tre ngâm ao bùn.

Advertisement

Ở Hà Nội giờ hay gặp các bà đi tập dưỡng sinh. Khi biểu diễn dưỡng sinh, các bà mặc cả bộ sa tanh đỏ, cứ từng lúc lại khuỵu đầu gối trong tư thế cảm tử lao về phía trước, trong tay là cái quạt hình thù như cái quạt giấy mình quen pạch một cái đồng loạt xòe ra.

Chưa tới gần nên không biết nan quạt bằng tre bằng gỗ hay bằng nhựa, nhưng cái quạt cũng màu đỏ rực, lại có tua rua, xòe ra đều còn hơn các diễn viên hội đoàn tập múa, chỉ còn thiếu hai bím tóc ngắn vểnh ngang tai và trẻ đi dăm chục tuổi là gần bằng diễn viên kinh kịch Bắc Kinh nhảy một cái, xoạc chân một cái, cao giọng á a a trên sân khấu Hà Nội một thời.

Về với Hà Nội, cứ lần nào nhìn thấy những mảnh tam giác đỏ rực ấy chói lọi trong nắng sớm cũng giật mình.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/mua-he-da-xa-post1455038.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Xu hướng