Connect with us

Sách hay

Di sản dân tộc qua 20 bảo vật quốc gia

Được phát hành

,

20 bảo vật tiêu biểu trong ấn phẩm sẽ giúp độc giả hiểu hơn lịch sử, văn hóa lâu đời, truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

sach hay van hoa anh 1

 

Bảo vật quốc gia là những hiện vật có giá trị đặc biệt về văn hóa, lịch sử được Nhà nước Việt Nam bảo vệ và bảo quản theo chế độ riêng biệt.

Với mong muốn tôn vinh, đưa hình ảnh bảo vật đến gần hơn với độc giả, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cộng đồng với công tác bảo vệ, giữ gìn và phát huy di sản. Bảo tàng Lịch sử quốc gia đã biên soạn, phối hợp với Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc phát hành ấn phẩm Bảo vật quốc gia lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.

Cuốn sách giới thiệu 20 bảo vật (tính đến thời điểm xuất bản, quý IV/2021) có niên đại từ hơn 2000 năm trước (thuộc văn hóa Đông Sơn) cho đến thế kỷ XX. Ðây đều là những hiện vật tiêu biểu cho từng giai đoạn lịch sử, là cơ sở để chúng ta nghiên cứu, quảng bá về lịch sử, mỹ thuật, văn hóa dân tộc.

Các bảo vật về cơ bản được phân bố ở 3 giai đoạn lịch sử: Bảo vật thuộc giai đoạn Văn hóa Đông Sơn, Bảo vật thuộc giai đoạn lịch sử Trung đại, Bảo vật giai đoạn lịch sử Cận – Hiện đại.

Bên cạnh những phân tích, đánh giá cụ thể về đặc điểm, nét đặc sắc, độc đáo của từng bảo vật, mỗi trang sách còn là những đại diện tinh hoa được sáng tạo bởi bàn tay và khối óc của biết bao thế hệ ông cha ta gửi gắm. Ấn phẩm sẽ đưa bạn khám phá những câu chuyện sau mỗi bảo vật quý.

Bảo vật thuộc giai đoạn Văn hóa Đông Sơn

Đây là nền văn hóa rực rỡ và nổi tiếng khu vực đương thời, tạo cơ sở vật chất hình thành nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, làm nên văn minh của 3 dòng sông lớn: sông Hồng, sông Mã và sông Cả.

Đầu tiên phải kể đến 2 loại trống đồng đẹp nhất, tiêu biểu nhất, có niên đại sớm nhất trong phức hợp trống đồng Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung, đó là trống Ngọc Lũ và trống Hoàng Hạ.

sach hay van hoa anh 2
Hình ảnh trang sách về Trống Ngọc Lũ. Ảnh: Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc.

Hai loại trống phản ánh đời sống vật chất, tinh thần, của người dân Việt cổ. Với vẻ đẹp hoàn hảo, hình dáng cân đối, hoa văn tinh xảo là báu vật quý hiếm, mang nhiều giá trị lịch sử và văn hóa Việt Nam.

Tất cả đều thể hiện đỉnh cao của nghệ thuật luyện kim, đúc đồng cũng như tri thức, tài năng và quan niệm nhân sinh sâu sắc của người Việt Nam ta.

Trong 20 bảo vật phải kể đến thạp đồng Đào Thịnh, được coi là một trong những “siêu phẩm” của thời kỳ văn hóa Đông Sơn. Thạp Đào Thịnh có kích thước lớn, trang trí hoa văn phong phú, độc đáo nhất trong số những thạp đồng được phát hiện ở việt Nam cho đến nay.

Chức năng chính của thạp là để đựng lương thực, hạt giống thậm chí còn được dùng làm quan tài mai táng.

Báu vật gửi gắm thông điệp từ quá khứ, kể lại cho thế hệ mai sau về truyền thống dựng nước, giữ nước và các khía cạnh đời sống vật chất, tinh thần của người Việt cổ.

Các bảo vật như một thông điệp từ quá khứ, phản ánh cuộc sống sinh động của cư dân Đông Sơn, khi xã hội chưa hình thành.

Mộ thuyền là hình thức mai táng khá phổ biến của cư dân Đông Sơn vùng châu thổ và duyên hải Bắc Bộ. Mộ thuyền Việt Khê được tạo từ một thân cây gỗ lim khoét rỗng, chứa các đồ mai táng như đồ sinh hoạt, công cụ lao động, vũ khí…

Tuỳ thuộc kích thước quan tài, số lượng hiện vật phong phú đã cho thấy sự giàu có của chủ nhân mộ, phản ánh phong tục mai táng, quan niệm về sự sống, cái chết trong tín ngưỡng người Việt xưa.

Bảo vật thuộc giai đoạn lịch sử Trung đại

Các bảo vật thời này minh chứng cho nền văn hóa, văn minh Đại Việt, phản ánh về một quốc gia hùng cường, có truyền thống và sức mạnh trong công cuộc dựng nước và giữ nước, trước mọi thế lực ngoại xâm.

Đầu tiên phải kể đến 3 bảo vật quốc gia có niên đại thời Trần: ấn Môn hạ sảnh, chuông Vân Bản và thống gốm hoa nâu.

Môn Hạ Sảnh ấn được làm bằng đồng, niên hiệu Long Khánh 5, Trần Duệ Tông (năm 1377). Thời kỳ nhà Trần kéo dài hàng trăm năm với lịch sử lẫy lừng là 2 lần chiến thắng quân Nguyên Mông. Mặc dù vậy, nhưng đến nay mới chỉ có duy nhất một chiếc ấn được phát hiện có tên là Môn Hạ sảnh ấn và được coi là bảo vật quốc gia.

Chuông Vân Bản được tìm thấy khi người dân kéo lưới ở biển Đồ Sơn, Hải Phòng năm 1958. Theo Hồ sơ di sản, Cục Di sản Văn hóa, chuông được công nhận là bảo vật quốc gia vì là cổ vật độc bản, có niên đại thời Trần. Giá trị nổi bật nhất của quả chuông này là minh văn, với nhiều ý nghĩa lịch sử, văn hóa, tôn giáo, đặc biệt là một số chức quan triều đại này.

Thống gốm hoa nâu tại Thiên Trường được tìm thấy khi đào giếng, là vật dụng của các thái thượng hoàng thời nhà Trần. Theo tài liệu của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, thống thuộc loại gốm chất lượng cao, kích thước lớn, xương gốm khá dày, men phủ đều, không bị nứt, sụp khi nung. Điều này thể hiện kinh nghiệm, kỹ thuật chế tác, khả năng làm chủ nguyên liệu và nhiệt độ nung của nghệ nhân đương thời.

Bình gốm vẽ thiên nga là một trong những tác phẩm xuất sắc của dòng gốm hoa lam, thể hiện sự hoàn mỹ của hội họa trên gốm, tuân thủ nghiêm chuẩn luật viễn cận, miêu tả sinh cảnh đồng quê qua chủ thể là loài chim thiên nga cao sang, trong bốn tư thế mang biểu trưng nhân sinh. Đây cũng được coi là sản phẩm gốm xuất khẩu xuất sắc trong những đồ gốm xuất khẩu mọi thời đại, làm nên một thương hiệu, có đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới với nhiều cường quốc gốm sứ đương thời.

Bia điện Nam Giao là một trong những tấm bia lớn nhất trong hệ thống bi ký Việt Nam thời Trung đại. Không chỉ có thế, tấm bia còn là một tác phẩm điêu khắc đá với nhiều đề tài ý nghĩa, có kỹ thuật chạm khắc tinh xảo, thư pháp chữ Hán đặc sắc, nội dung liên quan tới một nghi lễ quan trọng của triều đình hàng năm.

Thời chúa Nguyễn và triều Nguyễn, có 3 bảo vật được công nhận đều liên quan tới hoàng cung.

Ấn Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo chế tác bằng vàng thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Triều Nguyễn, kể từ khi Gia Long lên ngôi cho đến vị vua cuối cùng, đều coi đây là kim ấn truyền quốc.

Đế hệ thi là vương phả bằng vàng, thể hiện mong muốn của vua Minh Mệnh, kéo dài dòng họ đế vương của mình hai mươi đời, tương ứng với 500 năm trị vì đất nước.

Sắc mệnh chi bảo là kim ấn, hiện còn lưu lại trên nhiều văn bản, thường gặp ở các sắc phong, chiếu văn thời vua Minh Mệnh.

Ấn Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ được chế tác bằng bạch ngọc, có kích thước lớn, dùng trong lễ tế Nam Giao, đóng trên các văn bản sắc mệnh ban cho các chư hầu, những việc ban bố cho thiên hạ.

Văn hóa Champa, với những di sản để lại, nhiều danh hiệu đã được tôn vinh mang tầm quốc gia và quốc tế

Bảo vật giai đoạn lịch sử Cận – Hiện đại

Trong thời kì này, tiêu biểu và nổi bật trong sưu tập của Bảo tàng Lịch sử quốc gia, đó là bảo vật liên quan tới lịch sử cách mạng.

Đường Kách mệnh là văn kiện lý luận chính trị đầu tiên, có vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị về tư tưởng chính trị, tổ chức cho sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 2/1930.

Nhật ký trong tù là một tác phẩm văn học thể hiện lòng kiên trung, ý chí cách mạng của người cộng sản.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến như một bài hịch, kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Với một lời văn hào sảng, ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, hiệu triệu đã đi vào lòng người, tạo nên một sức mạnh thần kỳ cho công cuộc kháng chiến 9 năm.

Qua từng trang sách, ta như được thả hồn vào từng trang sử hào hùng của ông cha ta thời kì dựng nước, giữ nước. Ấn phẩm như một lời tuyên truyền nâng cao tinh thần trách nhiệm của cộng đồng đối với công tác bảo vệ, gìn giữ và phát huy di sản, trong đó có Bảo vật quốc gia – tài sản quý giá của cha ông truyền lại.

Nguồn: https://znews.vn/di-san-dan-toc-qua-20-bao-vat-quoc-gia-post1454890.html

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng