Connect with us

Sách hay

Các vua Nguyễn giải quyết ngập lụt ở đồng bằng Bắc Bộ ra sao?

Được phát hành

,

Là vùng đất thấp được bồi đắp bởi phù sa sông Hồng, đồng bằng Bắc Bộ xưa hay xảy ra lụt lội. Để trị thủy khu vực này, các vua Nguyễn đều quan tâm đến việc đắp, tu bổ đê điều.

Phong chong ngap lut anh 1

Trận lụt lịch sử năm 1926. Ảnh đoạn đê bảo vệ phía thượng lưu Hà Nội từ phía Chèm về (chụp từ trên cao), rút trong tập Đê Bắc kỳ do Nha Nông nghiệp Đông dương ấn hành năm 1931. Bản số hóa tại thư viện QG Pháp.

Dưới triều Nguyễn, Bắc Thành (1) nhiều lần bị lũ lụt nhấn chìm trong biển nước. Trước tình hình đó, các vua nhà Nguyễn rất đau xót, tìm nguyên nhân, đưa ra các biện pháp để trị thủy như: đắp đê, đặt ra cơ quan, chức quan chuyên quản việc đê điều, ban bố các điều lệ về đê chính…

Phát triển hệ thống đê điều, ứng phó kịp thời với mưa lũ

Theo chính sử Đại Nam thực lục, Vua Gia Long khi vừa mới lên ngôi đã lo đến việc tu bổ các đê cũ và đắp thêm các đê mới. Năm Gia Long thứ 2 (1803), vua cho đắp đê Nhị Hà và 7 đoạn khác ở Bắc Bộ. Năm Gia Long thứ 8 (1809), vua cho đắp đê ở Sơn Nam (vùng Kim Động và Gia Lâm) hết khoảng 87.000 quan tiền.

Cũng trong năm này, vua lại cho đặt ra chức Bắc Thành đê chánh và các chức Tổng lý, Tham lý đê chánh để lo vấn đề đê điều, gồm tu bổ đê cũ, đắp thêm đê mới ở các trấn xứ Bắc Kỳ.

Advertisement

Vua cũng định lệ tháng 10 hàng năm các quan phủ huyện trấn phải lần lượt đến khám đê và quan đê chánh khám lại để chuẩn bị cho mùa lũ. Những đê nào cần phải sửa thì phải xét xem mức độ lớn hay nhỏ rồi mới trình lên, tổ chức tu sửa và có kiểm tra nghiệm thu.

Đến thời vua Minh Mạng, công việc đê điều trị thủy tiếp tục được đẩy mạnh. Năm Minh Mạng thứ 8 (1828), theo đề nghị của các quan, vua cho tăng cường thêm nhân sự cho Nha môn Đê chánh. Tuy nhiên, năm Minh Mạng thứ 13 (1833) vua lại cho bãi bỏ Nha này và chuyển việc đê điều sang cho các Đốc biện ở các tỉnh.

Theo sách Đại Nam Hội điển sự lệ, nhờ vua Minh Mạng quan tâm việc đê điều, nên hệ thống đê tại miền Bắc ngày càng phát triển. Năm 1833, chiều dài hệ thống đê đo được 333.616 trượng (khoảng 1.300 km, so với năm 1809 là 906 km).

Bên cạnh việc phát triển hệ thống đê điều, vua Minh Mạng còn quan tâm tới việc ứng phó kịp thời với mưa lũ. Ông yêu cầu các quan lại địa phương phải nhanh chóng huy động sức người kịp thời khi xảy ra mưa lớn, vỡ đê, ngập lụt.

Theo Châu bản triều Nguyễn tập 33, tờ 18-19 (công bố trong sách Châu bản triều Nguyễn về Hà Nội do tiến sĩ Đào Thị Diến chủ biên), tháng 9 năm Minh Mạng 10, ngay khi nghe tin báo nước lũ dâng cao ở Bắc Thành, Phó tổng trấn Bắc Thành là Phan Văn Thúy đã phái ngay Thống quản Thập cơ Tiền quân Đặng Hữu Chất đem 500 quân ở các quân đến đê Kim Quan (Thạch Thất).

Advertisement

Đồng thời sức gấp cho các trấn thần Sơn Nam, Sơn Tây, Bắc Ninh sức cho các viên ở các phủ huyện sở tại đem quân dân cấp tốc đến các chỗ đê xung yếu dốc sức phòng hộ. Lại lần lượt phái Thống quản Tả quân Trần Văn Lộc, đem 500 quân đến các đoạn đê cũ và mới tại các xã thuộc huyện Từ Liêm trấn Sơn Tây. Lại phái Vệ uý Đinh Mậu Phong đem gấp 300 quân đến các đê điều ở các xã thuộc huyện Thanh Oai. Hết thảy gắng sức kè giữ các đoạn đê xung yếu để khỏi lo ngại.

Phong chong ngap lut anh 2

Trận lụt lịch sử năm 1926. Ảnh biển nước đe dọa Hà nội mùa lũ năm 1926.

Thưởng phạt phân minh

Cùng những chính sách quản lý đê, ứng phó với mưa lũ, vua Minh Mạng còn có những chính sách xử phạt phân minh liên quan đến việc tu sửa đắp đê phòng lũ.

Theo sách Đại Nam hội điển sự lệ, năm Minh Mạng thứ 9 (1829), do không hoàn thành đúng hạn việc đắp đê ở xã Đa Hòa (Khoái Châu, Hưng Yên), lại thêm việc sửa chữa đê Kim Quan sai quy thức, hụt 6-7 thước, vua đã giáng chuyên biện Lê Đại Cương 3 cấp, tham biện Nguyễn Văn Khoa, bang biện Hoàng Quỳnh và Lê Thuận Tỉnh đều giáng 2 cấp cho lưu dung; các viên trấn, phủ, huyện, thừa biện giáng 1 cấp cho lưu dung.

Cũng theo Đại Nam hội điển sự lệ, năm Minh Mạng thứ 10 (1830), thấy biền binh làm việc đê Kim Quan ngày đêm sửa đắp khó nhọc, vua ra lệnh thưởng cho suất đội làm việc 1 tháng tiền lương, còn biền bình mỗi tên được thưởng 1 quan tiền.

Không chỉ quan tâm đến việc bảo vệ và phòng vệ đê, vua Minh Mạng còn rất quan tâm đến cuộc sống của nhân dân vùng đê bị lũ. Trong một số Châu bản công bố trong sách Châu bản triều Nguyễn về Hà Nội, vua đã yêu cầu quan lại địa phương kiểm tra, quan tâm đến đời sống của nhân dân bị trong vùng bị ảnh hưởng bởi lũ lụt và đê điều bị vỡ, chẩn cấp giải quyết những nhu yếu phẩm cần thiết cho nhân dân, mọi việc liên quan đều phải báo cáo vua rõ ràng, cặn kẽ.

Advertisement

Chẳng hạn như Châu bản triều Minh Mạng, tập 43, tờ 120-121 cho biết năm Minh Mạng thứ 10 (1830), đê huyện Thượng Phúc (Thanh Trì) bị vỡ, vua yêu cầu quan lại địa phương “đến đoạn đê ấy xem xét thế nước, tính toán phái binh dân gắng sức bồi đắp và đem tình hình nhân dân, súc vật, mùa màng thiệt hại ra sao tâu báo để Trẫm biết”.

Hay Châu bản triều Minh Mạng, tập 57, tờ 215 cho biết năm Minh Mạng 18 (1837) khi đê Sơn Tây bị vỡ, vua yêu cầu cắt cử Thị vệ kiểm tra, trong đó nêu rõ: “Trừ việc phát hồng bản sẽ dùng ngựa phi báo riêng, nay phụng chọn cử một viên Thị vệ theo trạm dịch đến tỉnh ấy khám nghiệm đích xác nơi đê vỡ. Trước mắt giải quyết công việc ra sao? Ruộng vườn, nhà cửa của dân có tránh khỏi ngập lụt hay không và việc chẩn cấp như thế nào, cốt sao nắm bắt cặn kẽ để phúc trình”.

Phong chong ngap lut anh 3

Trận lụt lịch sử năm 1926. Ảnh đoạn đê phía hạ lưu Hà Nội.

Trưng cầu ý kiến về việc phòng đê ở Bắc Kỳ

Dưới thời vua Tự Đức, việc đắp đê và khám xét đê được triều đình quy định một cách tỉ mỉ; Việc thưởng phạt về phòng hộ đê và phân định trách nhiệm của các phủ huyện, tổng, lý sở tại các nơi đê vỡ cũng được xác định lại.

Vấn đề ngập lụt được giải quyết bằng cách thực hiện quân bình của thủy chế, lịch triều, ngoài việc đắp đê, cũng chủ trương đào sông để nối liền các hệ thống sông lớn với nhau. Công việc này được giao phó cho các quan địa phương, với nhân công được cung cấp bởi dân chúng các miền.

Mặc dù, triều Nguyễn rất quan tâm tới việc đắp và bảo vệ đê điều nhưng việc này vẫn không được giải quyết triệt để như mong đợi.

Advertisement

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Anh (sách Kinh tế và Xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn), các đê không được đắp vững vàng, thành cứ vỡ luôn; nhất là con sông Nhị (sông Hồng), vì đất bồi nên lòng sông giữa hai con đê cao hơn mực đất, mỗi khi nước lớn, đê không tài nào chống lại sức nước được. Trước tình hình này, triều đình đã phân vân trong 3 cách: Giữ đê, phá đê và đào thêm sông.

Ngay từ thời Minh Mạng, nhà vua đã nhiều lần lấy ý kiến quần thần về việc này, khi thì hỏi quan địa phương, lúc lại hỏi đình thần nhưng người thì bàn phá đê, người lại chủ trương đào sông mới, ý kiến bất đồng quá nhiều tới nỗi thời 2 vua Thiệu Trị và Tự Đức phải treo bảng khắp nơi để trưng cầu dân ý.

Năm 1852, vua Tự Đức lại tiếp tục mở cuộc trưng cầu ý kiến về việc phòng đê ở Bắc Kỳ, các ý kiến lại một lần nữa chia thành 2 phái: Giữ đê và bỏ đê. Nhóm chủ trương cứ đắp đê các sông lớn, bỏ đê sông con và sông nhỏ có Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Soạn, Nguyễn Văn Tĩnh, Nguyễn Cẩm, Bạch Tự Cường… Nhóm chủ trương giữ đê có Đặng Văn Hòa, Trương Văn Uyển, Ngụy Khắc Tuần, Nguyễn Khắc Hoan, Nguyễn Văn Siêu, Bùi Quỹ…

Đến năm 1872, các tỉnh Bắc Kỳ đều điều trần về việc đê điều nhưng vẫn tiếp tục có ý kiến khác nhau. Những bài điều trần này đã được đóng thành từng tập dày như Đê chính tập hay Đê chính tân luận. Song vì sở kiến bất đồng kéo dài nên triều đình vẫn phải giữ đê mà đê vẫn tiếp tục vỡ.

Riêng dưới triều Tự Đức, hai huyện Văn Giang và Tiên Lữ thuộc Phủ Khoái Châu (Hưng Yên) 18 năm liền đê bị vỡ và ngập lụt, đến nỗi dân đói khát phải bỏ làng mà đi kiếm ăn nơi khác, ruộng bỏ hoang, sậy mọc cao như rừng.

Advertisement

————————-

1. Bắc Thành là một đơn vị hành chính cấp cao do vua Gia Long đặt ra năm 1802. Đơn vị này quản lý 11 trấn (tương đương cấp tỉnh ngày nay), tính từ khu vực Ninh Bình trở lên phía Bắc. Đến năm 1831, vua Minh Mạng bãi bỏ đơn vị này.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Advertisement

Nguồn: https://znews.vn/cac-vua-nguyen-giai-quyet-ngap-lut-o-dong-bang-bac-bo-ra-sao-post1497287.html

Sách hay

Tuổi trẻ của bà Bích Hà và tướng Giáp qua hồi ức người bạn

Được phát hành

,

Bởi

Trong thời gian ở Việt Bắc, bà Đặng Bích Hà luôn ở cạnh Tướng Giáp. Bà trở thành người sắp xếp tài liệu, truyền đạt ý kiến, đồng thời chăm lo bữa ăn, giấc ngủ cho ông.

Tướng Giáp và vợ, bà Đặng Bích Hà. Ảnh: TL.

Nhà văn Nguyệt Tú là con gái đầu của danh họa Nguyễn Phan Chánh – người khởi xướng cho nghệ thuật tranh lụa Việt Nam, và là phu nhân của cố Chủ tịch Quốc hội – Trung tướng Lê Quang Đạo.

Trong tập hồi ức Đi và Nhớ, bà đã kể những câu chuyện về cuộc đời mình với những người thân yêu ruột thịt và những người anh em đồng chí thân thiết cùng thời, trong đó có chuyện tình bạn giữa bà và bà Đặng Bích Hà – phu nhân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Những ngày khẩn trương sau đám cưới

Nguyệt Tú quen thân với bà Đặng Thị Bích Hà từ năm 1946. Lúc đó, bà công tác ở ban nữ Thanh niên thành Hoàng Diệu còn bà Hà phụ trách thiếu nhi Ấu trĩ viên.

Advertisement

Ngày toàn quốc kháng chiến, cả hai bà đều phải rút ra ngoại thành. Sau thời gian ngắn làm công tác cơ yếu, Nguyệt Tú xin chuyển công tác. Trong lúc chờ công tác mới, bà đến ở nhà bà Hà ít hôm.

Nguyệt Tú kể, một buổi tối, bà đang nằm đọc sách trên ghế dài phòng ngoài bỗng nghe tiếng mở cửa. Bà nằm yên vờ ngủ và đoán đó là anh Văn (tên thân mật của Đại tướng Võ Nguyên Giáp) ghé thăm Bích Hà.

Sáng hôm sau Tướng Giáp đi sớm. Ấn tượng đầu tiên của Nguyệt Tú về ông rất sâu sắc. Thấy bà đã dậy ông cười tươi chào và bắt tay rất chặt. Sau hôm đó bà Hà có cho Nguyệt Tú xem một bức thư ngắn mà Tướng Giáp gửi cho bà phía dưới có câu: “Cho anh hỏi thăm Nguyệt Tú bạn của Hà”.

Mãi sau này, Nguyệt Tú mới biết là hai người mới cưới được mấy hôm, Tướng Giáp chỉ tranh thủ ghé thăm Bích Hà một tối rồi lại phải đi ngay, vì công việc kháng chiến đang rất khẩn trương.

Sau ngày ấy, Nguyệt Tú về công tác ở Đội Tuyên truyền xung phong của Việt Minh. Trong một lần về Quốc Oai tuyển các cháu thiếu nhi trong đội Văn nghệ, bà lại có dịp gặp lại vợ chồng Tướng Giáp.

Advertisement

Vào thời điểm này Trung đoàn Thủ đô đã rút ra ngoài, các cơ quan trung ương cũng chuyển dần lên Việt Bắc nhưng Bộ Tổng chỉ huy quân sự vẫn còn ở Quốc Oai.

Tướng Giáp lúc đó đang ngồi ở bàn lúi húi viết, nhưng khi thấy có bạn của Bích Hà đến, ông ngừng viết, ngẩng đầu cười tươi bắt tay Nguyệt Tú, rồi để hai người nói chuyện. Lúc này Nguyệt Tú vẫn còn mang chiếc áo dài vân đen của cô cán bộ nữ thanh niên Hà Nội…

Chia tay hai vợ chồng Tướng Giáp về cơ quan, tối hôm đó, Nguyệt Tú cứ nghĩ mãi không biết Bích Hà và Tướng Giáp cùng các cơ quan Trung ương sẽ đi lên đường nào lên Việt Bắc.

Dang Bich Ha anh 1

Khoảnh khắc bình dị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và phu nhân Đặng Bích Hà. Ảnh: Trần Hồng.

Người trợ lý đắc lực

Thế rồi, Nguyệt Tú cũng lên Việt Bắc, và rồi một ngày bà được một đồng chí liên lạc đưa đến gặp bà Bích Hà. Lúc này, Tướng Giáp và Bích Hà đang ở trong nhà dân, tường gạch, mái lá thoáng đãng bên kia sông Đà trên đất Lâm Thao (Phú Thọ).

Thấy Nguyệt Tú bước vào với ba lô trên lưng, Bích Hà đã hỏi ngay: “Tuệ ăn gì chưa? Đợi chút nhé!”. Bích Hà lấy hai quả trứng gà trong chiếc rổ bên cạnh, rồi lấy cốc nước sôi bỏ hai quả trứng vào. Nguyệt Tú biết đây cũng là món ăn bồi dưỡng duy nhất của Tướng Giáp những ngày đầu kháng chiến.

Advertisement

Cũng theo lời kể của nhà văn Nguyệt Tú, để đảm bảo bí mật, lúc này các cơ quan Bộ Tổng tham mưu đều phân tán vào ở nhà dân. Bích Hà luôn ở cạnh Tướng Giáp. Bà trở thành người sắp xếp tài liệu, truyền đạt ý kiến, đồng thời chăm lo bữa ăn giấc ngủ cho chồng. Thường thì Tướng Giáp làm việc rất khuya, có khi suốt đêm. Ít khi Bích Hà được ngủ trước.

Một lần, từ cơ quan Phụ nữ Trung ương ở chiến khu Việt Bắc, Nguyệt Tú đến chơi với Bích Hà và ở lại một tối. Thấy Tướng Giáp làm việc quá nửa đêm chưa nghỉ, Nguyệt Tú nói: “Hà nhắc anh nghỉ sớm hơn để làm việc lâu dài”. Bích Hà nói: “Hôm nào anh cũng thức khuya thế đấy Tuệ ạ”.

Theo nhà văn Nguyệt Tú, bà Bích Hà rất lo cho sức khỏe của chồng, nhưng bà chỉ biết cùng thức với ông, không dám giục, vì công việc đòi hỏi ông tranh thủ từng giây, từng phút.

Đồng chí Trường Chinh (tên gọi thân mật anh Nhân) nhiều hôm đến làm việc với Tướng Giáp đến quá nửa đêm. Khi ra về, nhìn thấy Nguyệt Tú và Bích Hà vẫn ngồi đọc tài liệu và thủ thỉ nói chuyện, thì ông bắt tay họ với nụ cười: “Hai cô gặp nhau tha hồ ríu rít, ríu rít nhé”.

Sau khi ông Trường Chinh về, Nguyệt Tú và Bích Hà lại tiếp tục mải mê với đống tài liệu tin tức chiến sự và các chỉ thị của Tướng Giáp. Và bà đọc được một tài liệu viết về việc địch sẽ nhảy dù xuống hậu phương. Chúng không bắn đạn thật khi đã thả dù. Chính nhờ đọc được tài liệu này mà sau này Nguyệt Tú đã thoát chết khỏi trận nhảy dù ngày 10/8/1948 của quân Pháp ở Vân Đình.

Advertisement

Một mình vượt cạn

Cũng theo lời kể của Nguyệt Tú, mặc dù cùng ở chiến khu Việt Bắc, cùng ở trong quân đội, bà Bích Hà sống trong khu lán của Bộ tổng Tham mưu, còn bà lại sống trong khu lán của Tổng cục Chính trị, hai khu lán khá xa nhau.

Trong thời gian Tướng Giáp và ông Lê Quang Đạo cùng đi chiến dịch Hoà Bình, nghe tin Bích Hà vừa sinh cháu gái đầu lòng, Nguyệt Tú vội sang thăm bạn. Lúc này, bà đang mang thai con trai thứ hai, phải lội qua mấy con suối và nhiều đường rừng quanh co mới đến lán Bích Hà ở nên cũng vất vả.

Vừa vào lán nhìn thấy Bích Hà và cháu nhỏ đỏ hỏn nằm bên cạnh, Nguyệt Tú mừng quá vì thấy Bích Hà khoẻ, “mẹ tròn con vuông”, dù phải vượt cạn một mình.

Nhà văn Nguyệt Tú cũng cho biết, trong kháng chiến, bộ phận quân y không phải lúc nào cũng ở gần, thức ăn dành cho bà đẻ và bé sơ sinh thiếu thốn. Giống như chỗ Nguyệt Tú ở, chiếc lán của Bích Hà dưới những tán lá ẩm thấp, nhiều khi nền nhà còn ướt sũng nước…

Sau Tướng Giáp và bà Bích Hà đã đặt tên cho cô con gái đầu lòng này là Võ Hoà Bình. Đấy cũng là tên Chiến dịch Hòa Bình. Dưới sự chỉ huy tài tình của Tướng Giáp, Chiến dịch thắng lợi, ta đã làm thất bại âm mưu giành lại quyền chủ động chiến lược và chia cắt chiến trường Bắc Bộ của Pháp.

Advertisement

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tuoi-tre-cua-ba-bich-ha-va-tuong-giap-qua-hoi-uc-nguoi-ban-post1498488.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Hình ảnh gia đình đại trí thức của phu nhân tướng Giáp

Được phát hành

,

Bởi

PGS Đặng Bích Hà, phu nhân Đại tướng Võ Nguyên Giáp, sinh trưởng trong một gia đình đại trí thức, có bố là GS Đặng Thai Mai và các em đều là GS, PGS.

Dang Bich Ha anh 1

GS Đặng Thai Mai cùng vợ và các con. Từ trái sang: PGS.TS văn học Đặng Thị Hạnh, PGS.TS sử học Đặng Bích Hà, PGS.TS Đặng Thai Hoàng, PGS.TS sinh học Đặng Xuyến Như, GS.TS văn học Đặng Thanh Lê, PGS.TS văn học Đặng Anh Đào. Ảnh chụp tại Hà Nội năm 1962. Nguồn ảnh: Sách Cô bé nhìn mưa.

Dang Bich Ha anh 2

Giáo sư Đặng Thai Mai (1902-1984) là nhà giáo, nhà văn, nhà phê bình văn học. Ông từng giữ các chức vụ quan trọng như Bộ trưởng Giáo dục, Viện trưởng đầu tiên của Viện Văn học Việt Nam… Ông am hiểu văn học cổ điển Pháp, văn học hiện đại Trung Quốc, văn học cận đại Việt Nam. Ông là một trong những học giả lớn của đất nước, có nhiều công trình nghiên cứu văn học Việt Nam và văn học thế giới. Hầu hết giáo sư văn học của đất nước trong hơn nửa thế kỷ qua đều là học trò của GS Đặng Thai Mai.

Dang Bich Ha anh 3

Bốn chị em gái nhà bà Đặng Bích Hà đều lấy chồng là trí thức, quân nhân có cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Từ trái qua: bà Đặng Bích Hà – vợ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bà Đặng Thị Hạnh – vợ Trung tướng Phạm Hồng Cư, bà Đặng Thanh Lê – vợ PGS Nguyễn Văn Hoàn, và bà Đặng Anh Đào – vợ Trung tướng Phạm Hồng Sơn. Nguồn ảnh: Sách Cô bé nhìn mưa.

Dang Bich Ha anh 4

GS Đặng Thai Mai và con rể cả là Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở số 30 Nguyễn Huy Tự, Hà Nội. Hai người vốn là bạn vong niên nên Đại tướng đã biết bà Đặng Bích Hà – con gái đầu lòng của GS Đặng Thai Mai từ khi bà còn là một cô bé. Người vợ đầu của Đại tướng – liệt sĩ Nguyễn Thị Quang Thái cũng rất thân thiết với gia đình bà Đặng Bích Hà. Ảnh được chụp vào năm 1980. Nguồn ảnh: Sách Cô bé nhìn mưa.

Dang Bich Ha anh 5

Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng vợ là bà Đặng Bích Hà. Năm 1945, khi hai người gặp lại nhau, Võ Nguyên Giáp vừa trải qua mất mát lớn, khi biết tin người vợ đầu Nguyễn Thị Quang Thái đã bị bắt và mất trong nhà tù Hỏa Lò từ đầu năm 1944. Từ sự kính phục và ngưỡng mộ, Bích Hà lại càng muốn được cùng ông chia sẻ mọi gian khó trên đường đời. Cuối năm 1946, gia đình GS Đặng Thai Mai đồng ý tổ chức lễ cưới cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp và con gái cả Đặng Bích Hà. Đám cưới của hai người được tổ chức rất giản dị. Ảnh chụp năm 1958 tại số 30 Hoàng Diệu, Hà Nội. Nguồn ảnh: Sách Cô bé nhìn mưa.

Dang Bich Ha anh 6

Vợ chồng hai cụ Đặng Thai Mai – Hồ Thị Toan cùng con gái lớn là Đặng Bích Hà. GS Đặng Thai Mai dạy các con đọc sách từ nhỏ. Trong hồi ký Cô bé nhìn mưa, GS Đặng Thị Hạnh kể lại “Căn nhà và sách vở vẫn là nơi trú ẩn ưa thích của tôi” và những kỷ niệm cùng người chị cả Đặng Bích Hà rong ruổi khắp hiệu sách. Ảnh chụp tại Huế năm 1930. Nguồn ảnh: Sách Cô bé nhìn mưa.

Dang Bich Ha anh 7

Ảnh chụp các chị em cùng các cháu của bà Đặng Bích Hà tại Hà Nội, ngày 25/8/2007 nhân dịp sinh nhật lần thứ 96 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (ngồi giữa, hàng đầu). Nguồn ảnh: Sách Cô bé nhìn mưa.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Advertisement

Nguồn: https://znews.vn/hinh-anh-gia-dinh-dai-tri-thuc-cua-phu-nhan-tuong-giap-post1498455.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tâm lý học Bất thường

Được phát hành

,

Bởi

Đặt ra câu hỏi “Thế nào là bất thường?”, tập sách này trình bày cho độc giả thấy số lượng và các dạng bất thường nào bị coi là rối loạn tâm thần đã thay đổi theo thời gian như thế nào, đi sâu phân tích một số dạng rối loạn tâm lý và nguyên nhân gây ra. Sách cũng nhắc đến các vấn đề xã hội có mối liên quan đến những bất thường tâm lý này, và cách xã hội đối xử với người có bệnh tâm lý tâm thần.

Nhiều rối loạn như rối loạn trầm cảm, chứng sợ không gian rộng (agoraphobia), sợ xã hội, rối loạn ăn uống và rối loạn nhân cách, đã được chẩn đoán là phổ biến hơn rất nhiều ở nữ so với nam.

Tỷ lệ nữ trên nam được chẩn đoán mắc các rối loạn này là từ 2:1 đến 9:1.

Theo nhiều nhà nghiên cứu, khác biệt giới tính trong chẩn đoán là do định nghĩa rối loạn có thành kiến đối với nữ. Họ tin rằng, do DSM (Cẩm nang Chẩn đoán và thống kê (Diagnostic and Statistical Manual)) được phát triển chủ yếu bởi các nhà tâm lý nam, nó thiết lập các tiêu chí chẩn đoán trong đó lấy chức năng tâm lý của nam giới trưởng thành làm tiêu chuẩn cho sức khỏe tâm thần, gây ra những rối loạn chức năng trong tâm lý ở phụ nữ bình thường.

Advertisement
Phu nu anh 1

Ảnh minh họa. Nguồn: KoolShooters/Pexels.

Một rối loạn gây tranh cãi ở nữ từng được xem xét để đưa vào DSM là rối loạn tâm thần tiền kinh nguyệt (premenstrual dysphoric disorder), khi phụ nữ cảm thấy buồn bã hay trầm cảm trước kỳ kinh nguyệt hàng tháng. Nhiều phụ nữ cảm thấy rối loạn này là một ví dụ của việc bị nam giới trỏ ngón tay vào mình và gọi mình là “bất thường”.

Các chỉ trích liên quan đến rối loạn nhân cách cho rằng DSM đã kỳ thị nữ giới. Ví dụ, định nghĩa về “rối loạn nhân cách phụ thuộc” (dependent personality disorder) có chứa những đặc điểm phản ánh việc cường điệu vai trò của nữ như cố “quá mức để nhận sự dung dưỡng và hỗ trợ của người khác, thậm chí còn tự nguyện làm những việc mà mình không ưa thích” (DSM-IV, trang 668). Một số người còn lập luận rằng, theo truyền thống, phụ nữ được xã hội dạy dỗ để đề cao sự hậu thuẫn của xã hội và hầu như làm mọi việc cho người khác.

Một tiêu chí khác – “gặp khó trong việc bày tỏ bất đồng với người khác do sợ mất hậu thuẫn hay mất sự tán thưởng” (DSM-IV, trang 668) – cũng là một vấn đề tiêu biểu ở nữ giới do nhiều phụ nữ được giáo dục để tin rằng việc nêu ý kiến của mình có thể gây ấn tượng tiêu cực hoặc dẫn đến việc bị người khác bác bỏ. Mặt khác, Carol Tavris lập luận rằng nếu vai trò của nữ giới được sử dụng như một tiêu chuẩn để so sánh, nam giới sẽ hình thành những nhóm tự-giúp (self-help) để học cách trở nên hơn chăm sóc hơn, độc lập hơn, và đáp ứng hơn các nhu cầu của người khác.

Để cung cấp một ví dụ về cách mà thiên kiến giới tính có thể ảnh hưởng đến định nghĩa về rối loạn tâm lý, năm 1988, hai nhà tâm lý người Canada Paula Caplan và Margrit Eichler đã đề xuất cái gọi là “rối loạn nhân cách nam tính” (macho personality disorder). Rối loạn này đã được đề xuất đưa vào DSM với tiêu chí như “không thể nhận ra và biểu lộ cảm xúc”, “không thể biết người khác cảm giác như thế nào”, và “có nhu cầu khẳng định tầm quan trọng của việc xuất hiện bên cạnh những người nữ ngoan ngoãn và hấp dẫn theo quy chuẩn phổ cập”.

Một giác độ khác về những khác biệt trong chẩn đoán rối loạn ở nam và nữ là nữ thường tìm kiếm sự trợ giúp của các chuyên gia sức khỏe tâm thần nhiều hơn nam. Tuy nhiên, những người khác lại nói rằng nữ được dạy rằng việc tìm kiếm trợ giúp cho các vấn đề tâm lý là điều chấp nhận được, trong khi nam lại được dạy rằng việc tìm kiếm trợ giúp này là không thể chấp nhận vì đó là sự thừa nhận yếu kém.

Advertisement

Ngoài ra, một số người cho rằng nữ đang phải đối mặt thường xuyên hơn (so với nam) rất nhiều trong các vấn đề như kỳ thị giới tính, thiệt thòi về kinh tế, bạo hành, lạm dụng và cưỡng hiếp, cùng với các áp lực xã hội như phải giữ eo, thụ động và khiêm tốn.

Nguồn: https://znews.vn/nu-gioi-co-phai-la-mot-bat-thuong-post1497426.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng