Connect with us

Sách hay

Cuộc hành trình ngôn ngữ của loài người

Được phát hành

,

“Lược sử ngôn ngữ” là lựa chọn hợp lý để có một cái nhìn ngắn gọn và toàn diện về quá trình xuất hiện của công cụ, giao tiếp ngôn ngữ ở con người.

Luoc su ngon ngu anh 1

Đến bây giờ, không còn ai nghi ngờ việc sở hữu khả năng ngôn ngữ phát triển mạnh, linh hoạt và không ngừng tự tiến hóa, thích ứng, hoàn thiện nhanh chóng theo nhu cầu thực tế là một trong những năng lực quan trọng nhất giúp loài người trở nên mạnh mẽ và chiếm lĩnh được thế giới như ngày nay.

Từ đơn giản đến phức tạp, từ nói đến viết, cuộc hành trình của ngôn ngữ đã song hành với tiến trình phát triển của loài người từ những ngày sơ khai nhất. Để hiểu về bản thân mỗi con người cũng như về tất cả loài người, hiểu biết về ngôn ngữ là một phần không thể thiếu.

Với bất cứ ai quan tâm đến khía cạnh này trong chúng ta, Lược sử ngôn ngữ – Chuyện kể về phát minh vĩ đại nhất của loài người (How language began – The story of humanity’s greatest invention) của Daniel L. Everett là một lựa chọn hợp lý để có một cái nhìn ngắn gọn và toàn diện về quá trình xuất hiện của công cụ, giao tiếp ngôn ngữ ở con người, cùng những điểm khác biệt của nó so với giao tiếp ở các loài động vật khác, cũng như những lợi thế nó đem đến cho con người.

Tác giả Everett chia cuốn sách của mình thành bốn phần. Phần một lược thuật lại giai đoạn hình thành các sinh vật linh trưởng nhân hình cũng như các bước tiến ngôn ngữ đầu tiên của các sinh vật này.

Advertisement

Phần hai tập trung vào các đặc điểm tiến hóa sinh học ở loài người nhằm “ưu ái” sự phát triển năng lực ngôn ngữ như một lựa chọn ưu tiên.

Phần ba và phần bốn dành cho hai khía cạnh tiến hóa về hình thức thể hiện của ngôn ngữ cũng như vai trò định hình nên các nền văn hóa của ngôn ngữ khi xã hội văn minh của con người đã hình thành.

Trong phần một “Những tông Hominini đầu tiên”, Daniel L. Everett tập trung vào chủ đề khó có được nhất quán và phải dựa nhiều vào suy đoán: ngôn ngữ hình thành ở loài người nói riêng và trong tự nhiên nói chung từ khi nào?

Chương 1 “Sự trỗi dậy của tông Hominini đầu tiên” điểm lại những học thuyết khác nhau về sự hình thành ngôn ngữ, thực tế của lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ, những đặc trưng của ngôn ngữ.

Trong chương này, thông qua điểm lại lịch sử hình thành sự sống trên Trái Đất nói chung và cây gia hệ của các loài linh trưởng nói riêng, tác giả đã lược thuật lại cách thức thông tin di truyền được lưu giữ và biến đổi qua các thế hệ của mỗi loài sinh vật, cũng như những tác động nội tại và ngoại sinh dẫn tới sự biến đổi, thích nghi với môi trường sống và tiến hóa của các thực thể sống.

Advertisement

Đồng thời, từ cây tiến hóa chung của sinh giới, các loài khỉ nhân hình cũng hình thành nên những mầm mống độc đáo trong tương tác giữa các cá thể, làm cho khả năng tương tác trong bầy đàn của chúng vượt trội hẳn so với những loài sinh vật khác, đặt nền móng cho việc hình thành ngôn ngữ.

Chương 2 “Những kẻ săn tìm hóa thạch” phân tích những bằng chứng khảo cổ từ các hóa thạch người tiền sử đã khẳng định các giả thiết về nguồn gốc loài người từ châu Phi cũng như quá trình thay đổi cấu trúc cơ thể người để thích ứng từ cuộc sống leo trèo truyền thống của các loài linh trưởng sang cuộc sống trên mặt đất với tư thế đứng thẳng, trong đó có những thay đổi về cấu trúc bộ não và cơ quan phát âm, những điều kiện tiên quyết cho sự hình thành tư duy và ngôn ngữ ở con người.

Bên cạnh đó, chương cũng cung cấp thông tin về các bằng chứng trong vật chất di truyền của loài người về một nguồn gốc tổ tiên chung ở châu Phi.

Chương 3 “Sự dịch chuyển của loài người” là câu chuyện về cuộc hành trình của người đứng thẳng Homo erectus rời khỏi châu Phi để rồi lan tỏa sự có mặt của mình trên khắp các vùng đất liền của Trái Đất.

Cuộc hành trình được thực hiện không phải ngẫu nhiên mà có tính toán một cách thông minh. Cuộc dịch chuyển không ngừng của các Homo erectus bản thân nó là một kỳ công vĩ đại của sức mạnh cộng đồng, một minh chứng cho khả năng giao tiếp và tư duy mạnh mẽ họ sở hữu, đồng thời cũng chính sự dịch chuyển đó không ngừng mài sắc tư duy cho người đứng thẳng, đóng vai trò quan trọng trong việc làm ngôn ngữ hình thành, phát triển ở loài người sau này.

Advertisement

Chương 4 “Ai cũng nói ngôn ngữ tín hiệu” bàn về các luận điểm lý thuyết đã được đưa ra về nguồn gốc ngôn ngữ. Từ các hình thức tồn tại hiện hành của ngôn ngữ, từ những ngôn ngữ phát triển cao độ về ngữ pháp, từ vựng, chức năng như tiếng Anh cho tới các ngôn ngữ phi văn tự như ngôn ngữ của tộc người Pirahã.

Từ đó, với xuất phát điểm là sử dụng các chỉ dấu, điều mà mọi động vật đều sử dụng, các loài linh trưởng của chi Homo đã đi xa hơn để chuyển từ chỉ dấu thành hình tượng, rồi đến Homo erectus đã đi xa hơn nữa tới ký hiệu, biểu tượng, và nhiều khả năng đã sở hữu ngôn ngữ đúng nghĩa như các tiến hóa về nhận thức của họ cho thấy.

Phần hai của cuốn sách – “Những thích nghi về mặt sinh học dành cho ngôn ngữ” phân tích những đặc điểm về mặt cấu tạo sinh học con người có được từ quá trình tiến hóa thích nghi để có được khả năng biểu đạt ngôn ngữ, trong khi các loài động vật khác hầu hết không vượt qua được mức độ sử dụng chỉ dấu.

Chương 5 “Con người có bộ não ưu việt hơn” bắt đầu phần này từ yếu tố quan trọng nhất trong việc hình thành, phát triển, sử dụng ngôn ngữ: bộ não. Quá trình tiến hóa của bộ não của loài người đã diễn ra từ khi người và tinh tinh tách ra trên cây tiến hóa (giai đoạn nền tảng), rồi trải qua những bước tiến hóa đã diễn ra với sự xuất hiện của Vượn người phương Nam, của người đứng thẳng để rồi đạt được mức độ tối đa về kích thước cũng như sự tinh vi vào 500.000 năm trước.

Và ở người thông minh hiện đại, bộ não tiếp tục có những tiến hóa để tạo nên con người ưu việt hơn, đặc biệt là dưới sự thúc đẩy của sự kết hợp giữa ngôn ngữ và văn hóa.

Advertisement

Chương 6 “Cách bộ não tổ chức ngôn ngữ” phân tích cấu trúc bộ não người, tập trung vào những bộ phận thực hiện các chức năng liên quan tới ngôn ngữ, những lý thuyết liên quan tới việc bộ não giúp chúng ta vận hành, phát triển chức năng ngôn ngữ của mình, sự linh hoạt của bộ não trong đảm nhận chức năng ngôn ngữ thay vì có những vùng chuyên biệt hóa bẩm sinh cho thấy bộ não có tiềm năng rất lớn trong việc hình thành, thực thi những loại hình hoạt động mới, và ngôn ngữ của nhân loại vẫn còn dư địa để phát triển, hoàn thiện.

Chương 7 “Khi bộ não gặp trục trặc” xem xét mối quan hệ giữa ngôn ngữ và bộ não thông qua mối tương quan giữa các trường hợp suy giảm, thậm chí khuyết thiếu hoàn toàn chức năng ngôn ngữ như hội chứng suy giảm ngôn ngữ chuyên biệt, chứng ASD hay tự kỷ với những dấu hiệu về rối loạn di truyền.

Nhiều giả thiết đã được đưa ra để lý giải các khiếm khuyết về chức năng, hành vi có liên quan tới ngôn ngữ, nhưng không tồn tại rối loạn di truyền chuyên biệt về ngôn ngữ, điều cho thấy ngôn ngữ là một phát minh trong quá trình tồn tại của con người, không phải là một thứ bẩm sinh đã được mã hóa sẵn trong vật chất di truyền của chúng ta.

Chương 8 “Chuyện trò bằng tiếng nói” tập trung vào cấu tạo, hoạt động của cơ quan phát âm của chúng ta, sự tối ưu hóa về cấu trúc của cơ quan này ở con người để khiến chúng ta có thể sử dụng tiếng nói làm phương tiện chuyển tải ngôn ngữ một cách hiệu quả, đồng thời cũng phân tích nguyên do dẫn tới sự hình thành các phương ngữ, các âm khác nhau trong các ngôn ngữ khác nhau.

Phần ba “Sự tiến hóa của hình thức ngôn ngữ” là câu chuyện về sự hoàn thiện của ngôn ngữ từ dạng thể sơ khai nhất – ngôn ngữ nói – tới chỗ trở thành một phương tiện tư duy, giao tiếp ngày càng phức tạp.

Advertisement

Chương 9 “Cội nguồn của ngữ pháp” tóm lược tiến trình điều chỉnh một cách có ý thức và thông minh của con người để hình thức của ngôn ngữ – trước hết là ngôn ngữ nói, dạng nguyên thủy nhất – được mài giũa sao cho ngày càng hiệu quả khi sử dụng, dẫn tới hình thành hệ thống trật tự nhất quán, một thứ ngữ pháp sơ khai là cơ sở tạo nên ngôn ngữ viết ở nhiều thứ tiếng sau này.

Chương 10 “Chuyện trò khi có đôi tay” đề cập tới vai trò của những thành phần đồng hành với ngôn ngữ nói như cử chỉ, thái độ của người nói trong việc tạo nên tổng thể hoàn thiện của ngôn ngữ. Mỗi ngôn ngữ chỉ hoàn thiện khi đi kèm với hệ thống cử chỉ đặc trưng của những cộng đồng người tạo ra ngôn ngữ đó.

Cử chỉ cũng có lịch sử tiến hóa, biến đổi riêng của nó khi đồng hành với sự hình thành, tiến hóa của ngôn ngữ. Thậm chí, với đặc trưng riêng của mình, cử chỉ có thể đạt được mức độ phổ biến không ngôn ngữ nào đạt được, đến mức có thể thay thế ngôn ngữ làm phương tiện giao tiếp trong nhiều trường hợp.

Chương 11 “Vừa đủ tốt” nhấn mạnh vào sự không hoàn hảo của ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một phát minh có sức mạnh lớn lao, nhưng không phải là vạn năng. Hiệu quả của một ngôn ngữ phụ thuộc rất nhiều vào sự hợp tác giữa những người trao đổi bằng ngôn ngữ, những thông tin không được nói ra nhưng cần được ngầm hiểu, suy luận, cũng như văn hóa, ngữ cảnh mà ngôn ngữ được sử dụng.

Phần cuối cùng của cuốn sách -“Sự tiến hóa về văn hóa của ngôn ngữ” gồm một chương duy nhất, chương 12 “Những cộng đồng và sự giao tiếp”. Phần này nhìn nhận ngôn ngữ trong vai trò tạo dựng văn hóa cùng những vấn đề có thể phát sinh khi các nền văn hóa khác nhau tiếp xúc với nhau.

Advertisement

Không thể hiểu trọn vẹn thông điệp một ngôn ngữ đưa ra nếu không hiểu nền văn hóa đi kèm với nó. Bởi mỗi nền văn hóa đều có những giá trị, quy ước riêng, làm cơ sở vận hành cho xã hội của nền văn hóa đó.

Trong thế giới ngày nay, với sự giao thoa ngày càng nhanh và mạnh giữa các nền văn hóa, tạo dựng nên xã hội có các quy tắc tương thích với các nền văn hóa khác nhau cùng tồn tại trong một xã hội là quan trọng để thiết lập, duy trì ổn định, hài hòa trong xã hội.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Zing News

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Zing News mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Advertisement

Nguồn: https://zingnews.vn/cuoc-hanh-trinh-ngon-ngu-cua-loai-nguoi-post1437327.html

Tiếp tục đọc
Quảng cáo
Nhấn vào đây để bình luận

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sách hay

Lịch sử chưa kể về ramen

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một khảo cứu thú vị về lịch sử món mì ramen ở Nhật Bản thông qua lăng kính phân tích và mối liên hệ chặt chẽ của món ăn với địa lý, chính trị, quan hệ đối ngoại, khoa học dinh dưỡng, truyền thông và bản sắc dân tộc.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 cho thấy Zhu Shun Shui đã chỉ cho Mitsukuni (cận vệ của Tokugawa Mitsukuni) cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa.

Mì ramen được giới thiệu lần đầu đến Nhật Bản vào năm 1665, năm 1884 hay năm 1910? Tiền thân của nó liệu có phải là món ăn được gọi với cái tên ūshin udon, Nankin soba hay Shina soba? Tùy thuộc vào câu trả lời mà chúng ta sẽ nghiệm suy về từng món ăn khác nhau với một giai thoại nguồn cội riêng, cùng một quỹ đạo lịch sử đặc thù mang đến các góc nhìn cụ thể về đất nước Nhật Bản. […]

Mi ra men anh 1

Bìa cuốn sách

Giai thoại đầu tiên, và cũng sống động nhất, đã xuất hiện ban đầu trong công trình nghiên cứu mang tính tiên phong về lịch sử của mì ramen (được xuất bản năm 1987) của nhà sử học về ẩm thực Kosuge Keiko, trong đó ấn định thời điểm món ăn này được trình làng là vào những năm 1660, đồng thời cho rằng Tokugawa Mitsukuni (tên khác là Mito Kōmon, 1628 − 1701) – vị lãnh chúa huyền thoại thời phong kiến (daimyō) nắm hàng thứ hai sau Mạc chủ (shōgun) (1) – là người đầu tiên thưởng thức món mì ramen ở Nhật Bản.

Là nhân vật lịch sử nổi tiếng ở Nhật và từng được một bộ phim truyền hình dài tập mô tả như một vị hảo hán, ở gần cuối mỗi tập phim, Tokugawa Mitsukuni thường tiết lộ danh tính của mình cho những kẻ xấu bằng cách để lộ ra hình ảnh chiếc inrō (hộp đựng trang trí sơn mài kích cỡ nhỏ) có khắc gia huy của dòng họ ông, cho thấy ông là vị daimyō trong vùng.

Advertisement

Câu thoại “Ngươi không nhận ra gia huy này sao?” (Kono mondokoro ga me ni hairanuka?) được Kaku-san (cận vệ của Mitsukuni) nhắc lại trong đoạn cao trào của mỗi tập phim nhằm khôi phục lại trật tự và cấp bậc, và khiến những kẻ bất lương ngang ngược phải lập tức cầu xin sự khoan hồng.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 về các hoạt động của Mitsukuni cho thấy rằng Zhu Shun Shui – một người Trung Quốc tị nạn khỏi chính quyền nhà Minh sống ở Mito vào thời điểm đó (2) – đã chỉ cho Mitsukuni cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa nhiều khả năng chính là món mì ramen ngày nay (3).

Mặc dù Mitsukuni được biết đến nhiều nhất trong lịch sử Nhật Bản khi đã khởi xướng kế hoạch kỳ vĩ biên soạn nên Dai Nihon Shi – hay Lịch sử vĩ đại của Nhật Bản – một cuốn sách mất gần 250 năm và mười thế hệ để hoàn thành, ông cũng là một người ca tụng triết học Lý học (Neo- Confucianism) (4) và đã tìm đến Trung Quốc để được soi đường chỉ lối cách trị nước.

Ông do vậy đã tham vấn và kết giao với Zhu, người trước đó từng nắm chức thượng quan ở Trung Quốc dưới thời nhà Minh nhưng quyết định đến Nhật Bản vào năm 1665 do phải lưu vong khỏi chế độ cai trị của Mãn Châu.

Mi ra men anh 2

Lãnh chúa Tokugawa Mitsukuni. Nguồn: wikipedia.

Zhu trở thành một trong những cố vấn quan trọng nhất của Mitsukuni, và làm việc trong chính quyền cai trị của ông này trong 17 năm tiếp theo cho đến khi qua đời vào năm 1682. Vai trò quan trọng của Zhu trong đội ngũ cố vấn của vị daimyō đã giúp ông có được một cuộc sống thoải mái, cùng một bia mộ nổi bật còn tồn tại cho đến ngày nay trong khu nghĩa trang của gia tộc Tokugawa nhánh Mito (5).

Advertisement

Trong thời gian hầu cận daimyō, Zhu biết được rằng Mitsukuni là một người rất thích ăn udon – loại mì nước hiện vẫn phổ biến ở Nhật Bản – với sợi mì làm từ bột mì sử dụng với nước dùng dashi (làm từ cá ngừ khô và tảo bẹ).

Vào thế kỷ 17, người Nhật thường ăn mì udon với quả mơ ngâm (umeboshi) và vừng. Thấy vậy, Zhu đã gợi ý về năm thành phần thường được sử dụng trong món mì nước Trung Quốc để vị daimyō vùng Mito có thể thêm vào nhằm cải thiện hương vị của món ăn. Năm thành phần (ūshin) mà ông chủ ý đề xuất gồm: rễ kiệu (rakkyō), tỏi, hẹ tỏi (nira), hành lá và gừng (6).

Từ những dữ kiện này, nhà sử học về ẩm thực Kosuge phỏng đoán rằng Tokugawa Mitsukuni chính là cha đẻ của tập tục ăn mì nước Trung Quốc ở Nhật Bản. Sau này Bảo tàng Ramen ở Shin-Yokohama đã phổ biến rộng rãi câu chuyện trên, và kết quả là vào năm 2003, Tập đoàn Thực phẩm Nissin của Nhật Bản nhà sản xuất mì ramen ăn liền lớn nhất thế giới – trong một thời gian ngắn đã cho ra – mắt nhãn hiệu mì ăn liền U-shin có in hình gia huy của gia tộc Tokugawa, được điểm tô bằng giai thoại về Mitsukuni và Zhu.

Mặc dù khó xác định liệu món ăn từng được ưa chuộng bởi vị lãnh chúa nổi tiếng của vùng Mito kia tương thích ra sao với món ăn ngày nay được gọi với cái tên “mì ramen”, cần ghi nhớ rằng câu chuyện được lưu truyền rộng rãi ở trên về sự xuất hiện tại Nhật Bản của món mì nước kiểu người Hoa đã thiết lập nên một giai thoại nguồn cội trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên hiện đại – một thời đại được đánh dấu bằng việc người Nhật có xu hướng học hỏi người Trung Quốc.

Mặc dù câu chuyện trên được coi như một phiên bản bao trùm đầy lôi cuốn về nguồn gốc của món ăn, với đầy đủ các nhân vật ngoài đời thực cùng những tương tác tưởng tượng dựa trên các cách diễn giải không thành kiến đối với những ghi chép lịch sử, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhấn mạnh sự ngưỡng mộ của người Nhật đối với một nước Trung Quốc thời tiền Thanh.

Advertisement

—————-

1. Một tước hiệu đặc biệt dành cho những vị tướng quân có chức vụ cao nhất trong thời kỳ phong kiến của Nhật Bản. (ND)

2. Khi triều đại nhà Thanh củng cố quyền lực của mình lên miền nam Trung Quốc, một số học giả Nho giáo làm việc cho chính quyền nhà Minh đã trốn sang Đại Hàn và Nhật Bản để làm cố vấn.

3. Kosuge Keiko, Nippon Rāmen Monogatari: Chūka soba wa itsu doko de umareta ka (Tokyo: Shinshindō, 1987), tr.45-59.

4. Tư tưởng triết lý Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Lý học có thể được xem là nỗ lực hợp lý hóa cũng như thế tục hóa Nho giáo bằng cách loại bỏ các yếu tố mê tín, huyền bí của Đạo giáo và Phật giáo, vốn từng được đưa vào Nho giáo trong và sau đời nhà Hán. (ND)

Advertisement

5. Sĩ quan hải quân người Mỹ. (ND)

6. Cho đến năm 1854, khi Hiệp ước Perry đầu tiên có hiệu lực, triều đại Tokugawa ở Nhật Bản đã duy trì chính sách tránh tiếp xúc với các cường quốc phương Tây (ngoài Hà Lan) trong hơn hai thế kỷ để hạn chế tình trạng hỗn loạn do những nỗ lực cải đạo của các nhà truyền giáo Cơ đốc ở Nhật Bản. Riêng Hà Lan đã đồng ý giới hạn mối quan hệ giữa hai nước chỉ trong lĩnh vực thương mại, kết quả là Hà Lan trở thành quốc gia châu Âu duy nhất duy trì quan hệ thương mại và ngoại giao với Nhật Bản từ năm 1639 đến năm 1854.

Nguồn: https://znews.vn/giai-thoai-ve-su-xuat-hien-cua-mi-ramen-mon-an-quoc-dan-nhat-ban-post1455469.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Nóng giận là bản năng tĩnh lặng là bản lĩnh

Được phát hành

,

Bởi

Trong cuốn sách, tác giả Tống Mặc đã trò chuyện với độc giả về cách kiềm chế cơn nóng giận, học cách bao dung, kiểm soát cảm xúc của mình trước những tác động của cuộc sống.

Ai chẳng có lúc giận dữ, nóng giận là hạt mầm được gieo vào tâm ta từ lúc mới chào đời. Nhưng kìm chế cơn giận là bản lĩnh cần rèn luyện mỗi ngày.

Kim che con gian anh 1

Thái độ điềm tĩnh sẽ giúp con người dễ dàng vượt qua nghịch cảnh, đón nhận thử thách. Ảnh: P.G.

Điềm đạm là sự điềm tĩnh xuất phát từ nội tâm. Cổ nhân cho rằng: “Điềm tĩnh dưỡng thần, phật dịch ô vật.” Ý muốn nói, điềm tĩnh có thể dưỡng tâm, giúp con người không phụ thuộc vào thứ bên ngoài. Điềm tĩnh nói đến một thái độ sống “lùi”, vạn sự thuận theo tự nhiên, người giữ được tinh thần như vậy, chắc chắn có thể làm tốt việc dưỡng tâm.

Hiện giờ, ngày càng có nhiều người theo đuổi việc “dưỡng sinh”. Dưỡng sinh gồm có dưỡng tâm, dưỡng tính và dưỡng thân. Nhưng rất nhiều người chỉ quan tâm đến việc dưỡng thân, cho rằng chỉ cần chăm sóc cơ thể cho thật đẹp đẽ, khỏe mạnh, thì có thể hưởng thụ cuộc sống lâu dài. Cho nên, số người có thể kiên trì hàng ngày tập luyện thể thao, ăn uống lành mạnh thì nhiều, nhưng số người có thể kiên trì dưỡng tâm hàng ngày lại rất ít.

Advertisement

Có một bà mẹ cực kỳ chú trọng việc dưỡng sinh. Gặp ai cô ấy cũng thao thao bất tuyệt về đạo lý dưỡng sinh, về việc mỗi ngày phải ăn cái gì, ăn bao nhiêu, ăn thế nào, vận động bao lâu… Cô ấy nói hết lần này đến lần khác: Chỉ có làm như vậy, mới không bị bệnh! Nhưng mỗi lần nghe những điều này, tôi đều thấy rất lạ. Một người ngày nào cũng bận rộn chuẩn bị đồ ăn lành mạnh cho bản thân từ sáng đến tối, sợ mình ăn phải đồ ăn không tốt sẽ sinh bệnh, không thể sống thọ, ngày nào cũng lo lắng như vậy, liệu có vui vẻ được không?

Nếu như chúng ta dư ỡng sinh mà không bắt đầu từ việc dưỡng tâm dưỡng tính, trong lòng sẽ có nhiều phiền não, có nhiều ham muốn. Như vậy, “hạnh phúc” mà chúng ta được hưởng chỉ dừng ở mức ăn ngon mặc đẹp và cơ thể khỏe mạnh, đó không phải cuộc sống thăng hoa chân chính.

Đại sư Hoằng Nhất cho rằng điềm đạm là “điều đầu tiên của việc dưỡng tâm”. Điềm đạm mà ngài nói tới suy cho cùng là cần con người phải tĩnh tâm. Thế gian này bao chuyện phiền não, dễ ảnh hưởng đến tâm lý của con người.

Kim che con gian anh 2

Cuốn sách Nóng giận là bản năng, tĩnh lặng là bản lĩnh mang đến cho người đọc nhiều lời khuyên hữu ích. Ảnh: Chi.

Cho nên, nhiều người nghĩ rằng tâm mình không tĩnh là vì đang bị quá nhiều chuyện quấy nhiễu. Thật ra, ta bị quấy rầy không phải vì những chuyện phiền nhiễu trên đời, mà vì tâm không tĩnh. Khi chúng ta có thể tách khỏi tất cả sự vật bên ngoài, cho dù ở trong hoàn cảnh nào, ta cũng có thể hưởng thụ cuộc sống an nhàn thực sự.

Trong xã hội hiện thực này, rất nhiều chuyện sẽ làm cho chúng ta “dao động”.

Advertisement

Khi một người mỗi ngày kiếm được 10 đồng, chỉ đủ để ăn no, anh ta cảm thấy rất thoải mái, nhưng lại mơ mỗi ngày kiếm được 100 đồng; khi kiếm được 100 đồng mỗi ngày, anh ta lại cảm thấy mệt hơn trước rất nhiều, và không thấy hài lòng lắm, bởi vì có người mỗi ngày kiếm được 1.000 đồng.

Anh ta làm việc chăm chỉ hơn, cuối cùng cũng có thể kiếm 1.000 đồng mỗi ngày, anh ta bắt đầu mua xe, mua nhà, sống cuộc sống tốt đẹp mà anh ta từng ao ước, nhưng anh ta lại bắt đầu hướng về cuộc sống mỗi ngày kiếm được 10.000 đồng…

Chúng ta luôn rơi vào một vòng tròn kỳ lạ như vậy. Chúng ta luôn cho rằng khi đạt được điều gì mình mong đợi đã lâu, trong lòng sẽ cảm thấy yên tâm, hài lòng, từ đó có thể hạnh phúc. Nhưng sau khi đạt được điều mình muốn, ta lại có cảm giác cũng chỉ thế mà thôi. Những ham muốn lớn hơn nối tiếp nhau, mục tiêu ngày càng cao, và chúng ta càng ngày càng mệt hơn.

Do đó, một người sau khi có biệt thự, xe hơi, anh ta càng không hạnh phúc, bởi anh ta lo sợ một ngày nào đó sẽ mất đi cuộc sống như vậy, do đó đành phải dốc sức làm việc nhiều hơn, ép bản thân phải kiếm được 100.000 mỗi ngày, nếu chỉ kiếm được 80.000 thì thở dài ngao ngán.

Ngày nào cũng sống trong nỗi sợ mất đi danh lợi, gánh áp lực khủng khiếp, làm sao mà không sinh bệnh cho được? Dĩ nhiên, không phải con người không thể sống như vậy, danh lợi vốn là sự theo đuổi lớn nhất cuộc đời đối với một người bình thường.

Advertisement

Nhưng ý ở đây muốn nói, nếu như cuộc sống như vậy làm cho chúng ta cảm thấy thêm áp lực, thêm phiền muộn, không hề có cảm giác hạnh phúc, thì bạn hoàn toàn có thể suy nghĩ theo hướng khác.

Không nhất thiết phải từ bỏ những thứ như biệt thự, xe hơi, chỉ cần từ bỏ việc cố chấp gắn bó với những thứ này, dù kiếm được 1.000.000 mỗi ngày cũng không ngạo mạn, mà mỗi ngày kiếm được 10 đồng cũng không chán chường, muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, không cần gượng ép bản thân, bạn có thể cảm nhận được sự hạnh phúc ngay lập tức.

Người có nội tâm điềm đạm là người ngay cả khi mặc một chiếc áo vải, ăn một bữa cơm đạm bạc, vẫn có thể an nhàn thoải mái, không có chút cảm giác khó chịu hay không vui nào. Cho dù đối mặt với phiền não và sinh tử, họ cũng có thể thản nhiên đối diện, trong lòng không một chút gợn sóng đau khổ, không cần ăn ngon mặc đẹp vẫn cảm thấy yên bình và hạnh phúc.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/kim-che-con-gian-la-ban-linh-can-co-cua-nguoi-truong-thanh-post1455101.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tuổi ấy mình yêu

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn tản văn “Tuổi ấy mình yêu” ghi lại nhiều ký ức về Hà Nội của thế hệ 6X, 7X. Khi ấy thành phố tuy còn nhiều gian khó nhưng đầy lãng mạn với những biệt thự cổ rêu phong, cùng những thanh niên tha thiết yêu đời!

Dòng thời gian miên man đưa ta về những kỷ niệm ấu thơ không thể nào quên. Mùa hè nóng như đổ lửa, chẳng có điều hòa lẫn quạt điện, chỉ đành phe phẩy quạt nan xua đi cái nóng.

Tuoi ay minh yeu anh 1

Cảnh mấy đứa trẻ ngồi ở bể nước công cộng để mẹ tắm rửa là hình ảnh quen thuộc thời bao cấp. Ảnh: Fclikr.

Ở miền ôn đới mà nhiệt độ lên tới 40 thì không thể không coi là sự kiện. Vì thế mà ai chưa kịp trẻ lại, gầy đi, chết vì nóng thì cứ, rất nhiều người thích, tranh thủ cởi gần hết cho da có màu suy nghĩ. Cái màu này, Tây và ngay cả ta chưa từng trải đời này dăm chục năm tha hồ suy nghĩ cũng chả biết là màu gì.

[…]

Advertisement

Thành phố uể oải trong hơi nóng làm người cứ lơ mơ, thương chả ra thương nhớ chẳng ra nhớ, cứ dằng dai lừng khừng. Chẳng biết có phải dân ở những xứ nóng động cái là sùng sục hừng hực lên là vì một năm mấy mùa đã tha hồ uể oải rồi không?

Chiều qua thứ bảy, chỉ còn mấy tiếng nữa cửa hàng cửa họ đóng, đóng cửa luôn ngày chủ nhật là ngày đến Chúa cũng không làm gì (mà còn làm làm gì, sửa sai thế nào được nữa sau khi đã tạo ra con người) nhưng nắng vẫn còn chấp chới trên bờ tường, ngọn cây, mái nhà. Say nắng trưa rồi, không dám đi xa, chỉ lếch thếch ra đầu phố xem có quả dưa hấu nào nhẹ hơn một yến để tha về ăn giải nhiệt chờ mưa.

Mưa thì chưa, dưa thì không nhẹ, chẳng mua bán gì nữa, đi về. Ngang qua cái quán nhỏ đầu phố thấy bàn nào cũng có người ngồi lơ mơ. Có ông lẩn mẩn lúc quờ cốc cà phê đưa lên môi lúc sờ cây bút bi chơi đố chữ.

Có mẹ nạ dòng cháu sớm phom dáng cực kì hùng tráng vẫn chẳng ngần ngại gọi cốc kem to cho xứng người, ăn thi với cháu. Có bà già lim dim mắt xếp tà váy rồi ngồi vắt chân đầy vẻ quý phái khiêu khích kiểu Marlene Dietrich, thay vì điếu thuốc trên tay lại thấy phảy một cái quạt giấy thật là xinh.

Kỷ vật của những ngày nắng hạ Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Tuynidi gì đó đây, không biết cụ mua hay cụ trai nào tặng, mùa hạ vừa đi qua hay từ đời thăm thẳm nỗi niềm nào.

Advertisement

Bất chợt thấy mình chậm bước. Bất chợt hình dung lại, ngày xưa, cũng quạt giấy như này. Bà tóc bạc vấn lẳn trong vành khăn trắng để “trở” ai trong họ chẳng biết. Bà đứng chờ tàu điện chỗ Ô Cầu Dền. Bà luôn luôn có cái quạt trong tay phe phảy cho cháu bám quẩn bên chân.

Bà ngồi chân co chân duỗi đầu tấm phản sau này hạ xuống che cái hầm trú ẩn đào ngay dưới gậm giường rồi cúi người vuốt ngay ngắn ống quần, mở âu giầu, tỉ mẩn tiện miếng vỏ quạch, xé mảnh lá giầu không, bổ nhỏ miếng cau đã bổ sáu từ trước, quết chút vôi trắng, nhúm chút thuốc lào rồi đưa lên miệng, rồi bận bịu dọi lại vành cái quạt nan, xếp lại cái quạt giấy, lầm thầm không biết là mắng đứa cháu nào dùng đồ xong buông quăng bỏ vãi, vô ý vô tứ chẳng biết của bền tại người.

Chao ôi những buổi chiều Hà Nội hết chiến tranh, đã khó nghèo càng thêm khó nghèo vì mẹ mất, nhưng bà còn đó cho chị em mình nương dựa, bà còn đó, giữ lại cho chị em mình những gì còn có thể giữ được, là sự ngây ngô quý giá nhất của tuổi ấu thơ.

Tuoi ay minh yeu anh 2

Cuốn tản văn Tuổi ấy mình yêu của nhà văn Lê Minh Hà. Ảnh: NXB Trẻ.

Cũng cái quạt giấy này, trong bàn tay con gái những ngày cuối cùng đến lớp, giấy trang kim màu tím, nan tre, thằng bạn ngồi bên giằng lấy hỏng luôn chỗ tay cầm, những cái nan rời nhau ra, thế mà nó ra sức khoát tay quạt cho cả mình với nó. Tức mà nghĩ tới những ngày sắp xa đi, gặp lại không biết có đủ tự tin như giờ vẫn hay gây sự với nhau, nghĩ tới cái compa dở hơi nó vẫn nhường mình trong giờ hình học, thôi im vậy.

Bà già váy hoa vẫn đang lơ mơ bên cốc kem phe phẩy cái quạt giấy rõ là xinh. Uể oải thì mình đang uể oải lắm rồi, nhưng có mơ đâu, mà cảm như từ đâu xưa hơi gió từ cái quạt giấy muôn đời. Chỉ phảy nhẹ phảng phất thôi đã đủ làm xao động hơi nóng ngày tháng hạ vì cái mùi hơi thum thủm của những nan quạt vót từ tre ngâm ao bùn.

Advertisement

Ở Hà Nội giờ hay gặp các bà đi tập dưỡng sinh. Khi biểu diễn dưỡng sinh, các bà mặc cả bộ sa tanh đỏ, cứ từng lúc lại khuỵu đầu gối trong tư thế cảm tử lao về phía trước, trong tay là cái quạt hình thù như cái quạt giấy mình quen pạch một cái đồng loạt xòe ra.

Chưa tới gần nên không biết nan quạt bằng tre bằng gỗ hay bằng nhựa, nhưng cái quạt cũng màu đỏ rực, lại có tua rua, xòe ra đều còn hơn các diễn viên hội đoàn tập múa, chỉ còn thiếu hai bím tóc ngắn vểnh ngang tai và trẻ đi dăm chục tuổi là gần bằng diễn viên kinh kịch Bắc Kinh nhảy một cái, xoạc chân một cái, cao giọng á a a trên sân khấu Hà Nội một thời.

Về với Hà Nội, cứ lần nào nhìn thấy những mảnh tam giác đỏ rực ấy chói lọi trong nắng sớm cũng giật mình.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/mua-he-da-xa-post1455038.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Xu hướng