Connect with us

Sách hay

Cuốn sách tâm lý học giúp tự chữa lành

Được phát hành

,

Trong cuốn “Tôi ổn – Bạn ổn”, bác sĩ tâm thần Thomas Harris lý giải nguồn gốc của những hành vi tiêu cực, đồng thời giúp hàng triệu người chưa bao giờ thấy mình ổn trở nên ổn hơn.

Ra mắt lần đầu tiên vào năm 1969, nhờ chạm đến một nỗi niềm phổ quát của con người, Tôi ổn – Bạn ổn (I’m OK – You’re OK) đã trở thành một trong những tác phẩm tâm lý học kinh điển. Đến nay, Tôi ổn – Bạn ổn đã được dịch ra 20 thứ tiếng với hơn 15 triệu bản in.

Thông qua cuốn sách, bác sĩ tâm thần Thomas Harris giúp mỗi người đọc thấu hiểu phần nhân cách dễ bị tổn thương của mình, thứ có nguồn gốc từ những trải nghiệm tiêu cực đầu đời.

Ông chỉ cho ta cách vượt lên trên quá khứ để sống với thực tại mới với lòng tự tin, niềm vui trong trẻo, khả năng kết nối thân mật với người khác và hạnh phúc đích thực.

Những “cuộn băng quá khứ” áp đặt lên hiện tại

Tôi ổn – Bạn ổn sử dụng các nguyên tắc của phân tích tương giao – một học thuyết và phương pháp trị liệu tâm lý được phát triển bởi tiến sĩ Eric Berne.

Bằng chứng lâm sàng chỉ ra rằng não bộ con người có khả năng ghi lại những ấn tượng quan trọng trong thời thơ ấu – trung thực và chính xác hệt như một chiếc máy ghi âm.

Những ký ức tuổi thơ, vì thế được não bộ lưu trữ giống trong những “cuộn băng”. Trong đó, những “cuộn băng” về cảm xúc nội tâm của đứa trẻ, từ sự tò mò ban sơ, niềm vui được vỗ về cho đến những sợ hãi, hoảng loạn mà mọi đứa trẻ nhỏ bé đều từng trải qua – được lưu giữ trong phần cái tôi trẻ em.

Còn phần cái tôi cha mẹ là tập hợp những cuộn băng về người lớn xung quanh đứa trẻ, cùng những gì họ nói và làm.

Điều đáng nói, những dữ kiện trong cái tôi cha mẹ và cái tôi trẻ em, dù được hình thành chủ yếu trong 5 năm đầu đời, vẫn có thể được “phát lại” bất cứ lúc nào trong cuộc sống về sau – mỗi khi bị kích thích bởi các yếu tố bên ngoài.

Chính sự “phát lại” này khiến hành vi, cảm xúc và nhận thức của con người giống như đang bị một “trạng thái cái tôi”, một nhân cách riêng biệt giành quyền kiểm soát.

Ở hiện tại, trong quá trình tương tác, giao tiếp với người, nếu một trong hai cái tôi trên bị “câu ra”, chúng ta sẽ phải sống lại cảm xúc từ những tình huống gốc cũ xưa; và thực tại, nhận thức cùng cách giải quyết vấn đề của ta sẽ bị giới hạn như chúng từng bị trong thời thơ ấu.

Toi on - Ban on anh 1

Tôi ổn – Bạn ổn (I’m OK – You’re OK) là một trong những tác phẩm tâm lý học kinh điển. Ảnh: First News.

“Tôi không ổn – bạn ổn” và cách sống tiêu cực của số đông

Ngoài các khuôn mẫu hành vi, lỗi thời, theo Thomas Harris, những dữ kiện trong cái tôi cha mẹ và cái tôi trẻ em còn tạo ra một “sản phẩm phụ” tiêu cực khác: Vị thế sống “Tôi không ổn – bạn ổn”.

Khái niệm “vị thế sống”, theo Harris, là cách con người cảm nhận về bản thân trong mối tương quan với người khác. Ngoài “Tôi không ổn – bạn ổn” ra, còn có hai vị thế sống tiêu cực khác, gồm “Tôi không ổn – bạn không ổn” và “Tôi ổn – bạn không ổn”.

Theo Harris, những sợ hãi, hoảng loạn, thất vọng, tổn thương, bất lực lẫn cảm giác thấp kém của một đứa trẻ trước những người lớn trong môi trường xung quanh tạo ra cảm giác không ổn về bản thân.

Ba vị thế sống tiêu cực này sẽ được xác lập và rất khó bị phá vỡ, và được đứa trẻ mang theo suốt đời, trừ khi chúng quyết định một cách có ý thức về việc chuyển sang vị thế sống “tôi ổn – bạn ổn” – vị thế sống duy nhất đảm bảo sự hạnh phúc.

Còn nếu không được thay đổi, ba vị thế sống tiêu cực này trở thành căn cơ của những đau khổ trong cuộc sống. Ta sẽ sống mà liên tục tìm kiếm sự công nhận và phần thưởng từ bên ngoài. Tất cả nhằm giảm nhẹ gánh nặng đau đớn của cảm giác không ổn mình đang mang.

“Họ bị giam cầm trong một cuộc sống không ngừng leo thang, khi họ đạt tới một đỉnh núi thì họ lại đối mặt với một ngọn núi tiếp theo”, Harris mô tả. Cách sống đó, theo tác giả, không thể tạo ra hạnh phúc hay ý nghĩa, giá trị lâu dài.

Giải pháp: Giải phóng cái tôi người lớn

Ngoài 2 thành phần cái tôi đã nêu, còn có một cái tôi khác được phát triển muộn hơn và là niềm hy vọng cho mọi sự: Cái tôi người lớn.

Cái tôi này được hình thành từ khi trẻ 10 tháng tuổi, bắt đầu trải nghiệm năng lực vận động, trẻ nhận ra có thể làm việc gì đó xuất phát từ suy nghĩ của riêng mình. Khả năng tự thực hiện này chính là sự khởi đầu của cái tôi A.

Khác với 2 cái tôi trước – chỉ tập hợp các bản ghi thụ động và không biết chất vấn, cái tôi người lớn hoạt động như một “chiếc máy tính”.

Cái tôi này biết truy vấn, cập nhật, thay đổi dữ liệu từ cái tôi cha mẹ, cái tôi trẻ em và nguồn dữ liệu khổng lồ từ thực tế bên ngoài, cùng những ước đoán về những điều chưa được trải nghiệm. Từ đó, đưa ra quyết định thỏa đáng trước thực tại mới mẻ.

“Chúng ta chỉ có thể tách biệt quá khứ ra khỏi hiện tại bằng cách sử dụng cái tôi người lớn”, Harris cho biết. Một cái tôi người lớn vững chãi sẽ nhận ra cảm giác, nhận định xưa cũ trong cái tôi trẻ em và cái tôi cha mẹ đã lỗi thời; đủ tự chủ để “tắt” cảm xúc không ổn về bản thân mỗi khi bị kích thích từ môi trường bên ngoài; đủ niềm tin và sự kiên nhẫn để xây dựng một cuộc sống khác với quá khứ.

Giải phóng cái tôi người lớn cũng là chìa khóa cho vị thế sống “tôi ổn – bạn ổn” của mỗi người. “Làm sao để ở lại trong cái tôi người lớn?” chính là câu hỏi cốt lõi mà Thomas Harris đã nỗ lực giải đáp trong cuốn sách.

Phân tích tương giao xoay quanh việc phân tích ba cái tôi của mỗi người (hay mô hình P-A-C) trong các tương giao, đã trở thành trợ thủ đắc lực cho các hình thức trị liệu và trị liệu nhóm trong ngành tâm lý học.

Trong “Tôi ổn – Bạn ổn”, tác giả đã bàn một cách kỹ lưỡng về việc dùng mô hình P-A-C để tháo gỡ các rắc rối trong tình yêu, mối quan hệ cha mẹ – con cái, tâm lý tuổi vị thành niên cũng như các vấn đề xã hội.

Tôi ổn – Bạn ổn cũng chứa đựng những thí nghiệm, nghiên cứu, quan điểm của các nhà phân tâm học, nhà trị liệu tâm lý và bác sĩ lỗi lạc, cùng nhiều câu chuyện thực tế từ những bệnh nhân mà Harris từng điều trị. Dù vậy, tác giả sử dụng những ngôn từ đơn giản nên tác phẩm rất dễ đọc và dễ hiểu với độc giả đại chúng.

Riêng với từng cá nhân, việc đọc cuốn sách này như một quá trình tự soi chiếu. Chúng ta sẽ có cuộc tìm hiểu kỹ lưỡng về những gì có trong cái tôi cha mẹ, cái tôi trẻ em, cái tôi người lớn của chính mình, nhìn thấy những nỗi đau từ quá khứ và vết tích của chúng trong hiện tại. Và từ đó, cùng với những hướng dẫn cặn kẽ nhất của Harris, nhiều hành trình tự chữa lành có thể bắt đầu…

Lý thuyết về 4 vị thế sống của Thomas Harris

“Tôi không ổn – bạn ổn”: Vị thế sống tiêu cực đầu đời của số đông. Người sống ở vị thế này nhìn nhận bản thân kém cỏi, không có giá trị và phải liên tục tìm kiếm tương tác kích thích và sự công nhận từ người khác.

“Tôi không ổn – bạn ổn”: Xuất hiện ở những đứa trẻ bị bỏ rơi, không được chăm sóc. Trong vị thế này, cái tôi người lớn ngừng phát triển và cá nhân rơi vào trạng thái thu rút và tuyệt vọng.

“Tôi không ổn – bạn ổn”: Harris gọi đây là vị thế của kẻ phạm tội, thường xuất hiện ở những đứa trẻ bị bạo hành nghiêm trọng. Người chấp nhận vị thế này không thể khách quan về bản thân và luôn đổ lỗi cho người khác. Họ “mù luân lý” và dễ sa vào các hành vi phạm tội.

“Tôi ổn – bạn ổn”: Đây là vị thế được chọn bởi cái tôi người lớn lành mạnh, được giải phóng, là vị thế duy nhất đảm bảo cho hạnh phúc con người.

Thomas A. Harris (1910 – 1995) nhận bằng cử nhân Khoa học tại Đại học Arkansas (1938) và bằng bác sĩ Y khoa tại Đại học Temple (1940).

Ông được đào tạo về tâm thần học tại bệnh viện Saint Elizabeth, từng là bác sĩ phụ trách về sức khỏe tâm thần trong hải quân (thế chiến II), ông cũng từng tham vấn cho cựu tù binh Mỹ. Về sau, Harris mở một phòng khám tâm thần tư nhân ở Sacramento.

Bị cuốn hút bởi học thuyết của Eric Berne, Thomas A. Harris bắt đầu hợp tác chặt chẽ với Bern từ năm 1960 trong việc truyền bá và áp dụng phân tích tương giao vào trị liệu lâm sàng. Với các tác phẩm của mình, Thomas A. Harris có công lớn trong việc làm cho phương pháp này trở nên dễ hiểu, đến được với đông đảo bạn đọc.

Nguồn: https://zingnews.vn/cuon-sach-tam-ly-hoc-giup-tu-chua-lanh-post1353564.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng