Connect with us

Sách hay

Kim Dung: Ba người vợ và một người tình trong mộng

Được phát hành

,

Kim Dung, một bậc thầy về tiểu thuyết võ hiệp, không chỉ là bậc tông sư trên văn đàn Trung Quốc, mà còn là “cao thủ tình trường” với ba người vợ và một người tình trong mộng.

Kim Dung anh 1

Bốn văn nhân, nghệ sĩ nổi tiếng tài hoa của Hong Kong thời hiện đại gồm Kim Dung (nhà báo, sáng lập Minh Báo, viết tiểu thuyết võ hiệp), Nghê Khuông (viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, Hoàng Triêm (viết nhạc) và Sái Lan (MC, nhà sản xuất phim, viết về ẩm thực).

Kim Dung được công nhận là một trong những nhà văn lớn nhất trong nền văn học Trung Quốc. Các tác phẩm của ông được đọc, chuyển thể thành phim truyền hình yêu thích ở Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước khác cho đến ngày nay. Bộ phim dài tập Thiên Long Bát Bộ: Kiều Phong truyện (ngôi sao võ thuật Chung Tử Đơn thủ vai Kiều Phong) chuyển thể từ tiểu thuyết võ hiệp Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung đang được chiếu trên nhiều nền tảng trực tuyến.

Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung thường xoay quanh những kỳ nhân võ thuật, những cuộc phiêu lưu lạnh sống lưng và những trận đấu long trời lở đất. Kim lão gia đã tạo ra nhiều nhân vật phức tạp, đa chiều, đồng thời truyền tải giá trị về tình yêu, lòng nhân ái, công lý và đạo đức.

Các tác phẩm của ông không chỉ mang tính giải trí cao mà còn thể hiện sự phân tích sâu sắc về con người và xã hội.

Có người đã khéo léo ghép những chữ đầu tiên của tựa đề 14 tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung thành hai câu thơ từa tựa một vế đối. Đó là Phi Tuyết Liên Thiên Xạ Bạch Lộc / Tiếu Thư Thần Hiệp Ỷ Bích Uyên (tạm dịch: Tuyết bay liền trời bắn hươu trắng / Sách cười thần hiệp dựa uyên xanh).

Các từ trong hai câu thơ này chỉ 14 tác phẩm: Phi hồ ngoại truyện (1960), Tuyết sơn phi hồ (1959), Liên thành quyết (1963), Thiên Long Bát Bộ (1963), Xạ điêu anh hùng truyện (1957), Bạch mã khiếu tây phong (1961), Lộc Đỉnh ký (1969-1972), Tiếu ngạo giang hồ (1967), Thư kiếm ân cừu lục (1955), Thần điêu đại hiệp (1959), Hiệp khách hành (1965), Ỷ Thiên Đồ Long ký (1961), Bích huyết kiếm (1956) và Uyên ương đao (1961).

Từ năm 1993, nhà văn-nhạc sĩ-nhà báo Vũ Đức Sao Biển (quê Quảng Nam) viết bộ biên khảo về tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung từ phong cách xây dựng nhân vật, võ công, tình yêu, rượu, âm nhạc đến pháp luật. Bộ sách Kim Dung giữa đời tôi của ông gồm 5 tập, có tựa đề Kiều Phong – Khát vọng của tự do, Thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, Từ AQ đến Vi Tiểu Bảo, Thanh kiếm và cây đàn Nhân vật Kim Dung nhìn qua lăng kính pháp luật. Ở lần tái bản, ngoài phần in gộp 5 tập sách trên còn có thêm nội dung cuốn mới. Cuốn thứ sáu có tựa đề Những vụ án kinh điển trong tiểu thuyết Kim Dung.

Ngoài độc giả, fan điện ảnh mê các tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, nhiều sinh viên chuyên ngành Hán Nôm, Đông phương học, Trung Quốc học cũng tìm đọc tác phẩm của ông vì đây là một trong những nguồn tư liệu quý giúp tìm hiểu văn hóa Trung Quốc nói chung và văn học Trung Quốc cận đại nói riêng.

Kim Dung anh 2

Kim Dung từng nói: “May mắn nhất là yêu từ cái nhìn đầu tiên đến cuối cùng là… cùng nhau già đi. Nhưng tôi đã không làm được điều đó”. Theo báo chí Trung Quốc, ông yêu 4 người phụ nữ và kết hôn với 3 người. Người phụ nữ đầu tiên là Đỗ Dã Phân (Đỗ Trị Phân).

Năm 1947, Kim Dung làm phóng viên của Đông Nam Nhật báo ở thành phố Hàng Châu, gặp một độc giả trẻ tên là Đỗ Dã Thu. Đến thăm nhà Dã Thu, Kim Dung mê mẩn trước sắc đẹp của cô em gái 17 tuổi tên là Dã Phân vừa từ Thượng Hải trở về.

Thời điểm đó, Hàng Châu đang công diễn kịch của nhà soạn kịch, nhà thơ, nhà sử học lừng danh Quách Mạt Nhược và “cháy” vé. Kim Dung tìm cách mua được cả xấp vé để mời gia đình Dã Thu đi xem và tiểu thư nhà họ Đỗ dần xiêu lòng.

Năm 1948, Kim Dung tham gia Đại Công báo và được điều tới Hong Kong làm việc. Ông vội vàng tổ chức đám cưới hoành tráng với Dã Phân tại Thượng Hải rồi hai người cùng đi.

Lúc ở Hong Kong, Kim Dung chưa nổi tiếng, lương tháng chỉ có 200 nhân dân tệ (666.000 đồng), trong khi Dã Phân quen sống trong nhung lụa từ bé rồi ngôn ngữ, nơi ở mới không quen nên gặp nhiều khó khăn. Để cải thiện cuộc sống, Kim Dung tập trung viết lách, ít dành thời gian bên vợ.

Cuối cùng, hai người ly hôn, Dã Phân trở lại Đại lục. Vài năm sau, Kim Dung gặp người vợ thứ hai – Chu Mai (Chu Mân).

Năm 1955, Kim Dung xuất bản cuốn tiểu thuyết võ hiệp đầu tiên Thư kiếm ân cừu lục và nổi tiếng từ đây. Đến khi Thần điêu đại hiệp trình làng năm 1959, danh chấn giang hồ, Kim Dung trở thành bậc thầy của tiểu thuyết võ hiệp và tích lũy khối tài sản lớn.

Kim Dung anh 3

Nhưng ông tin rằng, viết tiểu thuyết kiếm hiệp không được tao nhã nên trở lại Đại Công báo làm biên tập viên. Vì những ý tưởng không nhất quán, ông không được hoan nghênh tại đây.

Khi phải đối mặt với sự lạnh nhạt ở Đại Công báo, một phụ nữ ân cần xuất hiện. Đó là nhà báo Chu Mai – người thấu hiểu, hỗ trợ và tin tưởng Kim Dung. Chính vì sự hết lòng ấy, ông đã yêu Chu Mai và ngày 1/5/1957, hai người kết hôn.

Lúc đồng sáng lập Minh Báo năm 1959, là tổng biên tập đầu tiên của tờ báo này, Kim Dung gặp nhiều trở ngại về kinh tế và Chu Mai đã bán trang sức của mình để trợ lực. Chu Mai đồng cam cộng khổ, cùng chồng. Kim Dung dựa vào Chu Mai để xây dựng nhân vật Triệu Mẫn xinh xắn, linh lợi trong Ỷ Thiên Đồ Long ký.

Thế nhưng, trước khi cưới Chu Mai, Kim Dung đã phải lòng người phụ nữ khác – minh tinh Hạ Mộng, mỹ nhân của Công ty Điện ảnh Trường Thành. Nhằm tiếp cận người trong mộng, ông đến Trường Thành, chấp nhận làm một nhà biên kịch bình thường.

Để lấy lòng Hạ Mộng (nghệ danh lấy từ tên vở kịch Giấc mộng đêm hè của William Shakespeare), Kim Dung ngày đêm viết kịch bản, phần lớn là “đo ni đóng giày” cho nàng thơ của mình. Năm 1953, Kim Dung (lúc đó 29 tuổi) viết kịch bản Mỹ nhân vô song dành cho Hạ Mộng (20 tuổi).

Một ngày nọ, Kim Dung mời Hạ Mộng uống cà phê và tỏ tình nhưng bị từ chối. Nàng chỉ coi ông là bạn và kết hôn với một doanh nhân. Lúc đó, Kim Dung cưới Chu Mai được 2 năm. Bị từ chối nhưng nhà văn vẫn không ngừng theo đuổi Hạ Mộng, vẫn coi nàng là người tình trong mộng. Hạ Mộng chính là nguyên mẫu của nhân vật Vương Ngữ Yên trong Thiên long bát bộ.

Dù Kim Dung không bỏ vợ vì Hạ Mộng nhưng cuối cùng ông chọn ly hôn Chu Mai vì một người phụ nữ khác – Lâm Lạc Di.

Kim Dung anh 4

Kim Dung và Chu Mai có 4 người con (2 trai 2 gái), cuộc sống ban đầu êm ấm, hạnh phúc. Khi Minh Báo bị một số đối tượng trong xã hội thời bấy giờ tẩy chay, nhà văn có lúc rơi vào trầm cảm.

Một hôm, ông chán nản đến quán bar uống rượu một mình, thu hút sự chú ý của cô phục vụ Lạc Di (lúc đó 23 tuổi). Lấy hết can đảm, cô bước đến trước mặt Kim Dung và nói: “Em rất thích tiểu thuyết võ hiệp của anh. Chúng em đều chờ đợi anh viết tác phẩm mới”. Hai người trò chuyện rồi trở thành bạn bè.

Sau đó, có lần Kim Dung bị ốm và Lạc Di chủ động chăm sóc hết lòng khiến ông cảm động. Tình cảm với Lạc Di và những nguyên nhân khác khiến Kim Dung muốn chia tay với Chu Mai.

Con cả của Kim Dung là Tra Truyền Hiệp lúc đó là sinh viên năm thứ nhất Đại học Columbia (Mỹ) đã gọi điện cho cha thuyết phục không ly hôn, nhưng ông không động tâm. Một ngày tháng 10/1976, Truyền Hiệp treo cổ tự tử sau khi cãi nhau qua điện thoại với bạn gái. Tuy nhiên, một số người cho rằng, nguyên nhân sâu xa do Kim Dung ly hôn với mẹ của Truyền Hiệp.

Khi biết tin con trai chết, Kim Dung bàng hoàng. Ông đau đớn, khóc lóc trong vô vọng. Ông từng muốn trở về với Chu Mai và xé tờ giấy ly hôn, nhưng bà không đồng ý vì quá đau lòng trước sự ra đi của con trai.

Chu Mai quyết tâm ly hôn và nêu điều kiện nếu Lạc Di lấy Kim Dung, cô sẽ không sinh con với ông. Lạc Di đồng ý và lên xe hoa trong năm 1976, trở thành người vợ thứ ba của ông.

Bốn người phụ nữ đi qua đời Kim Dung nhưng con trai Tra Truyền Hiệp mới là người khiến ông nặng lòng, day dứt nhất. Truyền Hiệp thông minh từ nhỏ, 4 tuổi đã thuộc làu Tam Tự Kinh. Trước khi tự sát, cậu gọi điện cho cha nhưng Kim Dung cúp máy vì bận viết bài. Điều này trở thành nỗi ân hận lớn nhất trong đời ông.

Trong một cuộc phỏng vấn, Kim Dung nói: “Người tôi yêu nhất trong cuộc đời mình là con trai. Đáng tiếc, cháu đã tự sát ở Mỹ”.

Nguồn: https://zingnews.vn/kim-dung-ba-nguoi-vo-va-mot-nguoi-tinh-trong-mong-post1435089.html

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng