Connect with us

Sách hay

Kim Dung: Ba người vợ và một người tình trong mộng

Được phát hành

,

Kim Dung, một bậc thầy về tiểu thuyết võ hiệp, không chỉ là bậc tông sư trên văn đàn Trung Quốc, mà còn là “cao thủ tình trường” với ba người vợ và một người tình trong mộng.

Kim Dung anh 1

Bốn văn nhân, nghệ sĩ nổi tiếng tài hoa của Hong Kong thời hiện đại gồm Kim Dung (nhà báo, sáng lập Minh Báo, viết tiểu thuyết võ hiệp), Nghê Khuông (viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, Hoàng Triêm (viết nhạc) và Sái Lan (MC, nhà sản xuất phim, viết về ẩm thực).

Kim Dung được công nhận là một trong những nhà văn lớn nhất trong nền văn học Trung Quốc. Các tác phẩm của ông được đọc, chuyển thể thành phim truyền hình yêu thích ở Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước khác cho đến ngày nay. Bộ phim dài tập Thiên Long Bát Bộ: Kiều Phong truyện (ngôi sao võ thuật Chung Tử Đơn thủ vai Kiều Phong) chuyển thể từ tiểu thuyết võ hiệp Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung đang được chiếu trên nhiều nền tảng trực tuyến.

Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung thường xoay quanh những kỳ nhân võ thuật, những cuộc phiêu lưu lạnh sống lưng và những trận đấu long trời lở đất. Kim lão gia đã tạo ra nhiều nhân vật phức tạp, đa chiều, đồng thời truyền tải giá trị về tình yêu, lòng nhân ái, công lý và đạo đức.

Các tác phẩm của ông không chỉ mang tính giải trí cao mà còn thể hiện sự phân tích sâu sắc về con người và xã hội.

Có người đã khéo léo ghép những chữ đầu tiên của tựa đề 14 tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung thành hai câu thơ từa tựa một vế đối. Đó là Phi Tuyết Liên Thiên Xạ Bạch Lộc / Tiếu Thư Thần Hiệp Ỷ Bích Uyên (tạm dịch: Tuyết bay liền trời bắn hươu trắng / Sách cười thần hiệp dựa uyên xanh).

Các từ trong hai câu thơ này chỉ 14 tác phẩm: Phi hồ ngoại truyện (1960), Tuyết sơn phi hồ (1959), Liên thành quyết (1963), Thiên Long Bát Bộ (1963), Xạ điêu anh hùng truyện (1957), Bạch mã khiếu tây phong (1961), Lộc Đỉnh ký (1969-1972), Tiếu ngạo giang hồ (1967), Thư kiếm ân cừu lục (1955), Thần điêu đại hiệp (1959), Hiệp khách hành (1965), Ỷ Thiên Đồ Long ký (1961), Bích huyết kiếm (1956) và Uyên ương đao (1961).

Từ năm 1993, nhà văn-nhạc sĩ-nhà báo Vũ Đức Sao Biển (quê Quảng Nam) viết bộ biên khảo về tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung từ phong cách xây dựng nhân vật, võ công, tình yêu, rượu, âm nhạc đến pháp luật. Bộ sách Kim Dung giữa đời tôi của ông gồm 5 tập, có tựa đề Kiều Phong – Khát vọng của tự do, Thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, Từ AQ đến Vi Tiểu Bảo, Thanh kiếm và cây đàn Nhân vật Kim Dung nhìn qua lăng kính pháp luật. Ở lần tái bản, ngoài phần in gộp 5 tập sách trên còn có thêm nội dung cuốn mới. Cuốn thứ sáu có tựa đề Những vụ án kinh điển trong tiểu thuyết Kim Dung.

Ngoài độc giả, fan điện ảnh mê các tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, nhiều sinh viên chuyên ngành Hán Nôm, Đông phương học, Trung Quốc học cũng tìm đọc tác phẩm của ông vì đây là một trong những nguồn tư liệu quý giúp tìm hiểu văn hóa Trung Quốc nói chung và văn học Trung Quốc cận đại nói riêng.

Kim Dung anh 2

Kim Dung từng nói: “May mắn nhất là yêu từ cái nhìn đầu tiên đến cuối cùng là… cùng nhau già đi. Nhưng tôi đã không làm được điều đó”. Theo báo chí Trung Quốc, ông yêu 4 người phụ nữ và kết hôn với 3 người. Người phụ nữ đầu tiên là Đỗ Dã Phân (Đỗ Trị Phân).

Năm 1947, Kim Dung làm phóng viên của Đông Nam Nhật báo ở thành phố Hàng Châu, gặp một độc giả trẻ tên là Đỗ Dã Thu. Đến thăm nhà Dã Thu, Kim Dung mê mẩn trước sắc đẹp của cô em gái 17 tuổi tên là Dã Phân vừa từ Thượng Hải trở về.

Thời điểm đó, Hàng Châu đang công diễn kịch của nhà soạn kịch, nhà thơ, nhà sử học lừng danh Quách Mạt Nhược và “cháy” vé. Kim Dung tìm cách mua được cả xấp vé để mời gia đình Dã Thu đi xem và tiểu thư nhà họ Đỗ dần xiêu lòng.

Năm 1948, Kim Dung tham gia Đại Công báo và được điều tới Hong Kong làm việc. Ông vội vàng tổ chức đám cưới hoành tráng với Dã Phân tại Thượng Hải rồi hai người cùng đi.

Lúc ở Hong Kong, Kim Dung chưa nổi tiếng, lương tháng chỉ có 200 nhân dân tệ (666.000 đồng), trong khi Dã Phân quen sống trong nhung lụa từ bé rồi ngôn ngữ, nơi ở mới không quen nên gặp nhiều khó khăn. Để cải thiện cuộc sống, Kim Dung tập trung viết lách, ít dành thời gian bên vợ.

Cuối cùng, hai người ly hôn, Dã Phân trở lại Đại lục. Vài năm sau, Kim Dung gặp người vợ thứ hai – Chu Mai (Chu Mân).

Năm 1955, Kim Dung xuất bản cuốn tiểu thuyết võ hiệp đầu tiên Thư kiếm ân cừu lục và nổi tiếng từ đây. Đến khi Thần điêu đại hiệp trình làng năm 1959, danh chấn giang hồ, Kim Dung trở thành bậc thầy của tiểu thuyết võ hiệp và tích lũy khối tài sản lớn.

Kim Dung anh 3

Nhưng ông tin rằng, viết tiểu thuyết kiếm hiệp không được tao nhã nên trở lại Đại Công báo làm biên tập viên. Vì những ý tưởng không nhất quán, ông không được hoan nghênh tại đây.

Khi phải đối mặt với sự lạnh nhạt ở Đại Công báo, một phụ nữ ân cần xuất hiện. Đó là nhà báo Chu Mai – người thấu hiểu, hỗ trợ và tin tưởng Kim Dung. Chính vì sự hết lòng ấy, ông đã yêu Chu Mai và ngày 1/5/1957, hai người kết hôn.

Lúc đồng sáng lập Minh Báo năm 1959, là tổng biên tập đầu tiên của tờ báo này, Kim Dung gặp nhiều trở ngại về kinh tế và Chu Mai đã bán trang sức của mình để trợ lực. Chu Mai đồng cam cộng khổ, cùng chồng. Kim Dung dựa vào Chu Mai để xây dựng nhân vật Triệu Mẫn xinh xắn, linh lợi trong Ỷ Thiên Đồ Long ký.

Thế nhưng, trước khi cưới Chu Mai, Kim Dung đã phải lòng người phụ nữ khác – minh tinh Hạ Mộng, mỹ nhân của Công ty Điện ảnh Trường Thành. Nhằm tiếp cận người trong mộng, ông đến Trường Thành, chấp nhận làm một nhà biên kịch bình thường.

Để lấy lòng Hạ Mộng (nghệ danh lấy từ tên vở kịch Giấc mộng đêm hè của William Shakespeare), Kim Dung ngày đêm viết kịch bản, phần lớn là “đo ni đóng giày” cho nàng thơ của mình. Năm 1953, Kim Dung (lúc đó 29 tuổi) viết kịch bản Mỹ nhân vô song dành cho Hạ Mộng (20 tuổi).

Một ngày nọ, Kim Dung mời Hạ Mộng uống cà phê và tỏ tình nhưng bị từ chối. Nàng chỉ coi ông là bạn và kết hôn với một doanh nhân. Lúc đó, Kim Dung cưới Chu Mai được 2 năm. Bị từ chối nhưng nhà văn vẫn không ngừng theo đuổi Hạ Mộng, vẫn coi nàng là người tình trong mộng. Hạ Mộng chính là nguyên mẫu của nhân vật Vương Ngữ Yên trong Thiên long bát bộ.

Dù Kim Dung không bỏ vợ vì Hạ Mộng nhưng cuối cùng ông chọn ly hôn Chu Mai vì một người phụ nữ khác – Lâm Lạc Di.

Kim Dung anh 4

Kim Dung và Chu Mai có 4 người con (2 trai 2 gái), cuộc sống ban đầu êm ấm, hạnh phúc. Khi Minh Báo bị một số đối tượng trong xã hội thời bấy giờ tẩy chay, nhà văn có lúc rơi vào trầm cảm.

Một hôm, ông chán nản đến quán bar uống rượu một mình, thu hút sự chú ý của cô phục vụ Lạc Di (lúc đó 23 tuổi). Lấy hết can đảm, cô bước đến trước mặt Kim Dung và nói: “Em rất thích tiểu thuyết võ hiệp của anh. Chúng em đều chờ đợi anh viết tác phẩm mới”. Hai người trò chuyện rồi trở thành bạn bè.

Sau đó, có lần Kim Dung bị ốm và Lạc Di chủ động chăm sóc hết lòng khiến ông cảm động. Tình cảm với Lạc Di và những nguyên nhân khác khiến Kim Dung muốn chia tay với Chu Mai.

Con cả của Kim Dung là Tra Truyền Hiệp lúc đó là sinh viên năm thứ nhất Đại học Columbia (Mỹ) đã gọi điện cho cha thuyết phục không ly hôn, nhưng ông không động tâm. Một ngày tháng 10/1976, Truyền Hiệp treo cổ tự tử sau khi cãi nhau qua điện thoại với bạn gái. Tuy nhiên, một số người cho rằng, nguyên nhân sâu xa do Kim Dung ly hôn với mẹ của Truyền Hiệp.

Khi biết tin con trai chết, Kim Dung bàng hoàng. Ông đau đớn, khóc lóc trong vô vọng. Ông từng muốn trở về với Chu Mai và xé tờ giấy ly hôn, nhưng bà không đồng ý vì quá đau lòng trước sự ra đi của con trai.

Chu Mai quyết tâm ly hôn và nêu điều kiện nếu Lạc Di lấy Kim Dung, cô sẽ không sinh con với ông. Lạc Di đồng ý và lên xe hoa trong năm 1976, trở thành người vợ thứ ba của ông.

Bốn người phụ nữ đi qua đời Kim Dung nhưng con trai Tra Truyền Hiệp mới là người khiến ông nặng lòng, day dứt nhất. Truyền Hiệp thông minh từ nhỏ, 4 tuổi đã thuộc làu Tam Tự Kinh. Trước khi tự sát, cậu gọi điện cho cha nhưng Kim Dung cúp máy vì bận viết bài. Điều này trở thành nỗi ân hận lớn nhất trong đời ông.

Trong một cuộc phỏng vấn, Kim Dung nói: “Người tôi yêu nhất trong cuộc đời mình là con trai. Đáng tiếc, cháu đã tự sát ở Mỹ”.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Zing News

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Zing News mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://zingnews.vn/kim-dung-ba-nguoi-vo-va-mot-nguoi-tinh-trong-mong-post1435089.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng