Connect with us

Sách hay

Phạm Duy Nghĩa trong bản đồ truyện ngắn Việt

Được phát hành

,

Với tìm tòi bứt phá ở mạch truyện luận đề xã hội và tâm linh kỳ ảo, bằng lối viết gai góc, kỹ lưỡng, biến hóa, Phạm Duy Nghĩa khẳng định vị trí trên bản đồ truyện ngắn.

Truyen ngan anh 1

Đời văn của một người, dù có là tài năng thì cũng không tránh khỏi những thăng trầm trồi sụt. Điều đó tưởng cũng chẳng có gì đáng để làm buồn. Trường hợp Phạm Duy Nghĩa là một ví dụ. Lẽ thường, trong sáng tác văn chương, người cầm bút phải khổ công kiếm tìm danh tính cho mình. Phạm Duy Nghĩa có nỗi khổ kép: phải tạo ra danh tiếng, để rồi phải vượt qua chính danh tiếng ấy.

Phạm Duy Nghĩa sáng tác không nhiều. Phải đến hơn 10 năm, Phạm Duy Nghĩa mới trở lại với Người bay trong gió xanh (NXB Hội Nhà văn liên kết Tao Đàn, 2022). Đây cũng là tác phẩm duy nhất đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 2022. Người bay trong gió xanh gồm 12 truyện, ghi lại dấu ấn “giai đoạn Hà Nội” của anh. Một giai đoạn không ít lần nằm “chung cư ngoại thành” còn thảng thốt ngỡ mình đang bay trên một thảo nguyên đầy hoa cỏ và nắng gió.

Trong miền ký ức xa xôi…

Ấn tượng, gai ngạnh và kiêu hãnh trong khuôn hình cổ điển

Đọc Người bay trong gió xanh, có thể nhận ra sự chuyển dịch mạnh mẽ của Phạm Duy Nghĩa về mã truyện. Người bay trong gió xanh chạm sâu vào các vấn đề xã hội, văn hóa, tâm linh. Có thể nói, chính những suy tư về thời cuộc và luận đề thế sự đã giúp Phạm Duy Nghĩa trở lại và vượt qua chính mình, trong một chiều sâu mới.

Sài thục mở đầu tập truyện bằng một thế giới bưng bít, cô đơn. Một huyền thoại u sầu. Truyện có ba nhân vật chính, không rõ mặt. Một ông bố cục cằn, gia trưởng. Một bà mẹ nhẫn nhục. Một đứa con gái ngơ ngác, u hoài. Hành động trong truyện là những cú đấm, đá của người đàn ông bất nhẫn. Viền truyện đầy phân thải và máu huyết. Cộng hưởng với hình tượng bố (trật tự, đơn phiến, cố chấp, kẻ tạo ra và duy trì luật lệ), củ sài thục là một biểu tượng của luân lí, nam quyền.

Trong thung lũng hoang vắng, sài thục cũng là một ẩn dụ về bất hạnh khổ đau. Khi người mẹ chạy trốn, đứa con gái xót xa: “Ở trên núi buồn thê lương, và nhiều bất trắc nữa. Ai đó bảo rằng trên đó có tự do. Tự do là gì, cái đó có thật sự cần không, nếu con người ta vẫn có thể sống ở một nơi tù túng mà an toàn”. Sài thục cuối cùng cũng bị giải thiêng. Điều húy kị được xóa bỏ. Sau đổ vỡ đau đớn, một trật tự thế giới mới hình thành.

Sài thục còn choán ngợp bởi đồi hoang, giông gió, thảo nguyên, khe núi, đồng cỏ ngù gai, rất nhiều hoa mộc kinh và những tiếng lục lạc buồn. “Cũng mãi sau này” là sự điểm nhịp cho nỗi cô đơn truyền kiếp. Sài thục đánh dấu sự trở lại của Phạm Duy Nghĩa, ấn tượng, gai ngạnh và kiêu hãnh trong một khuôn hình cổ điển.

Người bayGió xanh có cùng mã truyện, song được triển hiện theo những cách thể khác nhau. Nếu Người bay là câu chuyện giả tưởng phản ánh cực thực hiện cảnh “chân trời không có người bay” thì Gió xanh lại là một truyện ngắn đậm tiếng cười. Trong Người bay, bị vây bủa bởi định kiến, hẹp hòi, ganh ghét, đố kị, khinh khi, giấc mơ cất cánh của cậu bé chẳng bao giờ trở thành hiện thực. Nói khác đi, người ta chỉ có thể bay lên trong trời cao gió lộng, nơi không còn những sợi xích và trói buộc, nhưng đó chỉ là một giấc mơ.

Phạm Duy Nghĩa là nhà văn giỏi tạo tình huống. Bạn đọc hẳn còn nhớ hiện cảnh trớ trêu trong Cơn mưa hoa mận trắng mà Thuận và Kiên được đặt vào. Người bay trong gió xanh cũng vậy. Hầu như truyện nào trong đây cũng có một tình huống hấp dẫn gọi mời.

Nếu ở Người bay, một cậu bé đột nhiên biết bay thì trong Gió xanh, “đang yên đang lành”, thung lũng bỗng xuất hiện những cơn gió lạ. Cơn gió xanh mát lành, mộng mơ, làm đẹp cho đời. Có điều trớ trêu là, khởi nguồn từ gió xanh, “bệnh yêu đời”, “bệnh trong sáng” bộc phát trở thành những căn bệnh kinh niên, thậm chí nan y. Gió xanh, một mặt khác, cũng là ẩn ý về những hão huyền, phù phiếm, cái làm khô kiệt đời sống xác thân, thế tục và thế tất dẫn đến tiêu vong.

Thực tiễn cho thấy, đặc điểm tác phẩm tự sự phần lớn được quyết định bởi nhân dạng của người kể chuyện, chính xác hơn là bởi điểm nhìn của người kể chuyện. Đọc Phạm Duy Nghĩa, thường thấy xuất hiện kiểu nhân vật người kể chuyện là những cậu bé, cô bé ưa quan sát, pha chút mộng mơ.

Trong Con dê xanh trên núi tuyết, nếu con dê lông xanh là biểu tượng của cái đẹp thì cậu bé chăn dê tượng trưng cho khát khao thay đổi, khát khao về một cuộc đời đẹp đẽ hơn. Cự tuyệt lối sống bầy đàn, chấp nhận cô đơn, dê xanh, bù lại, được chết kiêu hãnh cho ước mộng tự do. Cậu bé chăn dê cuối cùng cũng nhận ra, thế giới thực khác xa với những viễn cảnh mà người ta nhào nặn ra cho cậu. Không phải ngẫu nhiên, cậu thường xuyên dự cảm về một ngày kia, “cơn bão sẽ đến”, cái cây đầy sâu sẽ đổ.

Phân tích truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa, thấy hình tượng người kể chuyện trong truyện ngắn của anh thường hiện thể trong việc tự hình dung mình của chính nhà văn (tất nhiên, trong trường hợp gần gũi nhất, nó cũng không bao giờ là bản thân tác giả). Dễ nhận ra, có đến quá nửa số truyện trong tập có người kể chuyện hoặc điểm nhìn kể chuyện là nhà văn, nhà báo, trưởng ban nghệ thuật, cựu sinh viên đại học văn khoa, gã nghệ sĩ độc thân, nhà văn trên dưới bốn mươi, cơ quan văn hóa văn nghệ, miền núi, trường sư phạm, chung cư ngoại thành, độc thân…

Trong hiện dạng này, truyện thường mang tính tự trào, hoặc là sự ngoại hiện hóa những thương tổn nội tâm của chủ thể. Ở trường hợp thứ nhất, Bệnh tỉnh là câu chuyện thú vị pha chút trào tiếu của một gã trung niên muộn vợ. Điều bi hài là ở chỗ, gã luôn nhìn thấu hệ tiêu hóa của người nữ cùng những vận động đầu vào đầu ra của nó.

Bệnh tỉnh cũng đan xen những giễu nhại về vai trò, chức năng văn học và giải thiêng ảo tưởng văn chương (“chưa đầy ba mươi tuổi, văn học đã phá hỏng đời nàng”, “người có hộ khẩu thường trú trên mây”, những người làm thơ rẩm rít…). Tuy nhiên, trò chơi ngôn ngữ trong Bệnh tỉnh không khiến tác giả xao lãng những suy tư nhân thế. Thực tại chua chát ở đây là, nhân vật phải sống trong một xã hội mà ở đó mọi người càng nói dối nhiều càng hay, “mọi lời nói dối trơ trẽn đều được coi là thật theo một sự thỏa thuận ngầm”.

Khác với Bệnh tỉnh, Người hùng biết sợ là sự ngoại hiện hóa cái tôi người kể trong một câu chuyện chua xót về thân phận, về sự tha hóa đến đáng thương của con người. Người hùng cuối cùng cũng chẳng thể thoát khỏi cõi đời tục lụy. Điều đau khổ là anh ta cảm nhận được rất rõ sự tha hóa trong từng giây khắc sống của mình.

Truyen ngan anh 2

Sách Người bay trong gió xanh. Ảnh: P.T.

Những vấn đề nhức nhối của đời sống

Cùng trong mạch truyện luận đề xã hội, Trong nắng huy hoàng đi sâu vào hiện cảnh bất công. Như một sự giễu nhại nhan đề, câu chuyện mở ra và khép lại bằng một ngày tàn. Nhân vật trung tâm, kẻ đấu tranh vì chính nghĩa luôn trong trạng thái bất lực, hư vô, ám ảnh bị đeo bám, và luôn dự cảm, hình dung về cái chết (đang đến rất gần) với mình. Ở đây, đô thị hóa đi liền với bần cùng hóa người dân, lưu manh hóa quan chức. Người có công với nước (như ông Thận) bị hắt hủi, xua đuổi, bị bỏ quên, “quanh năm lủi nhủi như con chồn con cáo”.

Truyện chạm vào những vấn đề nhức nhối của đời sống với tham quan lại nhũng và thói vô cảm, vô luân (“sông núi trong tay họ, muốn làm gì thì làm”). Điều trớ trêu là, trong hiện cảnh ấy, không phải con người, mà những hồn ma sẽ thực thi công lý. Kết truyện, một chân trời đỏ thẫm “ma quái” như đang báo hiệu những “cơn giông”.

Đọc Người bay trong gió xanh, có thể nhận ra một chuyển dịch mới trong thi pháp truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa: xu hướng viết truyện luận đề xã hội mang màu sắc tâm linh. Vấn đề ở đây không chỉ là thủ pháp thu hút độc giả, mà còn là những nghiền ngẫm của nhà văn về cõi thực và cõi khác. Con ma trong hội xô xe là sự đan dệt những câu chuyện tâm linh ma quái bí ẩn, hấp dẫn, mời gọi, đồng thời là những suy niệm sâu xa về ân oán, nghiệp quả báo ứng, tương khắc, tương sinh. Công lý ở đời trong đây, thêm một lần được giải quyết bởi người âm.

Đọc Chiếc áo second-hand, có thể nhận ra mô hình cấu trúc lắp ghép trong Hoa cẩm tú cầu ứng mệnh. Tuy nhiên, đường biên truyện đã đi xa khỏi thực tại thuần túy, gắn với những suy niệm về luân hồi, chiêm mộng, quả báo, hồn ma. Trong một khung cảnh mà “đến cả ma cũng bị bịt mồm”, yếu tố kỳ ảo tâm linh khi ấy như một sự cứu rỗi con người khỏi thực tại. Câu chuyện phiêu lưu chiếc áo của Giotto cho thấy ở đời, mọi công danh tiền bạc, dẫu cần, song suy cho cùng cũng chỉ là phù du. Phép màu, điều tốt đẹp rồi cũng sẽ rời xa khi con người ta phai nhạt từ tâm, lương thiện, vướng vào vô độ sân si.

Trong các truyện mang màu sắc tâm linh, Khí lạ vừa u huyền vừa phảng phất sầu bi. Ngôi nhà hoa hồng kỳ bí. Những giấc mơ màu đỏ máu. Những hồn ma. Trong cái nhìn người kể chuyện, vạn vật hữu linh. Do đó, không chỉ có hồn ma người, vong nội, vong hài nhi, mà còn hồn ma của chó, rắn, đỉa, … khắp cõi nhân gian. Truyện đậm màu sắc ma mị. Nhân vật Lê Phong như một ẩn dụ về con rồng bị kìm chân, bị “khí lạ đè nén”, không sao cất đầu lên được.

Nếu Con ma trong hội xô xe, Chiếc áo second-hand,Khí lạ là những truyện ngắn mang bóng dáng tâm linh, kỳ ảo thì Thành phố biến mất lại là truyện ngắn đậm chất phi lý. Truyện chạm vào những vấn đề xã hội sâu xa. Tình huống truyện ở đây là nhân vật chính thức dậy khi mọi thứ xung quanh biến mất. Trạng thái “xóa đi làm lại” khiến các nhân vật phơi bày tận cùng bản chất của mình. Vấn đề đặt ra là cuộc sống sẽ đi đến đâu, hay lại dẫm lên vết xe đổ nếu nó được xây dựng thuần toàn bằng khiếm khuyết: “gầy”, “lùn”, “què”, “đầu đất” (cô gái có đuôi) và kẻ dẫn dắt độc tài.

Có thể nhận thấy, ở hiện tại, ít có cây bút văn xuôi nào miêu tả thiên nhiên đẹp, sinh động, hấp dẫn như Phạm Duy Nghĩa. Bước vào thế giới truyện Phạm Duy Nghĩa, là bước vào không gian lóng lánh của thiên nhiên. Người bay trong gió xanh trập trùng núi đồi, thảo nguyên, sơn cước khắc khoải, mộng mơ, phảng phất buồn. Cánh đồng cỏ ngù gai, bạt ngàn lau trắng, cây trắc bá xanh rờn, những rừng sồi, rừng thích, thung lũng hoang liêu, những dòng sông cạn.

Thiên nhiên trong truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa ngập tràn các loài hoa: hoa mộc kinh xanh lam, hoa dã xuân xanh biếc, hoa mạc thi long lanh như tuyết, hoa li la trắng muốt, “hoa sở ngào ngạt trắng”, “hoa mơ hoa táo nở trắng ngần”…

Có cảm giác, nhà văn như một họa sĩ, chớp rất nhanh những khoảnh khắc giao hòa màu sắc và ánh sáng của tự nhiên để đưa chúng vào thế giới của mình. “Hoa cải nở vàng sáng cả một dải đất ven sông, cái rét càng làm hoa sáng và lung linh hơn trong những buổi chiều đông ảm đạm”; “vào một buổi sáng mùa xuân trời đẹp, tại lối đi nhỏ bên bờ rào có những những cây mận nở đầy hoa”; “giữa màu xanh mướt của những dải đồi mênh mông, màu vàng tươi trong vắt của nắng, màu vàng rực của những cánh đồng hoa hướng dương nở rộ vào tháng bảy và màu vàng xuộm trù phú của những thảm lúa mì”; “một dải hồ xanh bạc mênh mông uốn quanh dãy đồi bạch đàn quanh năm không ngừng gió”…

Cùng thiên nhiên, truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa còn giàu chất thơ là bởi anh thường đưa các cụm từ chỉ thời gian, đặc biệt là thời gian mùa (phiếm chỉ năm) mang phong vị các câu chuyện cổ để khơi gợi vào cảm xúc: “mùa xuân sang, cây cổ thụ nảy nở hồi sinh”, “mùa xuân cây lá đỏ gọi về rất nhiều chim”; “mùa đông năm ấy vùng núi phía bắc trải qua một trận rét chưa từng có”, “Khi ấy là cuối mùa hè, những vệt nắng vàng ươm đang tắt và hoàng hôn xanh ngát dâng ngập núi đồi”…

Có thể nói, việc miêu tả điểm xuyết thiên nhiên và diễn giải cảm xúc khiến mạch truyện của Phạm Duy Nghĩa không bị nhấn chìm bởi sự kiện, tốc độ trần thuật được hãm chậm, văn bản truyện của anh, do thế luôn có sự căng, chùng, giàu nhịp điệu.

Truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa còn hấp dẫn bởi không khí chuyện luôn lãng đãng khói sương. Nhà văn có xu hướng đẩy không gian, thời gian lùi ra xa để gợi vào luyến nhớ. Không phải ngẫu nhiên, truyện của anh thường xuất hiện cụm từ kiểu “ngày ấy”, “ngày đó”, miền núi phía Bắc những năm cuối thế kỷ trước, những năm tám mươi của thế kỷ trước, ban nhạc Boney M., bài hát Chủ nhật tươi hồng, đội chiếu bóng lưu động…

Mặc dù Người bay trong gió xanh đậm tính phúng dụ luận đề, không gian truyện đã mở sang tận cõi âm, song dường như đồi núi, chính xác hơn là thiên nhiên, con người đồi núi vẫn được nhà văn biệt đãi. Không phải ngẫu nhiên, Phạm Duy Nghĩa chọn Đi về vùng thảo nguyên để khép lại tập truyện của mình. Đi về vùng thảo nguyên là một giấc mơ đẹp đẽ, u sầu, gửi gắm niềm thương nỗi nhớ khôn khuây về người xưa chốn cũ. Có thể nhận ra, khi viết về miền núi, ngòi bút Phạm Duy Nghĩa luôn được thả lỏng, khoáng đạt, góc cạnh, phiêu lãng, mộng mơ.

Phạm Duy Nghĩa làm thơ, viết tiểu luận, nghiên cứu phê bình, song có lẽ truyện ngắn đã chọn anh để gửi bản mệnh người văn. Từ sau Cơn mưa hoa mận trắng, đặc biệt là với Người bay trong gió xanh, Phạm Duy Nghĩa đã trở lại đầy ấn tượng trong một nhân dạng mới: đẹp, sâu, hấp dẫn, ly kỳ.

Có thể khẳng định, với những tìm tòi bứt phá ở mạch truyện luận đề xã hội nhân sinh và tâm linh kỳ ảo, bằng lối viết gai góc, kỹ lưỡng, biến hóa tự nhiên, sát ván nhưng tinh tế, vừa chua chát đắng cay vừa lãng mạn u sầu, Phạm Duy Nghĩa tiếp tục khẳng định vị trí hàng đầu của mình trong bản đồ truyện ngắn Việt Nam đương đại. Có cảm giác, trong trùng điệp núi đồi truyện ngắn tiếng Việt hôm nay, đứng ở xa vẫn thấy Người bay trong gió xanh của Phạm Duy Nghĩa.

Nguồn: https://zingnews.vn/pham-duy-nghia-trong-ban-do-truyen-ngan-viet-post1391261.html

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng