Connect with us

Sách hay

Cuộc hành trình ngôn ngữ của loài người

Được phát hành

,

“Lược sử ngôn ngữ” là lựa chọn hợp lý để có một cái nhìn ngắn gọn và toàn diện về quá trình xuất hiện của công cụ, giao tiếp ngôn ngữ ở con người.

Luoc su ngon ngu anh 1

Đến bây giờ, không còn ai nghi ngờ việc sở hữu khả năng ngôn ngữ phát triển mạnh, linh hoạt và không ngừng tự tiến hóa, thích ứng, hoàn thiện nhanh chóng theo nhu cầu thực tế là một trong những năng lực quan trọng nhất giúp loài người trở nên mạnh mẽ và chiếm lĩnh được thế giới như ngày nay.

Từ đơn giản đến phức tạp, từ nói đến viết, cuộc hành trình của ngôn ngữ đã song hành với tiến trình phát triển của loài người từ những ngày sơ khai nhất. Để hiểu về bản thân mỗi con người cũng như về tất cả loài người, hiểu biết về ngôn ngữ là một phần không thể thiếu.

Với bất cứ ai quan tâm đến khía cạnh này trong chúng ta, Lược sử ngôn ngữ – Chuyện kể về phát minh vĩ đại nhất của loài người (How language began – The story of humanity’s greatest invention) của Daniel L. Everett là một lựa chọn hợp lý để có một cái nhìn ngắn gọn và toàn diện về quá trình xuất hiện của công cụ, giao tiếp ngôn ngữ ở con người, cùng những điểm khác biệt của nó so với giao tiếp ở các loài động vật khác, cũng như những lợi thế nó đem đến cho con người.

Tác giả Everett chia cuốn sách của mình thành bốn phần. Phần một lược thuật lại giai đoạn hình thành các sinh vật linh trưởng nhân hình cũng như các bước tiến ngôn ngữ đầu tiên của các sinh vật này.

Phần hai tập trung vào các đặc điểm tiến hóa sinh học ở loài người nhằm “ưu ái” sự phát triển năng lực ngôn ngữ như một lựa chọn ưu tiên.

Phần ba và phần bốn dành cho hai khía cạnh tiến hóa về hình thức thể hiện của ngôn ngữ cũng như vai trò định hình nên các nền văn hóa của ngôn ngữ khi xã hội văn minh của con người đã hình thành.

Trong phần một “Những tông Hominini đầu tiên”, Daniel L. Everett tập trung vào chủ đề khó có được nhất quán và phải dựa nhiều vào suy đoán: ngôn ngữ hình thành ở loài người nói riêng và trong tự nhiên nói chung từ khi nào?

Chương 1 “Sự trỗi dậy của tông Hominini đầu tiên” điểm lại những học thuyết khác nhau về sự hình thành ngôn ngữ, thực tế của lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ, những đặc trưng của ngôn ngữ.

Trong chương này, thông qua điểm lại lịch sử hình thành sự sống trên Trái Đất nói chung và cây gia hệ của các loài linh trưởng nói riêng, tác giả đã lược thuật lại cách thức thông tin di truyền được lưu giữ và biến đổi qua các thế hệ của mỗi loài sinh vật, cũng như những tác động nội tại và ngoại sinh dẫn tới sự biến đổi, thích nghi với môi trường sống và tiến hóa của các thực thể sống.

Đồng thời, từ cây tiến hóa chung của sinh giới, các loài khỉ nhân hình cũng hình thành nên những mầm mống độc đáo trong tương tác giữa các cá thể, làm cho khả năng tương tác trong bầy đàn của chúng vượt trội hẳn so với những loài sinh vật khác, đặt nền móng cho việc hình thành ngôn ngữ.

Chương 2 “Những kẻ săn tìm hóa thạch” phân tích những bằng chứng khảo cổ từ các hóa thạch người tiền sử đã khẳng định các giả thiết về nguồn gốc loài người từ châu Phi cũng như quá trình thay đổi cấu trúc cơ thể người để thích ứng từ cuộc sống leo trèo truyền thống của các loài linh trưởng sang cuộc sống trên mặt đất với tư thế đứng thẳng, trong đó có những thay đổi về cấu trúc bộ não và cơ quan phát âm, những điều kiện tiên quyết cho sự hình thành tư duy và ngôn ngữ ở con người.

Bên cạnh đó, chương cũng cung cấp thông tin về các bằng chứng trong vật chất di truyền của loài người về một nguồn gốc tổ tiên chung ở châu Phi.

Chương 3 “Sự dịch chuyển của loài người” là câu chuyện về cuộc hành trình của người đứng thẳng Homo erectus rời khỏi châu Phi để rồi lan tỏa sự có mặt của mình trên khắp các vùng đất liền của Trái Đất.

Cuộc hành trình được thực hiện không phải ngẫu nhiên mà có tính toán một cách thông minh. Cuộc dịch chuyển không ngừng của các Homo erectus bản thân nó là một kỳ công vĩ đại của sức mạnh cộng đồng, một minh chứng cho khả năng giao tiếp và tư duy mạnh mẽ họ sở hữu, đồng thời cũng chính sự dịch chuyển đó không ngừng mài sắc tư duy cho người đứng thẳng, đóng vai trò quan trọng trong việc làm ngôn ngữ hình thành, phát triển ở loài người sau này.

Chương 4 “Ai cũng nói ngôn ngữ tín hiệu” bàn về các luận điểm lý thuyết đã được đưa ra về nguồn gốc ngôn ngữ. Từ các hình thức tồn tại hiện hành của ngôn ngữ, từ những ngôn ngữ phát triển cao độ về ngữ pháp, từ vựng, chức năng như tiếng Anh cho tới các ngôn ngữ phi văn tự như ngôn ngữ của tộc người Pirahã.

Từ đó, với xuất phát điểm là sử dụng các chỉ dấu, điều mà mọi động vật đều sử dụng, các loài linh trưởng của chi Homo đã đi xa hơn để chuyển từ chỉ dấu thành hình tượng, rồi đến Homo erectus đã đi xa hơn nữa tới ký hiệu, biểu tượng, và nhiều khả năng đã sở hữu ngôn ngữ đúng nghĩa như các tiến hóa về nhận thức của họ cho thấy.

Phần hai của cuốn sách – “Những thích nghi về mặt sinh học dành cho ngôn ngữ” phân tích những đặc điểm về mặt cấu tạo sinh học con người có được từ quá trình tiến hóa thích nghi để có được khả năng biểu đạt ngôn ngữ, trong khi các loài động vật khác hầu hết không vượt qua được mức độ sử dụng chỉ dấu.

Chương 5 “Con người có bộ não ưu việt hơn” bắt đầu phần này từ yếu tố quan trọng nhất trong việc hình thành, phát triển, sử dụng ngôn ngữ: bộ não. Quá trình tiến hóa của bộ não của loài người đã diễn ra từ khi người và tinh tinh tách ra trên cây tiến hóa (giai đoạn nền tảng), rồi trải qua những bước tiến hóa đã diễn ra với sự xuất hiện của Vượn người phương Nam, của người đứng thẳng để rồi đạt được mức độ tối đa về kích thước cũng như sự tinh vi vào 500.000 năm trước.

Và ở người thông minh hiện đại, bộ não tiếp tục có những tiến hóa để tạo nên con người ưu việt hơn, đặc biệt là dưới sự thúc đẩy của sự kết hợp giữa ngôn ngữ và văn hóa.

Chương 6 “Cách bộ não tổ chức ngôn ngữ” phân tích cấu trúc bộ não người, tập trung vào những bộ phận thực hiện các chức năng liên quan tới ngôn ngữ, những lý thuyết liên quan tới việc bộ não giúp chúng ta vận hành, phát triển chức năng ngôn ngữ của mình, sự linh hoạt của bộ não trong đảm nhận chức năng ngôn ngữ thay vì có những vùng chuyên biệt hóa bẩm sinh cho thấy bộ não có tiềm năng rất lớn trong việc hình thành, thực thi những loại hình hoạt động mới, và ngôn ngữ của nhân loại vẫn còn dư địa để phát triển, hoàn thiện.

Chương 7 “Khi bộ não gặp trục trặc” xem xét mối quan hệ giữa ngôn ngữ và bộ não thông qua mối tương quan giữa các trường hợp suy giảm, thậm chí khuyết thiếu hoàn toàn chức năng ngôn ngữ như hội chứng suy giảm ngôn ngữ chuyên biệt, chứng ASD hay tự kỷ với những dấu hiệu về rối loạn di truyền.

Nhiều giả thiết đã được đưa ra để lý giải các khiếm khuyết về chức năng, hành vi có liên quan tới ngôn ngữ, nhưng không tồn tại rối loạn di truyền chuyên biệt về ngôn ngữ, điều cho thấy ngôn ngữ là một phát minh trong quá trình tồn tại của con người, không phải là một thứ bẩm sinh đã được mã hóa sẵn trong vật chất di truyền của chúng ta.

Chương 8 “Chuyện trò bằng tiếng nói” tập trung vào cấu tạo, hoạt động của cơ quan phát âm của chúng ta, sự tối ưu hóa về cấu trúc của cơ quan này ở con người để khiến chúng ta có thể sử dụng tiếng nói làm phương tiện chuyển tải ngôn ngữ một cách hiệu quả, đồng thời cũng phân tích nguyên do dẫn tới sự hình thành các phương ngữ, các âm khác nhau trong các ngôn ngữ khác nhau.

Phần ba “Sự tiến hóa của hình thức ngôn ngữ” là câu chuyện về sự hoàn thiện của ngôn ngữ từ dạng thể sơ khai nhất – ngôn ngữ nói – tới chỗ trở thành một phương tiện tư duy, giao tiếp ngày càng phức tạp.

Chương 9 “Cội nguồn của ngữ pháp” tóm lược tiến trình điều chỉnh một cách có ý thức và thông minh của con người để hình thức của ngôn ngữ – trước hết là ngôn ngữ nói, dạng nguyên thủy nhất – được mài giũa sao cho ngày càng hiệu quả khi sử dụng, dẫn tới hình thành hệ thống trật tự nhất quán, một thứ ngữ pháp sơ khai là cơ sở tạo nên ngôn ngữ viết ở nhiều thứ tiếng sau này.

Chương 10 “Chuyện trò khi có đôi tay” đề cập tới vai trò của những thành phần đồng hành với ngôn ngữ nói như cử chỉ, thái độ của người nói trong việc tạo nên tổng thể hoàn thiện của ngôn ngữ. Mỗi ngôn ngữ chỉ hoàn thiện khi đi kèm với hệ thống cử chỉ đặc trưng của những cộng đồng người tạo ra ngôn ngữ đó.

Cử chỉ cũng có lịch sử tiến hóa, biến đổi riêng của nó khi đồng hành với sự hình thành, tiến hóa của ngôn ngữ. Thậm chí, với đặc trưng riêng của mình, cử chỉ có thể đạt được mức độ phổ biến không ngôn ngữ nào đạt được, đến mức có thể thay thế ngôn ngữ làm phương tiện giao tiếp trong nhiều trường hợp.

Chương 11 “Vừa đủ tốt” nhấn mạnh vào sự không hoàn hảo của ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một phát minh có sức mạnh lớn lao, nhưng không phải là vạn năng. Hiệu quả của một ngôn ngữ phụ thuộc rất nhiều vào sự hợp tác giữa những người trao đổi bằng ngôn ngữ, những thông tin không được nói ra nhưng cần được ngầm hiểu, suy luận, cũng như văn hóa, ngữ cảnh mà ngôn ngữ được sử dụng.

Phần cuối cùng của cuốn sách -“Sự tiến hóa về văn hóa của ngôn ngữ” gồm một chương duy nhất, chương 12 “Những cộng đồng và sự giao tiếp”. Phần này nhìn nhận ngôn ngữ trong vai trò tạo dựng văn hóa cùng những vấn đề có thể phát sinh khi các nền văn hóa khác nhau tiếp xúc với nhau.

Không thể hiểu trọn vẹn thông điệp một ngôn ngữ đưa ra nếu không hiểu nền văn hóa đi kèm với nó. Bởi mỗi nền văn hóa đều có những giá trị, quy ước riêng, làm cơ sở vận hành cho xã hội của nền văn hóa đó.

Trong thế giới ngày nay, với sự giao thoa ngày càng nhanh và mạnh giữa các nền văn hóa, tạo dựng nên xã hội có các quy tắc tương thích với các nền văn hóa khác nhau cùng tồn tại trong một xã hội là quan trọng để thiết lập, duy trì ổn định, hài hòa trong xã hội.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Zing News

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Zing News mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://zingnews.vn/cuoc-hanh-trinh-ngon-ngu-cua-loai-nguoi-post1437327.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng