Connect with us

Xuất Bản

Đọc sách là phương thức căn bản bồi đắp nguyên khí quốc gia

Được phát hành

,

Theo PGS.TS Vũ Trọng Lâm, sách và việc đọc sách đã góp phần trực tiếp, cơ bản tạo nên tầng lớp trí thức – đội ngũ tinh hoa của đất nước.

Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII vừa qua đã xác định cần “tiếp tục xây dựng đội ngũ trí thức nước nhà, bồi đắp nguyên khí quốc gia vững mạnh hơn nữa, đáp ứng yêu cầu chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chấn hưng văn hóa, xây dựng con người Việt Nam thời đại mới”.

PGS.TS Vũ Trọng Lâm, Giám đốc – Tổng biên tập NXB Chính trị quốc gia Sự thật – trao đổi về vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ mới và vai trò của sách với việc phát triển đội ngũ trí thức.

Đội ngũ trí thức là lực lượng tinh hoa, nòng cốt

– Thưa ông, trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, đội ngũ trí thức có đóng góp và vai trò gì trong việc phát triển đất nước?

Trong suốt tiến trình phát triển của nhân loại, trí thức luôn được đặt ở một vị trí đặc biệt và được xem là nền tảng của tiến bộ xã hội. Trí thức luôn có tầm ảnh hưởng lớn, trực tiếp dẫn dắt xu hướng phát triển của xã hội; là lực lượng nòng cốt, tiên phong trong tiếp nhận, truyền tải, lan tỏa, sáng tạo văn hóa, tri thức, đem tri thức phục vụ cho sự phát triển, tiến bộ, văn minh.

Nhận thức được vai trò to lớn của tầng lớp trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế”. Trí thức Việt Nam đã có đóng góp thiết thực vào những vấn đề quan trọng của dân tộc, đất nước; là đội ngũ tinh hoa, là nguồn lực chất lượng cao của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.

Đặc biệt, trong bối cảnh nước ta đang thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng gắn với phát triển kinh tế tri thức, đội ngũ trí thức tiếp tục có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp kiến thiết, xây dựng và phát triển đất nước ngày càng giàu đẹp. Điều này được thể hiện ở những phương diện chính như:

Trước hết, đội ngũ trí thức là lực lượng tiên phong trong quá trình truyền tải, lan tỏa, vận dụng và phát triển, phát minh, sáng tạo tri thức phục vụ sự tiến bộ, phát triển của đất nước, tạo nên các sản phẩm mới, giá trị mới vì con người, cho con người và lấy con người làm trung tâm.

Trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế và với điều kiện phát triển mới của đất nước, cùng xu thế toàn cầu hóa, khoa học – công nghệ thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàm lượng tri thức trong các sản phẩm lao động xã hội ngày càng gia tăng và là yếu tố quyết định giá trị của lao động. Điều này đã thúc đẩy nền sản xuất quốc gia phát triển theo hướng tăng tỷ trọng các ngành khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, hướng tới xây dựng nền kinh tế tri thức.

Đội ngũ trí thức là lực lượng tinh hoa, nòng cốt, tiên phong trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước hiện nay và trong tương lai.

PGS.TS Vũ Trọng Lâm

Thứ hai, tầng lớp trí thức là hạt nhân thúc đẩy quá trình “trí thức hóa” các lực lượng lao động xã hội ở Việt Nam hiện nay. Sự thâm nhập mạnh mẽ của tri thức, cụ thể là thông tin, phát minh, sáng tạo, sáng kiến khoa học – công nghệ trong sản xuất đã dẫn đến quá trình “trí thức hóa” các lực lượng lao động xã hội; không chỉ bộ phận trí thức mới có trình độ chuyên môn cao, mà cả những người công nhân, kỹ thuật viên cũng sở hữu lượng thông tin khoa học chuyên ngành khá sâu sắc. Tất cả họ đều được xem là lực lượng lao động chất lượng cao.

Thứ ba, đội ngũ trí thức được xem là lực lượng tinh hoa, nòng cốt, tiên phong trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước hiện nay và trong tương lai. Lực lượng này có mặt trên tất cả các lĩnh vực, các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh. Xét về cơ cấu ngành, bất cứ ngành sản xuất nào, từ nông nghiệp, công nghiệp đến dịch vụ, cũng đều có sự tham gia của đội ngũ trí thức.

Thực lực của đội ngũ trí thức quyết định năng suất và hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất trong xã hội. Không những thế, họ cũng là những người được rèn luyện kỹ càng về tư tưởng, phẩm chất đạo đức với các giá trị: trung thực, cống hiến, có ý thức trách nhiệm cao với xã hội, là lực lượng đắc lực của giai cấp công nhân, nông dân, tạo nên nền tảng sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình phát triển đất nước.

– Chúng ta cần làm gì để tiếp tục xây dựng đội ngũ trí thức nước nhà, bồi đắp nguyên khí quốc gia?

Để bồi đắp nguyên khí quốc gia, xây dựng đội ngũ trí thức nước nhà ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới, cần chú trọng một số vấn đề trọng tâm như:

Trước tiên, cần xác định rõ, cụ thể hóa mục tiêu “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới” mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.

Về mặt lý luận, cần làm rõ nội hàm: đội ngũ trí thức Việt Nam lớn mạnh, số lượng, cơ cấu hợp lý là như thế nào? Mục tiêu gắn với từng mốc thời gian cụ thể ra sao? Các chiến lược, kế hoạch, lộ trình xây dựng gắn với mục tiêu trong từng giai đoạn cần triển khai thực hiện thế nào? Đồng thời, cần xác định khung các tiêu chí đo lường, đánh giá chất lượng đội ngũ trí thức cũng như dự báo định hướng phát triển sao cho phù hợp với yêu cầu của thời đại và tình hình, điều kiện cụ thể của nước ta, của từng ngành, từng vùng, từng địa phương…

Có như thế, chúng ta mới có thể từng bước hiện thực hóa được mục tiêu xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức nói riêng và hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước nói riêng.

Thứ hai, trên cơ sở xác định rõ nội hàm và khung tiêu chí đánh giá đội ngũ trí thức, cần xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, dựa trên yêu cầu của từng ngành, từng lĩnh vực, địa phương, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và địa phương trong giai đoạn phát triển mới, trong đó chú trọng đến những ngành, những lĩnh vực, địa phương đang thiếu, mất cân đối, bất hợp lý về cơ cấu nguồn nhân lực trí thức; ưu tiên phát triển đội ngũ trí thức là người dân tộc thiểu số, trí thức nữ; tăng cường sử dụng và phát huy đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài và các nguồn nhân lực chất lượng cao của nước ngoài phục vụ cho phát triển đất nước…

Thứ ba, tạo lập và triển khai các chính sách mang tính đột phá trong phát triển, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ trí thức trẻ, nhiệt huyết, có tài năng nổi trội. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả đối với các sản phẩm sáng tạo, phát minh, sáng chế nhằm bảo đảm lợi ích của trí thức và khuyến khích đội ngũ trí thức tiếp tục cống hiến nhiều hơn nữa cho xã hội.

Thứ tư, xây dựng, thực hiện cơ chế, chính sách trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng theo mức độ đóng góp và năng lực thực tiễn để trí thức thực sự yên tâm nghiên cứu, sáng tạo khoa học trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Có cơ chế đặc thù về đầu tư, đãi ngộ đối với trí thức theo nhiệm vụ và sản phẩm sáng tạo, phù hợp với từng đối tượng, bảo đảm mức sống của trí thức cao hơn mức sống chung của xã hội.

Doi ngu tri thuc anh 1

PGS.TS Vũ Trọng Lâm – Giám đốc, Tổng biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật. Ảnh: NVCC.

Đọc sách là phương thức căn bản tạo nên tầng lớp trí thức

– Với kinh nghiệm của người từng giữ cương vị là lãnh đạo của các cơ quan báo chí, xuất bản hàng đầu của đất nước, đặc biệt với vị trí hiện nay là Giám đốc – Tổng biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, ông có đánh giá như thế nào về vai trò của sách và văn hóa đọc đối với việc xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay?

Sách và đọc sách là công cụ và phương thức cơ bản để kế thừa và truyền bá thông tin tri thức, đóng vai trò quan trọng trong tiến trình văn minh nhân loại. Đọc sách là con đường chủ yếu nhất nhằm biến tri thức xã hội thành tri thức cá nhân thông qua hình thức truyền bá, lan tỏa thông tin.

Có thể nói, sách (với các thể loại như sách kiến thức phổ thông, sách thông tin khoa học, sách chuyên môn học thuật cũng như các sách văn học, nghệ thuật, giải trí…) là công cụ căn bản, còn đọc sách là phương thức quan trọng góp phần tạo nên tầng lớp trí thức và thúc đẩy quá trình “trí thức hóa” các lực lượng lao động xã hội.

Trong một tầm nhìn rộng lớn, sách và văn hóa đọc giúp con người có được tư duy khoa học, tư duy lý luận và nhờ đó mà có được những sản phẩm sáng tạo cả về vật chất và tinh thần, phục vụ cho sự tiến bộ, phát triển của loài người. Như Ăng ghen (Friedrich Engels) từng nói: “Một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao của khoa học và công nghệ thì không thể không có tư duy lý luận” và chính sách, việc đọc sách đã góp phần trực tiếp cơ bản tạo nên tư duy lý luận, con người trí thức, những đỉnh cao của khoa học – công nghệ.

Thực tiễn phát triển của các quốc gia trên thế giới hiện nay cho thấy, các cường quốc về giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo như Mỹ, Trung Quốc, Đức, Nhật Bản, Israel… đều là những quốc gia có truyền thống văn hóa đọc lâu đời và phát triển. Đây cũng là những quốc gia có ngành xuất bản sách dẫn đầu thế giới. Họ cũng là những nước có ưu thế vượt trội về lực lượng trí thức, nguồn nhân lực chất lượng cao; là những quốc gia tiên phong về mô hình giáo dục – đào tạo tiên tiến, phát triển vườn ươm khoa học – công nghệ, công viên khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; dẫn đầu thế giới về các phát minh, phát kiến và các lĩnh vực văn hóa, thể thao, kinh tế, thương mại…

Đọc sách đã góp phần trực tiếp cơ bản tạo nên tư duy lý luận, con người trí thức, những đỉnh cao của khoa học – công nghệ.

PGS.TS Vũ Trọng Lâm

Mô hình phát triển của các quốc gia này đã cho thấy chiều sâu văn hóa đọc, sự phát triển của ngành xuất bản tỷ lệ thuận với sự phát triển mọi mặt của đội ngũ trí thức cũng như sự phát triển toàn diện của quốc gia – dân tộc.

Nhận thấy tầm quan trọng của sách và văn hóa đọc, ngày 24/2/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 284/QĐ-TTg lấy ngày 21/4 hàng năm là “Ngày sách Việt Nam”; ngày 04/11/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1862/QĐ-TTg về việc tổ chức “Ngày sách và văn hóa đọc Việt Nam” nhằm khuyến khích và phát triển phong trào đọc sách trong cộng đồng, nâng cao nhận thức của nhân dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đọc sách đối với việc phát triển kiến thức, kỹ năng và phát triển tư duy, giáo dục, rèn luyện nhân cách con người, góp phần xây dựng đội ngũ trí thức, nhân lực chất lượng cao cho đất nước.

– Trong bối cảnh kỹ thuật số bùng nổ hiện nay, tri thức đến từ nhiều nguồn, đa phương tiện, đa loại hình, ngành xuất bản đang gặp những thách thức gì trong việc cung cấp tri thức cho xã hội nói chung và đội ngũ trí thức nói riêng?

Những năm qua, ngành xuất bản đã có những đóng góp trong việc cung cấp, tạo dựng tri thức nền tảng cho xã hội. Thời đại truyền thông kỹ thuật số ngày nay đang tạo ra một cuộc cách mạng mới đối với ngành thông tin – truyền thông nói chung và ngành xuất bản sách nói riêng. Bên cạnh những cơ hội lớn, ngành xuất bản Việt Nam cũng đang phải đối mặt với không ít thách thức mới, khó, phức tạp trong việc cung cấp tri thức cho xã hội, góp phần xây dựng nền kinh tế số, kinh tế tri thức của đất nước.

Thứ nhất, thách thức về trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ cho hiện đại hóa ngành xuất bản. Hiện nay, trước sự bùng nổ của khoa học, công nghệ và sự ra đời của hàng loạt các công nghệ, phương tiện thông tin truyền thông mới, ngành xuất bản buộc phải chuyển mình để tăng cường khả năng cung cấp tri thức trên nhiều kênh, nhiều dạng thức khác nhau; muốn vậy ngành cần phải có nền tảng hạ tầng phát triển, hiện đại.

Tuy nhiên, trên thực tế, cơ sở hạ tầng cho việc ứng dụng khoa học công nghệ vào ngành xuất bản Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế và lạc hậu. Hệ thống hạ tầng cứng (như cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ, mạng viễn thông, Internet, hệ thống thanh toán điện tử…) và hạ tầng mềm (như các trung tâm tài nguyên dữ liệu nội dung, cơ sở dữ liệu số, hệ thống nền tảng thông tin…) cho ngành xuất bản còn thiếu, lạc hậu, chưa thống nhất, thiếu đồng bộ…

Điều này làm cho ngành xuất bản đang gặp nhiều trở ngại, lúng túng trước yêu cầu của phải chuyển đổi mô hình hoạt động và thực hiện đa dạng hóa, số hóa, đa phương tiện hóa, tích hợp hóa hoạt động và sản phẩm; vì thế khả năng đáp ứng của ngành xuất bản trước yêu cầu ngày càng cao và phong phú của công chúng về cơ bản còn yếu kém.

Thứ hai, thách thức về nguồn lực cho hiện đại hóa, chuyển đổi số hoạt động xuất bản. Hiện nay, nhiều ngành, nhiều cấp vẫn chưa có nhận thức thực sự đẩy đủ, đúng đắn về tầm quan trọng của ngành xuất bản đối với sự phát triển của xã hội; ngành xuất bản thiếu vốn tài chính cho đổi mới hoạt động xuất bản, thiếu nguồn nhân lực mới cho quá trình hiện đại hóa ngành, thiếu môi trường pháp lý và quản lý mới phù hợp với sự phát triển theo hướng chuyển đổi số, đa phương tiện và tích hợp ngành xuất bản Việt Nam trong bối cảnh mới…

Thứ ba, thách thức do văn hóa đọc còn hạn chế, đặc biệt là trong thời đại công nghệ số. Thói quen đọc sách vẫn chưa trở thành hoạt động ăn sâu, bám rễ vào văn hóa của người Việt Nam, do vậy khả năng tiếp nhận tri thức từ sách còn hạn chế. Trong bài viết Thúc đẩy văn hóa đọc, nhìn từ công nghệ trên báo Nhân Dân điện tử, ngày 27/5/2022, cho thấy, chỉ có 21% người Việt Nam đọc sách trong một năm và tỷ lệ 1,4 đầu sách/người/năm là rất đáng lo ngại.

Với sự phổ biến ngày càng rộng rãi của các phương tiện truyền thông xã hội và ứng dụng phổ biến của phương tiện kỹ thuật số, các thiết bị đọc đầu cuối, nhiều người lại càng ít hứng thú với việc đọc sách và chủ yếu tiếp nhận thông tin từ các phương tiện khác.

Có nhiều ý kiến cho rằng các thiết bị, công nghệ mới là nguyên nhân làm cho văn hóa đọc chuyển đổi từ cách đọc sâu, đọc chi tiết, đọc theo tuần tự tuyến tính – phản ánh tư duy logic, sâu sắc, sang hình thức đọc rộng, đọc lướt, đọc nhanh, đọc rời rạc – phản ánh một cái nhìn đơn giản và hời hợt về thế giới. Và do đó, tri thức tiếp nhận được cũng bị vỡ vụn, làm cho quá trình tích lũy tri thức bị khó khăn hơn và cũng khó hình thành được tư duy lý luận, tư duy khoa học và làm giảm năng lực phát minh, phát kiến, sáng tạo…

Đây là những thách thức lớn, khó có thể giải quyết trong một sớm, một chiều và cần sự vào cuộc của toàn dân, các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị, đặc biệt là sự nỗ lực của ngành xuất bản.

– Ông có thể chia sẻ quan điểm về giải pháp để ngành xuất bản có thể phát huy được vai trò của mình trong phát triển đội ngũ trí thức trong tình hình mới?

Theo tôi, để ngành xuất bản thực hiện tốt hơn nữa vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình đối với sự phát triển của xã hội nói chung và đội ngũ trí thức, nguồn nhân lực của đất nước nói riêng, cần hệ thống các giải pháp đồng bộ, toàn diện, tập trung thực hiện tốt các giải pháp Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII về tiếp tục xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới đã đề ra, chú trọng một số giải pháp sau:

Đổi mới tư duy để có nhận thức đúng và đầy đủ về tính chất, vị trí, vai trò của hoạt động xuất bản trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế và điều kiện phát triển mới của đất nước. Hiện nay, còn nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều người chưa hiểu đúng về hoạt động xuất bản, nhầm lẫn nhà xuất bản với nhà in, vì thế, chưa quan tâm đúng mức tới phát triển hoạt động xuất bản.

Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ cho hoạt động xuất bản; trong đó chú trọng phát triển hạ tầng số, nền tảng số, xây dựng cổng dữ liệu quốc gia tích hợp với thành phần dữ liệu mở; xây dựng các ứng dụng số cho các khâu của hoạt động xuất bản…

Đổi mới và tăng cường chuyển đổi số, nâng cao năng lực để phát triển mạnh mẽ các hoạt động xuất bản điện tử, xuất bản số và kinh doanh, tiêu thụ xuất bản phẩm điện tử, xây dựng kho thông tin – dữ liệu quốc gia và bảo vệ bản quyền.

Đổi mới và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành xuất bản.

Đổi mới bộ máy tổ chức và công tác quản lý xuất bản cũng như hệ thống cơ chế, chính sách đối với ngành xuất bản trong bối cảnh mới.

Trân trọng cảm ơn ông!

Nguồn: https://znews.vn/doc-sach-la-phuong-thuc-can-ban-boi-dap-nguyen-khi-quoc-gia-post1446745.html

Xuất Bản

Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự

Được phát hành

,

Bởi

Nhà văn là nhân chứng sáng suốt, là người tỉnh táo, đủ trí tuệ để ghi lại rất nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc sống.

Le Minh Khue anh 1

Nhà văn được giải Nobel Svetlana Alexievich và nhà văn Lê Minh Khuê tại liên hoan.

Lịch sử chỉ nói được về sự kiện đó trong vài dòng. Nhưng nhà văn nhìn sự kiện đó thấu đáo thông qua các số phận, ghi chép lại cho các thế hệ tiếp theo.

Văn chương hòa bình ở thành phố sách Pazu

Từ nhiều năm nay, có rất nhiều cuộc gặp gỡ văn chương được Hàn Quốc tổ chức, quy tụ nhiều nhà văn ở các nước đến để dự liên hoan và hội nghị về các vấn đề lớn. Các nhà văn thường đại diện cho những vùng đất ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latin. Ít khi có khuôn mặt đại diện của châu Âu và Bắc Mỹ. Giáo sư Kim Jae Yong, người trong ban tổ chức các hội thảo nói với tôi: “Tôi thích đại biểu của châu Á, châu Phi và Mỹ Latin”.

Năm 2008, tôi được dự hội nghị có hàng trăm nhà văn nhiều màu da. Những cuộc gặp gỡ, những ý kiến khác nhau, nhiều tiếng nói của các miền đất. Nhưng cũng giống như các hội nghị trên thế giới, không ai biết người đang đối thoại của mình từng viết gì. Vui vẻ như vậy, và cũng biết là đã đến các cuộc gặp gỡ này thì ai cũng có “thành tựu” nào đấy, nhưng chẳng ai biết rõ về ai, cuộc sống, tài năng, công việc hàng ngày… Mà có lẽ như thế lại hay.

Nhìn thấy nhau đột nhiên thấy quý mến vì nụ cười, vì màu da, vì xa cách địa lý nhưng cũng có một công việc và cũng có sự quan tâm sâu sắc tới cuộc sống của đất nước mình.

Cuối tháng 11/2023, tôi được mời đến Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự DMZ (De-military Zone) do Quỹ văn hóa tỉnh Gyeong-gi chủ trì. Gyeong-gi là tỉnh lớn, một đơn vị hành chính rất quan trọng của Hàn Quốc, có 13 triệu dân, ở ngay cạnh Thủ đô Seoul. Liên hoan tổ chức ở thành phố xuất bản Pazu, nơi chỉ có các nhà xuất bản, và chỉ sách là sách. Khi nhận lời mời tôi nghĩ chắc liên hoan sẽ đặt trọng tâm vào vấn đề về chiến tranh. Chiến sự Nga – Ukraine đang ác liệt. Và từ mấy hôm trước chiến sự ở dải Gaza đang làm cả thế giới thấy bất an.

Đến dự liên hoan, người đầu tiên tôi chú ý nhìn là nhà văn Adania Shibli đến từ Palestine, một người phụ nữ gầy gò, khuôn mặt thông minh nhưng trông có gì đó như thảng thốt. Quê hương của cô ở dải Gaza đang hứng chịu bom đạn chết chóc, trẻ con chết hàng ngày. Tôi bắt tay cô, không nói với nhau được gì nhưng có vẻ cô thấu hiểu tình cảm của người chia sẻ.

Liên hoan có 12 tác giả nước ngoài và 38 tác giả Hàn Quốc, toàn người rất nổi tiếng. Sáu nhà văn trong ban tổ chức là các giáo sư kiêm tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà thơ. Giáo sư Kim Jae Yong rất bận rộn. Ông có những giờ giảng bài ở các trường đại học nên khi đến muộn, ông bắt tay tôi rất chặt. Chúng tôi quen nhau từ năm 2008 và khi tôi tới Hadong nhận giải thưởng văn học quốc tế mang tên văn hào Byeong-ju Lee, ở xa ông đã gọi điện chúc mừng.

Các nhà văn đến từ Nigeria, Ấn Độ, Tunisia, Peru, từ Đài Loan (Trung Quốc), Philippines, Nhật Bản đều ở độ tuổi từ 50 đến 70. Nhà văn da đen Niyi Osundare là người gốc Nigeria nhưng là công dân Mỹ, sống ở bang Louisiana. Ông cười cởi mở, thân thiện với tôi và hát một bài hát gì đó mà điệp khúc nhắc đi nhắc lại Việt Nam… Việt Nam. Ông hát say sưa và bảo với tôi: Đấy, người dân châu Phi rất yêu quý Việt Nam. Ông cùng tuổi với tôi, có ba người con trai, ông hay khoác tay tôi và bảo: Nào, các ông bà già hãy ngồi xuống! Rồi nhắc đi nhắc lại: Việt Nam – Mọi chuyện đều ổn!

Những khi như vậy lại cứ tiếc là chưa được đọc tác phẩm của họ. Cô gái người Philippines cũng vậy. Xinh đẹp, sinh động, tuổi chỉ hơn 40, cô hỏi tôi: Đột nhiên chị gặp tôi ở Hà Nội thì chị sẽ thế nào? Rồi cười tươi tắn bảo: Tôi sẽ tới Việt Nam!

Tham luận của các nhà văn đều hướng đến những vấn đề ở đất nước họ. Xung đột vùng đất, sắc tộc, cách để tồn tại ở một nơi xa lạ. Tôi nói đến những người mẹ trong chiến tranh Việt Nam. Giáo sư Kim Jae Yong bảo tham luận của tôi rất gần với tiêu chí của hội thảo. Thực ra ở Việt Nam đề tài chiến tranh gắn kết với cuộc đời của nhiều thế hệ, cho đến rất lâu sau chiến tranh vẫn chưa thể ra khỏi vùng đất mà nhà văn đề cập.

Trong bữa sáng ở khách sạn, Priya Basil, nhà văn gốc Ấn Độ hiện sống ở Đức có hỏi tôi: Thế khi tham gia chiến tranh chị sợ ai nhất? Cô ấy hỏi ai chứ không hỏi cái gì. Tôi bảo tôi sợ cái chết. Chị có căm thù người Mỹ không? Không. Lúc ấy thì không. Tôi chỉ sợ hãi. Sợ hãi choán hết tâm trí con người. Còn căm thù thì có. Nó tới dần dần. Qua nhận thức, qua thời gian.

Ở Khu Phi quân sự, biên giới giữa Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên, trong khi đứng bên này nhìn sang phía Bắc Triều Tiên, hôm ấy mù trời, không thấy rõ, chỉ thấy thấp thoáng cánh đồng lúa, nhà văn người Ấn Độ nhìn tôi cười: Việt Nam có hoàn cảnh như thế này lâu không? Tôi bảo hơn hai mươi năm. Anh ấy trầm ngâm: Ừ, cũng phải bao nhiêu xương máu…

Diễn đàn khơi gợi ký ức

Mọi người đều có vẻ cảm thông, chia sẻ với nhau. Nhất là khi lúc này bom đạn đang làm thế giới chao đảo, bất ổn. Các bản tham luận đều nói tới ước mong hòa bình cho các vùng đất. Bản tham luận của nhà văn đoạt giải Nobel nói rất nhiều đến ký ức chiến tranh, khi nước Pháp bị xâm chiếm và đội quân xâm lược có những lúc như muốn lấy lòng người dân. Tên lính Đức đưa cho tác giả, lúc ấy còn bé, mấy thanh sôcôla. Lát sau bà ngoại của ông phải giấu vứt đi, vì sợ bị đầu độc. Ông nói nhiều tới ký ức chiến tranh trong các buổi giao lưu, ông nhắc tới những cuộc đối đầu với quân Đức và ký ức bạo lực hầu như theo ông suốt đời.

Le Minh Khue anh 2

Các nhà văn quốc tế dự Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự DMZ Hàn Quốc, tháng 11.2023

Jean-Marie Gustave Le Clézio – một cái tên không xa lạ với độc giả Việt Nam. Tôi đã đọc tiểu thuyết Sa mạc của ông. Đọc các truyện ngắn. Đặc biệt là tiểu thuyết Sa mạc, rất khác với các tiểu thuyết có vẻ hơi nhẹ nhõm bóng bẩy ở một số nhà văn Pháp, tiểu thuyết của ông tràn đầy chi tiết, sự kiện, dày đặc tình huống về đời sống trên sa mạc, rất hấp dẫn và không dễ đọc. Ông là một trong ba nhà văn Pháp nổi tiếng, tiêu biểu, là người đã xuất bản trên 30 tác phẩm.

Le Clézio nhận giải Nobel Văn chương năm 2008. Trong lần đi thăm Khu Phi quân sự DMZ, nơi chia cắt hai miền Triều Tiên, ông ngồi giữa hai người phụ nữ, chắc một người là thư ký. Ông cao dong dỏng, thẳng thớm, rắn rỏi, dù đã ngoài 80. Trông ông rất trẻ. Chắc thời trẻ ông cực kỳ hấp dẫn. Tôi chỉ nói được với ông hai ba câu, nhờ Choi Hana dịch qua tiếng Anh. Tôi nói ở Việt Nam sách của ông nhiều người đọc nhất là thanh niên. Ông bình thản gật đầu. Tôi hỏi ông có đọc một vài nhà văn gốc Việt ở Pháp không. Ông bảo ông biết Linda Lê. Ông hỏi sách của tôi có được dịch ở Pháp không? Không, tôi chỉ được in sách ở Mỹ. Ông bảo sắp tới ông sẽ đi Mỹ, ông sẽ tìm đọc…

Tôi biết đó là điều không thể, vì ông hiếm thời gian, vì đi tìm một cuốn sách in đã lâu là điều không thể. Và vì sự quan tâm đến một nhà văn xa lạ cũng rất không thể. Nhưng tôi cảm động vì cách cư xử lịch sự của ông, nó gây nên thiện cảm, sự ấm áp và trân trọng… Những ngày ở Hàn Quốc, giữa các cuộc hội thảo và tham quan, Le Clézio rất trầm lặng, thậm chí có vẻ xa cách. Cũng không thấy nhà văn của nước nào ngồi trò chuyện với ông ngoài các cuộc hội thảo ông ngồi trên diễn đàn, trả lời vài câu hỏi, bàn tới vấn đề chiến tranh – hòa bình và điều ông nói trong hội thảo cũng như trong bản tham luận làm ta suy nghĩ.

Ông nói đến những bi kịch lớn của lịch sử thế giới, những cuộc chinh phục thuộc địa, sự tàn sát người vô tội ở châu Mỹ da đỏ, buôn bán nô lệ từ châu Phi, các cuộc chiến tranh thế giới… Không điều nào trong số đó bị văn chương ngăn chặn. Có lẽ đó không phải là vai trò của văn chương. Nhà văn không phải là nhà tiên tri hay nhà chính trị. Trên hết họ là nhân chứng… Tác phẩm của họ cộng hưởng, đôi khi khuếch đại những sự kiện xảy ra cùng thời với họ, nhưng chúng không ảnh hưởng đến tiến trình chung…

Người cùng ngồi trên diễn đàn với ông là bà Svetlana Alexievich, nhà văn người Belarus được giải Nobel Văn chương năm 2015. Tôi chú ý khuôn mặt hiền hậu của bà, nhưng cái vẻ không khoan nhượng của bà giống như một đặc điểm của các nhà văn nữ hay quan tâm đến các đề tài khó như chiến tranh, như chính trị và thuyết phục người đọc bằng quan điểm cứng rắn. Tôi chú ý tìm bà ngay từ đầu khi bà đi ra cùng hai cô thư ký. Tôi nói với bà: Tôi là nhà văn Việt Nam. Tôi đã trải qua chiến tranh.

Đôi mắt bà nhìn rất nhanh qua tôi. Như nắm bắt nhanh một ấn tượng. Cái nhìn vừa như muốn quen biết vừa như dò hỏi. Nhưng thiện cảm thì rất rõ. Chúng tôi bắt tay nhau nhưng nói chuyện lại khó. Bà nói tiếng Nga. Phải có một phiên dịch tiếng Anh biết tiếng Nga. Đành chỉ biết cười vậy!

Svetlana Alexievich gây ấn tượng với tôi từ lâu khi tôi đọc quyển Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ của bà. Sách được ông Nguyên Ngọc chuyển ngữ thu hút người đọc Việt Nam hơn vì tác giả và dịch giả cùng trải qua chiến tranh, có sự đồng cảm lớn.

Trong quyển sách của bà có một chi tiết làm tôi xúc động ngay từ lần đọc đầu tiên. Một nhóm nữ du kích bị bọn Đức bắt giam. Những tên Gestapo độc ác. Một người phụ nữ có đứa con nhỏ hơn một tuổi chưa biết nói. Khi bọn lính lôi người mẹ đi, đứa trẻ lần đầu tiên trong đời hét lên: Mẹ!

Quyển sách sắp xuất bản của bà cũng thuộc thể loại văn xuôi phi hư cấu. […]

Rất nhiều câu chuyện Svetlana nói trên diễn đàn. Cuộc chiến đang diễn ra và chuyện của bà thu hút người nghe.

Những tác giả Nobel Văn chương đến Hàn Quốc là một sự kiện. Hội trường đông nghẹt người nghe. Buổi giao lưu quan trọng có vị phó tỉnh trưởng tỉnh Gyeong-gi cầm trịch. Vị quan chức của tỉnh là người rất am hiểu văn chương. Ông dẫn dắt, gợi ý, từ đại biểu đến thính giả đều như hướng về cách gợi mở của ông. Trong dàn người đông đúc khi chụp ảnh lưu niệm, ông nhìn về phía tôi rồi tiến tới hỏi tôi ở đâu. Tôi ở Việt Nam đến! Ông cười rạng rỡ, nói như chúc mừng: Chào Việt Nam!

Nhìn cách đón tiếp trân trọng, sự nể nang của mọi người mới thấy người được giải Nobel cực kỳ hạnh phúc. Những điều ông Le Clézio nói làm tôi vừa tâm đắc vừa lấy lại niềm tin vào công việc mà lâu nay mình đã xem nhẹ. Văn chương đích thực phải được nuôi dưỡng trong môi trường tương xứng. Không khí tinh thần ô nhiễm khiến người viết chán nản, tự rẻ rúng với nghề. Nhà văn ta cũng có nhiều sự đáng bị xem thường, nhưng nếu như cần lấy lại sự tôn trọng thì cần hiểu hơn nữa cái nghề mình theo.

Bởi theo nhà văn đoạt giải Nobel mà tôi gặp, văn chương không giúp ích trực tiếp cho bất kỳ một mặt nào của cuộc sống. Văn chương không ngăn cản được chiến tranh, không ngăn cản được đói nghèo, không làm dịu được sự phẫn nộ của thiên nhiên. Nhưng nhà văn là nhân chứng sáng suốt bậc nhất, là người tỉnh táo, đủ trí tuệ để ghi lại rất nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc sống. Lịch sử chỉ nói được về sự kiện đó trong vài dòng. Nhưng nhà văn nhìn sự kiện đó thấu đáo thông qua các số phận, ghi chép lại cho các thế hệ tiếp theo.

Nhà văn – có lẽ cũng là người cần thiết.

Nguồn: https://znews.vn/lien-hoan-van-chuong-hoa-binh-o-khu-phi-quan-su-post1453329.html

Tiếp tục đọc

Xuất Bản

Những dự án lan tỏa tình yêu sách

Được phát hành

,

Bởi

Không chỉ đầu tư nâng cao chất lượng sách, các đơn vị xuất bản còn tổ chức nhiều hoạt động nhằm lan tỏa tình yêu sách, góp phần xây dựng thói quen đọc.

Du an tang sach anh 1

“Chia sẻ yêu thương – Chào xuân mới” là chương trình Nhà xuất bản (NXB) Phụ nữ Việt Nam phối hợp cùng Ban Quản lý Phố sách Hà Nội và Câu lạc bộ Gia đình người tự kỷ Hà Nội tổ chức trong tuần này với mong muốn đáp ứng mong ước của các gia đình có con tự kỷ là được đưa con ra phố, để con mình vào nhịp sống thường nhật, và có một ngày hội để con được biểu diễn, được xem các tiết mục văn nghệ, được gặp gỡ nhau.

Ngày hội ấy còn là dịp để các phụ huynh và các giáo viên làm việc trong lĩnh vực giáo dục trẻ đặc biệt có cơ hội gặp gỡ, chia sẻ thông tin, hỗ trợ và động viên nhau.

Đây chỉ là một trong số nhiều hoạt động vì cộng đồng mà NXB Phụ nữ Việt Nam tổ chức thường xuyên trong nhiều năm qua như đưa sách về vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, tặng sách đến các không gian đọc cộng đồng và các không gian đọc do những người khuyết tật quản lý, tổ chức các buổi trò chuyện chuyên đề và trao tặng sách tới các trại giam.

Đại diện NXB cho biết những năm gần đây, trung bình mỗi năm NXB Phụ nữ Việt Nam tổ chức khoảng 50 sự kiện khuyến đọc. Năm 2022, một Quỹ sách Cộng đồng cũng đã được NXB Phụ nữ Việt Nam cho ra mắt, từ đó nhận được sự đồng hành của nhiều cá nhân, tổ chức để có được nhiều chương trình trò chuyện khuyến đọc và tặng sách tới cộng đồng.

Điểm đặc biệt, không chỉ khuyến đọc ở vai trò của một đơn vị xuất bản mà nhiều cán bộ của NXB Phụ nữ Việt Nam cũng luôn mang trong mình một tình yêu với sách và truyền lửa đọc ấy đến xung quanh. Như một cán bộ truyền thông của NXB Phụ nữ Việt Nam đã thành lập Quỹ Khuyến đọc trong nhóm facebook “Mạng lưới cha mẹ” với mong muốn quyên góp sách tặng của nơi có sách tới nơi cần sách, quyên góp tiền ủng hộ mua sách, giá sách, các trang thiết bị liên quan tới việc đọc sách, và góp phần thúc đẩy văn hóa đọc trong cộng đồng.

Hướng tới cộng đồng bằng Quỹ Chibooks Kết nối yêu thương, năm vừa qua Công ty sách Chibooks hoạt động mạnh mẽ với dự án xây dựng 300 tủ sách thư viện miễn phí vào các trường học trên cả nước, từ tiểu học, THCS, THPT đến các trường cao đẳng, đại học. Đây là dự án đã được triển khai từ năm 2011 đến nay với tổng kinh phí ước tính 12 tỷ đồng nhằm nâng cao ý thức đọc sách trong cộng đồng. Đọc sách để chúng ta thêm hiểu và yêu thương con người, mở rộng cánh cửa tâm hồn ra với thế giới xung quanh. Chibooks mong muốn dự án sẽ lan tỏa ảnh hưởng sâu rộng về ý thức đọc sách đến học sinh từ tiểu học, THCS, gieo mầm tìm hiểu, khát khao khám phá, mở rộng trí tưởng tượng và tri thức cho các em thông qua sách vở.

Dịch giả Nguyễn Lệ Chi, Giám đốc Công ty sách Chibooks, cho biết: “Riêng năm 2023, Quỹ Chibooks Kết nối yêu thương đã trao tặng 32 tủ sách thư viện với 14.242 bản sách, tổng trị giá trên 1,61 tỷ đồng, trong đó gồm 14 tủ sách thư viện cho các trường học và trao tặng sách tới 18 thư viện cộng đồng, 15 thư viện của 15 nhà văn hóa bản”.

Với hoạt động tặng sách cho học sinh tại các trường học ở những nơi chưa đủ điều kiện để thiết lập tủ sách, chương trình “Sách đến tay em” là một trong những Dự án của Câu lạc bộ Vườn yêu thương Thái Hà được triển khai từ cuối tháng 7/2022. Bên cạnh đó, Thái Hà books cũng tổ chức nhiều chương trình khuyến đọc như “Tết sách”, “Sách đồng hành cùng sinh viên”, “ATM sách miễn phí – phiên bản 2”, “Đổi sách lấy cây – gây quỹ khuyến đọc”…

Omega Plus books chọn hướng đi là hỗ trợ xây dựng tủ sách cộng đồng cho các doanh nhân muốn xây dựng thư viện cho cộng đồng, doanh nghiệp, cho các cá nhân, nhóm muốn xây dựng thư viện cho gia đình, quê hương, dòng họ, thư viện cho bệnh viện hay thư viện cho trường học… Danh mục sách là các tác phẩm kinh điển, nền tảng do Omega Plus books tuyển chọn và xuất bản ở nhiều chủ đề khác nhau từ lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới, chính trị, kinh tế, khoa học vật lý, văn học thiếu nhi, giáo dục, y học, nghệ thuật, âm nhạc…

Với NXB Kim Đồng, hoạt động khuyến đọc và trao tặng sách được tổ chức thường xuyên, liên tục như chương trình “Một triệu cuốn sách cho trẻ em nghèo”, tặng tủ sách cho các trường học ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, cho cộng đồng trẻ em nghèo người Việt tại nước ngoài – những nơi còn khó khăn, không có điều kiện tiếp cận với sách vở, tài liệu trong nước; bảo trợ, thường xuyên tặng sách cho các thư viện, không gian đọc.

Mỗi đơn vị chọn một cách làm riêng nhưng điểm chung là đều hướng đến vì cộng đồng, đặc biệt với những cộng đồng còn khó khăn, nhằm mang tri thức đến với lớp trẻ, lan tỏa tình yêu sách và góp phần xây dựng thói quen đọc.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho ZNews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. ZNews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/nhung-du-an-lan-toa-tinh-yeu-sach-post1454645.html

Tiếp tục đọc

Xuất Bản

‘Hồn Trương Ba da hàng thịt’ – Một cách tiếp cận thế hệ công chúng mới

Được phát hành

,

Bởi

Kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Tsuyoshi Sugiyama là sự tiếp cận ráo riết thế hệ người xem mới, song gây ra tiếng thở dài cho phần công chúng còn luyến nhớ những mẫu mực.

Hon Truong Ba anh 1

Đạo diễn người Nhật Bản Tsuyoshi Sugiyama từng gây được dư luận ở Việt Nam với cách xử lý độc đáo hai vở kịch kinh điển Cậu Vanya (Anton Chekhov) và Hedda Gabler (Henrik Ibsen) ở Nhà hát Tuổi Trẻ. Lần này, vẫn với tư duy sân khấu độc đáo đó, anh mang đến cho bản dựng Hồn Trương Ba da hàng thịt nhiều nét lạ.

Một tổng thể những nét lạ

Cái lạ đầu tiên là hóa trang và trang phục. Tất cả nhân vật đều ăn mặc khá hiện đại và có phần được Nhật hóa. Vợ chồng con cái nhà Trương Ba như những người nông dân đâu đó bên nước Nhật. Vợ anh hàng thịt, đặc biệt là đám tiên nữ nhà trời, không khác gì những vũ nữ tân thời trong một màn tạp kỹ (nói như một ông quan thiên đình trong kịch “thiên đình gì mà như cái chợ”, thì ở bản dựng này thiên đình gì mà như sân khấu tạp kỹ). Hai ông quan liêu tùy tiện ở thiên đình là Nam Tào Bắc Đẩu trang phục như công chức, nhưng được phân biệt với người hạ giới bằng cách đội trên đầu cặp sừng trâu và sừng dê, vừa như quỷ sống vừa như đám đầu trâu mặt ngựa.

Các nhân vật phần nhiều mang điểm nhấn hóa trang bôi mặt trắng như kiểu kịch Nô của Nhật, cũng có khi là những vạch vằn vện kiểu tuồng Tàu hoặc thổ dân đâu đó. Hóa trang và phục trang gây không khí Nhật hóa và gợi liên tưởng một câu chuyện dân gian không chỉ riêng một đất nước nào.

Cái lạ nữa là đạo diễn chuyển đổi giới tính cho một số nhân vật. Đế Thích cao cờ không phải là phi giới tính như cách thể hiện của nghệ sĩ Trần Tiến trong bản dựng đầu tiên gần bốn chục năm trước, mà là một… bà, bà tiên Đế Thích.

Lý trưởng bê bối tham nhũng ngày trước là nghệ sĩ Phạm Bằng thì nay là một người đàn bà, một bà có chức có quyền và cũng không hẳn là giới tính nữ. Một số nền văn minh cổ coi thần thánh mang trong mình cùng lúc nhiều giới tính, và kẻ tham nhũng trong kịch này có lẽ cũng đa sắc như vậy.

Đạo diễn dụng công tạo ra những mảng miếng lạ, chẳng hạn trong vở Cậu Vanya, ông để cho nghệ sĩ Lê Khanh và các diễn viên khác lăn lộn trong nhem nhuốc cát bụi. Cát thật. Cát mịt mù trên sân khấu. Còn ở Hồn Trương Ba da hàng thịt, lối sử dụng các nguyên vật liệu làm đạo cụ vẫn còn đó. Cái chậu tiết anh hàng thịt hất văng ra nhuộm đỏ một mảng sân khấu. Cốc nước của bà quyền chức cũng màu máu. Xô nước mà người con dâu hắt vào cái hồn-Trương-Ba-da-hàng-thịt để thức tỉnh phần hồn ông Trương Ba cũng là… nước thật.

Đạo diễn không ngần ngại để cho nước lênh láng trên sàn diễn, mà theo một quan niệm sân khấu nào đó thì không nhiều mỹ cảm. Nhưng chỉ có cách tự lý giải: đó là chủ ý của riêng đạo diễn Tsuyoshi Sugiyama. Các động tác lên thiên đình xuống trần gian của Đế Thích và bà vợ Trương Ba là ước lệ không gian kiểu chiếu chèo nhưng cũng là phép ước lệ của sân khấu dân gian nhiều nước.

Cuộc giằng co giữa thể xác hàng thịt và linh hồn của Trương Ba được cụ thể bằng một vật kết nối như sợi dây thừng, lại cũng như những khúc dồi hoặc dây xúc xích của anh hàng thịt. Ấy vậy, người xem vừa tưởng như có thể kết luận rằng sử dụng ước lệ và biểu tượng là căn tính của đạo diễn thì lại va ngay vào những động tác hình thể quá cụ thể như động chạm cầm nắm sờ soạng. Diễn viên đã làm thật, như có dụng ý bác bỏ ước lệ mà khẳng định họ đang làm dạng kịch truyền hình trong nhà ngoài phố.

Nhiệt tình mang đến cái lạ cũng có thể đã làm cho kịch thiếu đi những khoảng lặng, những phút lắng lại, trầm sâu trong tâm tưởng và gieo vào người đọc những cảm xúc mà kịch bản đã sẵn có. Những yếu tố kỹ thuật tân thời và sự mải mê thủ pháp mảng miếng lạ có khi đã khiến cho kịch thiên về tính kỹ nghệ và duy lý.

Hon Truong Ba anh 2

Tạo hình tiên Đế Thích và bà vợ Trương Ba trong vở kịch. Ảnh: Se sẽ chứ.

Chiến trường của linh hồn và thể xác

Dù có tránh bớt liên tưởng đến cây cao bóng cả, thì cũng thấy sau mấy thế hệ của sân khấu kinh điển như Trọng Khôi, Mỹ Dung, Trần Tiến, Lan Hương (Quắm), Phạm Bằng… truyền thống dựng kịch kinh điển duy mỹ có thể đã dừng lại sau thế hệ của những Lê Khanh, Ngọc Huyền, Chí Trung, Anh Tú (và Thành Lộc ở Sài Gòn)…

Trong tình thế hiện nay, chạm đến những vở kịch kinh điển giàu tính biểu tượng và ẩn dụ, đạo diễn vẫn phải thỏa hiệp với lớp diễn viên mới để làm nên một thứ “tân cổ giao duyên” – chỉ nói về nghệ thuật diễn xuất. Phải chấp nhận pha trộn giữa động tác hình thể cách điệu và cách diễn tả thật, pha trộn lối diễn xuất giữa sân khấu và phim truyền hình. Đến thế mới thấy diễn viên đóng vai hồn-Trương-Ba-da-hàng-thịt nỗ lực rất nhiều mà cái gánh nặng ấy vẫn là quá sức.

Diễn viên không làm cho người xem thấy được cơn vật vã giằng giật của hồn bên trong xác, một khi hình thể khô cứng thiếu sinh sắc. Đài từ các diễn viên vốn quen được hỗ trợ khuếch âm của các phương tiện âm thanh hiện đại, khi bị khước từ dùng micrô, phải dùng giọng mộc, dùng âm thanh gốc, thì nỗi hoang mang không tự tin vào giọng mình bộc lộ qua những phát âm nhả chữ thiếu tròn vành, thậm chí nhiều khi díu và dính, nhòe và hụt hơi.

Trở lại với cách xử lý của đạo diễn. Kết thúc vở kịch, hồn ông Trương Ba chấp nhận cái chết và anh hàng thịt được sống lại. Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi khi xưa đã để cho anh ta vùng dậy, nhìn quanh rồi thô lỗ quát mắng cô vợ – ngựa quen đường cũ, thói xưa khó bỏ.

Nhưng đạo diễn Tsuyoshi Sugiyama đã xử lý cách khác. Không chỉ ông Trương Ba chết, tất cả nhân vật từ anh hàng thịt, vợ chồng con cái nhà anh cho đến gia đình Trương Ba và bạn bè, cả tiên nữ và Đế Thích đều đi những bước giật lùi, họ đi ngược không gian và thời gian, để rồi tất thảy cùng đổ xuống, cùng lăn ra chết. Mới trước đó các nhân vật còn luận về chuyện hồn nọ xác kia, hồn không cần cậy nhờ cái xác, xác cũng chẳng phải mượn hồn, giờ thì hồn nào xác nào cũng chết. Tại sao vậy? Rằng không phải chỉ có một ông Trương Ba mới phải mượn thể xác người khác? Có khi cả thế gian này đều là hồn nọ xác kia, chẳng có ai được nguyên vẹn là mình, có khi ai ai cũng đều là những thực thể lắp ghép, để mà sống với đời?

Trên cái thế gian mà hóa ra chẳng có ai nguyên vẹn, chỉ còn lại một nhạc công ôm cây đàn ghi ta, đi như trên một bãi chiến trường sau trận đấu hồn và xác. Anh ta cũng là người dẫn chuyện bằng âm thanh trong suốt vở diễn. Và những âm thanh cuối cùng được cất lên, có thể là khúc cầu siêu, cũng có thể là khúc hoan ca.

Ở bản Hồn Trương Ba da hàng thịt của Tsuyoshi Sugiyama, đài từ và hình thể của các diễn viên nếu đạt chuẩn kịch kinh điển, sẽ chuyển tải nội dung trọn vẹn, và cái trải nghiệm sân khấu lạ lùng này sẽ thật sự là cách xử lý sân khấu kinh điển có ý nghĩa cho người xem hôm nay.

Tất nhiên sự tiếp cận ráo riết thế hệ người xem mới sẽ gây ra tiếng thở dài cho phần công chúng còn luyến nhớ những mẫu mực. Nhật hóa và quốc tế hóa một vở kịch Việt như vậy, không chỉ vì đạo diễn Nhật Bản nhớ quê hương, mà biết đâu Tsuyoshi Sugiyama cũng mong một ngày nào đó bản dựng này sẽ đến với người xem ở quê hương anh và cả đâu đấy bên ngoài đất Việt.

Hồn Trương Ba da hàng thịt, kịch của Lưu Quang Vũ, đạo diễn: Tsuyoshi Sugiyama, sản xuất: Nguyễn Hoàng Điệp, diễn viên của nhiều nhà hát: Chiều Xuân, Kim Oanh, Xuân Tùng, Hương Thủy, Hoàng Tùng, Mạnh Hoàng, Thanh Lê, Hirota, Trường Khang… Ba buổi công diễn tác phẩm diễn ra từ 12 đến 14/1 tại rạp Công Nhân, Hà Nội.

Nguồn: https://znews.vn/hon-truong-ba-da-hang-thit-mot-cach-tiep-can-the-he-cong-chung-moi-post1454673.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng