Connect with us

Sách hay

‘Trí tuệ giả tạo – Internet đã làm gì chúng ta’

Được phát hành

,

“Trí tuệ giả tạo – Internet đã làm gì chúng ta” của Nicholas Carr từng được đề cử giải Pulitzer. Sau khi đọc cuốn sách, tôi cũng muốn được đề cử đến bạn thông qua bài review.

Tri tue gia tao anh 1

Là một người đã và đang nhận được nhiều ích lợi từ Internet, tôi không tẩy chay Internet và các thiết bị công nghệ một cách cực đoan. Internet giúp đỡ tôi nhiều trong công việc và hoạt động giải trí. Nếu không có Internet, chưa chắc có blog để tôi thỏa niềm đam mê viết lách (vì nếu viết tay, chữ tôi rất khó đọc) và cũng không có những trò chơi trực tuyến, mạng xã hội để tôi chia sẻ, thư giãn cùng bạn bè.

Nhưng một vấn đề luôn có nhiều chiều cạnh, không nên vì lợi ích lớn lao mà Internet mang lại mà chúng ta có quyền quên đi tổn thất không hề nhỏ bé nó gây ra. Vì sao ngày nay năng lực tập trung của con người bị suy yếu? Vì sao tư duy và hành động của chúng ta lại thiếu chiều sâu? Vì sao việc đọc sách đang dần trở nên xa xỉ trong đời sống? Vì sao ngày nay số lượng thường được quan tâm hơn chất lượng?

Câu trả lời là: Internet đã thay đổi nhận thức và cách nhận thức của con người.

Triết gia về lý thuyết truyền thông McLuhan thừa nhận rằng ông không phải người đầu tiên quan sát thấy hiệu ứng gây tê liệt của công nghệ. Đó là một ý tưởng cổ xưa, có lẽ được thể hiện một cách hùng hồn và đáng ngại nhất ở cuốn Kinh Cựu Ước. […]

Cái giá chúng ta phải trả khi thừa nhận sức mạnh của công nghệ là sự tách biệt. Và cái giá đó có thể lên rất cao với các công nghệ trí tuệ. Các công cụ của trí óc tăng cường và làm tê liệt những năng lực tự nhiên mật thiết và mang tính con người nhiều nhất – về lý luận, nhận thức, trí nhớ và cảm xúc (trang 242)

Bộ não đói khát

Đã bao nhiêu lâu rồi bạn chưa có khoảng thời gian thực sự không làm điều gì đó?

Tôi nghĩ nếu không tập thiền hoặc dành thời gian cho một truyền thống tâm linh nào, thì hầu hết chúng ta đều bận rộn và tự làm cho mình bận rộn. Chúng ta bận rộn với vai trò của một công dân trong xã hội và tự làm mình bận rộn với vai trò của một công dân số trên mạng Internet.

Điều này có nghĩa, chúng ta luôn ở trong trạng thái làm gì đó hoặc được kích thích để làm điều gì đó. Những “cú hích” nhan nhản đã tạo nên vô vàn “cú click” miên man. Bộ não của chúng ta đã được cho uống nước biển để giải khát- càng giải lại càng khát.

Nhưng tôi nhận ra bộ não mình không chỉ sao lãng. Nó đang đói. Nói đòi hỏi được cho ăn theo cách Internet cho nó ăn – và càng được cho ăn, nó càng trở nên đói hơn. Dù tôi ở cách xa chiếc máy tính của mình, tôi vẫn nóng lòng được kiểm tra hòm thư, nhấn các đường liên kết, và vào Google tìm gì đó. Tôi muốn được kết nối. (Trang 25).

Khi bộ não phải chứa đựng nhiều thứ hơn và bận rộn hơn, nó sẽ mất đi sự sáng suốt ban đầu. Các khớp nối thần kinh cũng bị biến đổi để phục vụ cho các thao tác tư duy tương thích với công cụ mà nó sử dụng. Nếu chúng ta cho rằng máy móc thông minh rồi suy ra một người tư duy máy móc là người thông minh, thì rõ ràng đó không phải là trí thông minh thực sự.

Điều này cũng giống việc chúng ta coi Internet là biển thông tin mênh mông sẵn có mọi thứ trên đời. Ngụp lặn trong mớ thông tin bị cắt xén bởi con dao sắc bén tên Google mỗi lần ta gõ vào thanh công cụ tìm kiếm sẽ giúp ta biến mớ thông tin ấy thành sự thông thái của bản thân. Bộ não của chúng ta không còn khả năng tập trung nữa. Đó là lúc, nó cần Internet hơn bao giờ hết vì tự thân mình, nó không còn khả năng suy nghĩ độc lập.

Bạn hãy hình dung về việc bộ não đói khát đó nằm trong một con người và con người này sẽ không thể tự ra quyết định. Bạn nghĩ đến điều gì? Tôi hình dung ra một chú rô-bốt.

Tri tue gia tao anh 2

Sách Trí tuệ giả tạo – Internet đã làm gì chúng ta. Ảnh: NXB Trẻ.

Sứ mệnh phân tán và đa nhiệm

Internet giúp con người ở mọi nơi và làm nhiều việc cùng lúc. Nhưng cũng vì ở tất cả mọi nơi nên họ chẳng ở nơi nào, cũng như cùng lúc làm nhiều việc thì chẳng việc nào thực sự có ý nghĩa với họ.

Đây chính là sứ mệnh phân tán và đa nhiệm của Internet. Có lẽ, Internet đã “cứu” con người khỏi những giờ phút đọc sách lê thê buồn chán hay lặng lẽ trầm tư.

Nhà phê bình văn học George Steiner viết năm 1997: “Tĩnh lặng, nghệ thuật của sự tập trung và ghi nhớ, những thứ xa xỉ về thời gian là nền tảng của “việc đọc có hiệu quả” nhưng phần lớn đã bị loại bỏ”. Và ông tiếp tục: “Nhưng sự xói mòn này gần như vô nghĩa so với một thế giới điện tử mới” (trang 131).

Thoát khỏi hình ảnh đen trắng của thế kỷ 20, những hình ảnh sống động ngày nay hiện lên trong mắt bạn và tôi: thứ thường trực trên tay công dân thế kỷ 21 là điện thoại, máy tính bảng, con chuột máy tính để bàn hoặc điều khiển vô tuyến thông minh.

Những bản tin dài, được cắt xé, chế biến sao cho ngắn nhất, còn văn bản dài thì sẽ được đọc kiểu “cuộn lướt” rất nhanh. Quá trình đọc trực tuyến này còn bị gây nhiễu bởi các đường liên kết, các mẩu quảng cáo nhấp nháy và pop-up thình lình xuất hiện. Càng phân tán sự tập trung của người dùng, Internet càng giữ họ trong vòng tay của mình được lâu hơn, đó là lý do nếu đã kẹt trong vòng tay của “người tình” này, bạn sẽ thấy khái niệm thời gian trở nên hư ảo.

Lang thang trên mạng, chúng ta sẽ luôn tìm thấy điều gì đó nhưng lại không phải là điều chúng ta cần, nên chúng ta sẽ lại tiếp tục vòng lặp “tìm – thấy – tìm”. Để dễ hình dung, tác giả Nicholas Carr so sánh thói quen này với hình ảnh chú chuột chạy vòng quanh bánh xe đồ chơi trong phòng thí nghiệm.

Khi người dùng bận rộn, cánh cửa vào vương quốc đa nhiệm đã mở ra chào đón họ. Đây là nơi mà các tổ chức có cơ hội ăn chia với nhau thời gian và sự tập trung của người dùng. Bạn có thể vừa họp online, vừa đặt đồ ăn trực tuyến, vừa lướt mạng xã hội, vừa trả lời email, vừa nghe podcast. Hoạt động này không phải của một siêu nhân, mà có thể chỉ là của một nhân viên văn phòng hết sức bình thường trong thời đại số.

Đa nhiệm không xấu, nó chỉ khiến cho tâm trí của chúng ta nhốn nháo hơn. Khi tâm trí nhốn nháo hơn, tình trạng bắt đầu trở nên xấu đến mức không thể đảo ngược (và người ta thường vô tình quên đi căn nguyên từ những giờ phút lướt mạng để đổ lỗi cho một chứng rối loạn tâm căn nào đó). Trí nhớ ngắn hạn (trí nhớ hiệu dụng) được dùng thường xuyên hơn để lưu trữ các thông tin lẻ tẻ trên Internet, trong khi trí nhớ dài hạn – cái nôi của sự hiểu biết bắt đầu bị suy yếu.

“Khi chúng ta đọc một cuốn sách, chiếc vòi thông tin nhỏ từng giọt đều đều mà chúng ta có thể kiểm soát nhờ tốc độ đọc của mình. Nhờ tập trung duy nhất vào văn bản nên chúng ta có thể chuyển phần lớn thông tin, lần lượt vào trí nhớ dài hạn và thu thập các liên kết cần thiết để tạo ra lược đồ. Với Internet, chúng ta phải đối mặt với nhiều vòi thông tin, tất cả đều đang chảy mạnh. Chúng ta bị quá tải khi vội vàng chuyển từ vòi này sang vòi khác. Chúng ta có thể chuyển một phần nhỏ thông tin sang trí nhớ dài hạn và những gì chúng ta thực sự chuyển chỉ là một mớ lộn xộn những giọt nước từ nhiều vòi khác nhau, không phải một dòng chảy liên tục, mạch lạc từ một nguồn” (trang 147).

Liệu có phải ảnh hưởng từ các nguồn thông tin hỗn loạn đã góp phần khiến cho người dùng lạm dụng Internet bị sa sút trí tuệ hoặc gặp phải các vấn đề về sức khỏe tinh thần?

Giữa 1 và 0

Nếu câu trả lời của máy móc luôn là 1 hoặc 0, thì đâu đó ở giữa là chính bản chất con người. Nhưng tính người đang bị đe dọa khi tư duy theo lối 1 và 0 ấy: Bạo lực nhiều hơn và thiếu lòng trắc ẩn hơn, tham lam hơn và khó khăn khi cảm thấy cho đi hơn.

Công nghệ mang đến ảo tưởng về việc người dùng là ông chủ và là một ông chủ thì có quyền vị kỷ đến mức cực đoan, coi mọi thứ trong tầm với đều là nô lệ của mình. Sự xuống cấp về mặt đạo đức đã giúp thỏa mãn dã tâm: đẩy lùi tính người để tăng tính hiệu quả. Nhân loại vẫn đang phát triển thêm những tên nô lệ hiệu quả hơn, thông minh hơn như trí tuệ nhân tạo (AI). Tôi không nghĩ nô lệ thông minh sẽ mãi cam chịu cho sinh vật tham lam nhưng lại lười biếng tư duy hơn sai khiến chúng.

Weizenbaum tin rằng điều mang tính người nhiều nhất là điều ít có thể tính toán nhất của chúng ta – các kết nối giữa tâm trí và thể xác, những trải nghiệm hình thành nên trí nhớ và tư duy, khả năng cảm nhận đồng cảm. Nguy hiểm mà chúng ta phải đối mặt khi ngày càng thân thiết với máy tính hơn – khi chúng ta trải nghiệm phần lớn cuộc sống thông qua những ký hiệu kỳ quặc xuất hiện trên màn hình – là chúng ta sẽ bắt đầu mất đi tính người của mình, hy sinh những phẩm chất giúp phân biệt con người với máy tính. Theo Weizenbaum, điều duy nhất để tránh khỏi số phận đó là phải có nhận thức và lòng dũng cảm không cho máy tính tham gia vào phần lớn các hoạt động tinh thần và trí tuệ của chúng ta, đặc biệt là “những nhiệm vụ đòi hỏi sự suy xét” (trang 238, 239).

Có lẽ đó cũng là lời giải cho món quà và lời nguyền Internet- tôi nhận xét như vậy vì nhân loại đã rất liều lĩnh khi tạo ra một thứ công cụ đa năng có thể thay đổi tâm trí cực khó bị đảo ngược. Công cụ càng tiến hóa thì năng lực của người sử dụng càng thoái hóa. Tìm đọc trực tiếp tác phẩm sẽ giúp bạn tìm hiểu vấn đề này rõ ràng hơn.

Tôi hứng thú với tựa đề “hiểu biết giả tạo” hoặc “sự nông cạn mà Internet mang lại” hơn là “Trí tuệ giả tạo”. Dù có thể cụm từ “trí tuệ giả tạo” lại tình cờ có mối liên quan nào đó đến trí tuệ nhân tạo. Tôi tự hỏi liệu có phải nhân loại đã thực sự tạo ra được trí tuệ hay đó vẫn chỉ là thói quen đánh giá cao điều bản thân làm ra để nâng tầm “cái tôi”?

Chúng ta vẫn đang sử dụng Internet. Tôi nghĩ sau bài viết này và có thể là nhiều bài viết khác bạn đã đọc và sẽ đọc về bóng tối của Internet thì Internet vẫn tồn tại.

Không hẳn do Internet quá mạnh, mà đôi khi do chúng ta quá mong manh. Chúng ta luôn cần một nơi nào đó để trốn thoát khỏi hiện thực với mong muốn được yêu thương, được chấp nhận và kết nối. Con người sẽ luôn mơ tưởng về một cuộc đời khác đi, vì suy cho cùng đó là cách đơn giản, ít tốn công sức, suy tư hơn so với việc chấp nhận, đối mặt để thích nghi với hiện thực – nơi người ta “hoặc được khen hoặc bị chê nhưng hiếm khi được hiểu”.

Chỉ mong rằng họ đừng quên: Internet không phải là một câu chuyện cổ tích để luôn có ông Bụt, bà Tiên hoặc những chàng Hoàng tử, Công chúa đẹp đẽ mang đến kết thúc có hậu một cách miễn phí.

Như trong vương quốc mà mụ phù thủy tạo ra cho cô bé Coraline, nơi mọi ước mơ của cô đều thành sự thực, đến cuối cùng chỉ là một tấm mạng khổng lồ chờ các cô bé, cậu bé hoặc bất kỳ ai ngây thơ sa lưới.

Tôi vẫn sử dụng Internet và học cách để công cụ này không can thiệp quá sâu vào cuộc đời tôi muốn sống. Tôi không muốn sống trên Internet và càng không muốn Internet cảm nhận hay suy nghĩ thay tôi.

Một ngày nào đó không có Internet, tôi cầu chúc bạn vẫn biết cách sử dụng cuộc sống sao cho thú vị.

Bài viết của độc giả Nguyễn Phú Hoàng Nam, được gửi từ email “hoang…[email protected]”.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho ZNews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. ZNews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tri-tue-gia-tao-internet-da-lam-gi-chung-ta-post1454639.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng