Connect with us

Sách hay

Điều gì đã khiến xứ sở Kim Chi ‘thay da đổi thịt’

Được phát hành

,

Công nghệ – Internet hiện không đơn thuần là phương tiện hỗ trợ con người mà trở thành một loại “quyền lực mềm” chi phối quá trình vận hành, thực thi hầu như mọi việc.

Đặc biệt, từ khi đại dịch Covid-19 xảy ra và kéo dài suốt hai năm qua, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình phát triển kinh tế và tính mạng con người, vai trò của Công nghệ – Internet một lần nữa được khẳng định.

Ở các quốc gia phát triển trên thế giới, nhà máy – xí nghiệp – công ty – nông trại… phần lớn được quản lý bằng công nghệ và điều khiển trên hệ thống. Dù ở bất kỳ đâu, chỉ cần một cú click chuột là một hệ thống vận hành một cách trơn tru. Người đảm nhiệm công việc này xử lý hầu hết thao tác trên nền tảng công nghệ đã được dựng nên trước đó.

Tuy nhiên, vai trò nổi bật nhất của công nghệ – Internet trong hơn hai năm qua là chuyển từ hình thức offline sang online đối với việc dạy – học, họp hành công việc, gặp gỡ gia đình, bạn bè người thân (kể cả việc tổ chức sinh nhật, cưới hỏi, tang lễ…).

sach kinh doanh anh 1

Quá trình chuyển đổi đồng thời dẫn đến việc thay đổi thói quen học tập, làm việc, sinh sống của con người. Chúng ta có một môi trường kết nối rộng mở, có thể kết nối với mọi người ở khắp nơi trên thế giới với điều kiện có một thiết bị ghi hình và Internet.

Quay ngược thời gian trở về những năm 1960, Công nghệ – Internet phát triển được xem là một trong những tiền đề giúp nền kinh tế Hàn Quốc phát triển vượt bậc sau khi kết thúc cuộc chiến với Triều Tiên và tạo nên “Kỳ tích sông Hàn”. Hiện tại, mặc dù dịch bệnh làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế thế giới nhưng kinh tế Hàn Quốc vẫn tăng trưởng và đứng vững trong top 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G20).

Tác phẩm – công trình nghiên cứu Bắt kịp kinh tế và nhảy vọt công nghệ – Con đường phát triển và ổn định kinh tế vĩ mô Hàn Quốc (Nguyên bản tiếng Anh: “Economic Catch-up and Technological Leapfrogging”), do Keun Lee làm chủ biên đã phác thảo hành trình hơn 50 năm “thay da đổi thịt” của “xứ sở Kim Chi” và đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Điều gì làm nên kỳ tích sông Hàn?”.

Đảm bảo sở hữu trí tuệ và bình tĩnh trước khủng hoảng kinh tế

Sự phát triển nào cũng gắn liền với quá trình tiếp thu, cải tiến và cho ra đời những sản phẩm theo dạng copy – paste. Điều này gây ra sự khó chịu cho nhiều doanh nghiệp vì yếu tố bản quyền không được đảm bảo.

Hơn bao giờ hết, chính sách “sở hữu trí tuệ” càng phải được quan tâm xây dựng. Hành trình hơn bốn mươi năm xây dựng chính sách “sở hữu trí tuệ” đã tạo bước tiến vượt bậc cho kinh tế Hàn Quốc, mà ở đó việc “bắt chước” được kiểm tra, đánh giá nghiêm ngặt. Từ đây, các doanh nghiệp phải tìm cách sáng tạo không ngừng, sáng tạo từ nền tảng tiếp thu – học hỏi từ các doanh nghiệp thành công, doanh nghiệp “lão thành” và đối thủ.

Một cuộc chạy đua kinh tế thần tốc gắn liền với quá trình hình thành và áp dụng các quyền về bằng phát minh diễn ra. Ba sự kiện – Bốn giai đoạn dần dần hình thành thói quen đăng ký bằng sáng chế, bản quyền và được cơ quan “sở hữu trí tuệ” bảo vệ.

Ba sự kiện cụ thể như sau: (1) người Hàn Quốc phải nộp bằng sáng chế petit (giải pháp hữu ích) và một số bằng sáng chế (phát minh) thông thường; (2) độ chênh lệch trong việc nộp bằng sáng chế giữa cá nhân (nộp nhiều) và tập đoàn (nộp ít) cũng là điều cần xem xét; (3) việc nộp bằng sáng chế trong nước và nước ngoài giúp nền kinh tế Hàn Quốc năng động hơn.

Bốn giai đoạn, tác giả gọi là những năm tháng đổi thay, đã tạo nên vị thế của công nghệ – Internet và nền Kinh tế của Hàn Quốc ngày hôm nay. (1) từ 1960-1970, giai đoạn nhìn thử nghiệm và nhìn thấy vấn đề thì năng lực công nghệ của Hàn Quốc rất thấp, bằng sáng chế đăng ký không như mong đợi; (2) từ 1970-1980: giai đoạn này các doanh nghiệp nước ngoài thống trị quốc gia làm cho “sức vóc” phát triển của doanh nghiệp trong nước không thể hiện rõ; từ 1980-1990, giai đoạn bắt kịp nhanh chóng sự phát triển của các nước phương Tây đã giúp Hàn Quốc mặc thêm chiếc áo mới qua tỷ lệ bằng sáng chế tăng; (3) từ 1990-nay, giai đoạn bắt kịp nhanh chóng, bằng sáng chế đăng ký ở Mỹ ngày càng nhiều và tỷ lệ bằng sáng chế của doanh nghiệp tăng 90%.

Như thế mới thấy, quá trình “thay da đổi thịt” của nền kinh tế Hàn Quốc rất chú trọng vào tư duy sáng tạo. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp trong nước. Việc chú trọng phát triển nội lực của các doanh nghiệp trong nước, đẩy mạnh đăng ký bằng sáng chế quốc gia, cho thấy tầm quan trọng của “cuộc chạy đua sáng tạo” đã góp phần tạo nên kỳ tích cho quốc gia này.

Công nghệ số mở ra cánh cửa phát triển “đỉnh cao” của “xứ sở Kim Chi”

Con rồng thứ tư của “4 con rồng châu Á” là một minh chứng cho thấy tầm quan trọng của việc tập trung nguồn lực phát triển công nghệ. Từ đó, làm nên kỳ tích cho quốc gia. Bên cạnh đóng tàu, sản xuất ôtô, điện tử… thì thị trường công nghệ với những cái tên đình đám như Samsung, Deawoo, Hyundai, LG, SK, Lotte… lấn sang thị trường quốc tế và không thua kém các thương hiệu khác trên thế giới.

Nếu ở trên, chúng ta đã thấy Hàn Quốc tạo nên một cuộc chạy đua về bằng sáng chế thì với công nghệ cũng tương tự thế. Các doanh nghiệp đẩy mạnh nguồn lực, quy tụ nhân tài, thu hút nguồn lao động từ khắp nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam, nhằm tập trung chất xám cho việc sáng tạo. Một cuộc chạy đua về công nghệ mở ra bằng việc thay đổi thói quen của người tiêu dùng. Từ đầu những năm 1990, các sản phẩm thuộc mảng công nghệ – thông tin chuyển từ analog sang số (thay đổi mô hình). “Hàng loạt các sản phẩm hoàn toàn mới như PDA, máy quét, máy nghe nhạc MP3…” mà trước kia trên thị trường không có.

Hàn Quốc đã khiến cho Mỹ và Châu Âu kinh ngạc khi các thương hiệu như LG đã khuấy động thị trường Anh khi quốc gia này lần đầu được xem truyền hình số, Samsung bước từng bước vững vàng sang thị trường Mỹ và chiếm thị trường cao nhất ở Anh và Mỹ.

Quá trình phát triển của mỗi cá nhân hay quốc gia đều đi từ tầm nhìn, thực thi và không ngừng sáng tạo đổi mới. Công nghệ số của Hàn Quốc từng bước từng bước một chiếm lĩnh thị trường Mỹ, Anh và nhiều quốc gia khác trên thế giới. Chúng ta có thể nói rằng “bước đi” này của Hàn Quốc đã tạo cảm hứng cho các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên, cần phải đi từng bước phù hợp với nguồn lực và tiềm lực của các quốc gia đó.

Tạo tiếng vang từ doanh nghiệp lớn và “tạo con đường riêng” cho doanh nghiệp SMEs

Cơ sở hạ tầng cao đã thay đổi “bộ mặt” của quốc gia từng rất nghèo khó này. Chúng ta thường bảo rằng: bề ngoài không quan trọng, nhưng để “trình diễn” với các quốc gia khác bề ngoài rất quan trọng. Bởi, con người có xu hướng nhìn trực diện vào một vật cụ thể: công trình kiến trúc, công trình công cộng, vật tư – trang thiết bị… Điều này đôi phần thể hiện mức độ phát triển của cá nhân, tổ chức, quốc gia.

Sau khi chú trọng vào xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo tiếng vang với thị trường quốc tế bằng các “ông trùm” doanh nghiệp – tập đoàn tạo nên bước ngoặt mới cho thị trường công nghệ, di chuyển nhà máy sản xuất ra nước ngoài tác động đến thị trường nội địa… thì Hàn Quốc “tạo con đường riêng” cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mô hình chuyển đổi này cụ thể như sau: Từ mô hình doanh nghiệp OEM (nhà sản xuất thiết bị gốc, hình thức hợp đồng gia công) sang mô hình doanh nghiệp ODM (nhà thiết kế sản phẩm gốc, nhóm doanh nghiệp này kết hợp với các doanh nghiệp khách hàng làm tiếp thị, quảng bá sản phẩm), sau đó chuyển sang mô hình OBM (sản xuất theo thương hiệu riêng, mô hình doanh nghiệp này giống với mô hình doanh nghiệp tinh gọn bởi các khâu từ thiết kế, sản xuất, quảng bá, tiếp thị, phân phối và bán hàng).

Các doanh nghiệp theo mô hình OBM gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình phát triển do quy mô nhỏ và không liên kết được với thị trường bên ngoài. Một số doanh nghiệp thành công với “con đường riêng” để lại nhiều dấu ấn với thị trường từ mẫu mã, bản sắc và hướng vào nhu cầu sử dụng sản phẩm của khách hàng. Một số thương hiệu thành công với mô hình này có thể kể tên như: Shimro Musical Instruments, Cuckoo, HJC Helmets, Jusung, SunStar…

Với mô hình này, doanh nghiệp phải đảm nhiệm công việc quảng bá – tiếp thị. Người lãnh đạo và chủ doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược tiếp thị từ nguồn lực hạn chế của công ty bởi doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mô nhỏ. Thị trường cũng vì thế trở nên đặc biệt. Đối tượng khách hàng cần được xác định rõ ràng ngay từ đầu và sản xuất sản phẩm phù hợp với nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của nhóm đối tượng đó. Tính cá nhân hóa hay rộng hơn là tính đặc trưng của thương hiệu được đề cao. Bởi, sản phẩm được tạo ra gắn liền với bản sắc của doanh nghiệp vừa và nhỏ đó.

Tóm lại, hành trình hơn nửa thế kỷ phát triển của Hàn Quốc mang đến cho các nước đang phát triển rất nhiều bài học về chiến lược phát triển kinh tế, chiến lược phát triển công nghệ và con người. Nền công nghiệp trỗi dậy đã đẩy nền kinh tế của quốc gia này phát triển vượt bậc còn phụ thuộc vào yếu tố con người. Những người lãnh đạo “dám nghĩ dám làm” và đội ngũ lao động được đào tạo chuyên nghiệp cần đề cập đầu tiên.

Bên cạnh đó, Hàn Quốc cũng là quốc gia mà người dân gặp nhiều vấn đề về “sức khoẻ tinh thần” do áp lực công việc, tốc độ đào thải và áp mình vào khuôn mẫu của xã hội. Tuy nhiên, nền kinh tế nào phát triển cũng gắn liền với những bất cập nhưng “kỳ tích sông Hàn” vẫn là niềm tự hào của người dân “xứ sở Kim Chi”.

6 trích dẫn tâm đắc

Xung đột quốc tế về quyền sáng chế đã trở thành một vấn đề nổi cộm của Hàn Quốc vào đầu những năm 1980.

Đồng won của Hàn Quốc đã trải qua sự biến động quá mức, thậm chí trong khoảng thời gian gần đây.

Cơ hội công nghệ số là rất lớn vì nó được đặc trưng bởi những đổi mới sáng tạo liên tục.

Cho đến nay, các chính sách “nội địa hoá” đã theo đuổi việc mở rộng số lượng trong một thời gian ngắn và thành công trong việc thay thế một số sản phẩm nhập khẩu trước đây sử dụng công nghệ thấp hoặc trung bình dễ bắt kịp trong một thời gian ngắn.

Samsung đã chiếm thị phần lớn nhất trên thị trường điện thoại di động (25,2%) thế giới.

Với quy mô hạn chế, các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các nước đang phát triển và các nước phát triển có một số đặc điểm chung, như tính linh hoạt và chuyên môn hoá sâu.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Zing News

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Zing News mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

G20 Indonesia

Nguồn: https://zingnews.vn/dieu-gi-da-khien-xu-so-kim-chi-thay-da-doi-thit-post1440128.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng