Connect with us

Sách hay

Cuộc hành trình ngôn ngữ của loài người

Được phát hành

,

“Lược sử ngôn ngữ” là lựa chọn hợp lý để có một cái nhìn ngắn gọn và toàn diện về quá trình xuất hiện của công cụ, giao tiếp ngôn ngữ ở con người.

Luoc su ngon ngu anh 1

Đến bây giờ, không còn ai nghi ngờ việc sở hữu khả năng ngôn ngữ phát triển mạnh, linh hoạt và không ngừng tự tiến hóa, thích ứng, hoàn thiện nhanh chóng theo nhu cầu thực tế là một trong những năng lực quan trọng nhất giúp loài người trở nên mạnh mẽ và chiếm lĩnh được thế giới như ngày nay.

Từ đơn giản đến phức tạp, từ nói đến viết, cuộc hành trình của ngôn ngữ đã song hành với tiến trình phát triển của loài người từ những ngày sơ khai nhất. Để hiểu về bản thân mỗi con người cũng như về tất cả loài người, hiểu biết về ngôn ngữ là một phần không thể thiếu.

Với bất cứ ai quan tâm đến khía cạnh này trong chúng ta, Lược sử ngôn ngữ – Chuyện kể về phát minh vĩ đại nhất của loài người (How language began – The story of humanity’s greatest invention) của Daniel L. Everett là một lựa chọn hợp lý để có một cái nhìn ngắn gọn và toàn diện về quá trình xuất hiện của công cụ, giao tiếp ngôn ngữ ở con người, cùng những điểm khác biệt của nó so với giao tiếp ở các loài động vật khác, cũng như những lợi thế nó đem đến cho con người.

Tác giả Everett chia cuốn sách của mình thành bốn phần. Phần một lược thuật lại giai đoạn hình thành các sinh vật linh trưởng nhân hình cũng như các bước tiến ngôn ngữ đầu tiên của các sinh vật này.

Phần hai tập trung vào các đặc điểm tiến hóa sinh học ở loài người nhằm “ưu ái” sự phát triển năng lực ngôn ngữ như một lựa chọn ưu tiên.

Phần ba và phần bốn dành cho hai khía cạnh tiến hóa về hình thức thể hiện của ngôn ngữ cũng như vai trò định hình nên các nền văn hóa của ngôn ngữ khi xã hội văn minh của con người đã hình thành.

Trong phần một “Những tông Hominini đầu tiên”, Daniel L. Everett tập trung vào chủ đề khó có được nhất quán và phải dựa nhiều vào suy đoán: ngôn ngữ hình thành ở loài người nói riêng và trong tự nhiên nói chung từ khi nào?

Chương 1 “Sự trỗi dậy của tông Hominini đầu tiên” điểm lại những học thuyết khác nhau về sự hình thành ngôn ngữ, thực tế của lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ, những đặc trưng của ngôn ngữ.

Trong chương này, thông qua điểm lại lịch sử hình thành sự sống trên Trái Đất nói chung và cây gia hệ của các loài linh trưởng nói riêng, tác giả đã lược thuật lại cách thức thông tin di truyền được lưu giữ và biến đổi qua các thế hệ của mỗi loài sinh vật, cũng như những tác động nội tại và ngoại sinh dẫn tới sự biến đổi, thích nghi với môi trường sống và tiến hóa của các thực thể sống.

Đồng thời, từ cây tiến hóa chung của sinh giới, các loài khỉ nhân hình cũng hình thành nên những mầm mống độc đáo trong tương tác giữa các cá thể, làm cho khả năng tương tác trong bầy đàn của chúng vượt trội hẳn so với những loài sinh vật khác, đặt nền móng cho việc hình thành ngôn ngữ.

Chương 2 “Những kẻ săn tìm hóa thạch” phân tích những bằng chứng khảo cổ từ các hóa thạch người tiền sử đã khẳng định các giả thiết về nguồn gốc loài người từ châu Phi cũng như quá trình thay đổi cấu trúc cơ thể người để thích ứng từ cuộc sống leo trèo truyền thống của các loài linh trưởng sang cuộc sống trên mặt đất với tư thế đứng thẳng, trong đó có những thay đổi về cấu trúc bộ não và cơ quan phát âm, những điều kiện tiên quyết cho sự hình thành tư duy và ngôn ngữ ở con người.

Bên cạnh đó, chương cũng cung cấp thông tin về các bằng chứng trong vật chất di truyền của loài người về một nguồn gốc tổ tiên chung ở châu Phi.

Chương 3 “Sự dịch chuyển của loài người” là câu chuyện về cuộc hành trình của người đứng thẳng Homo erectus rời khỏi châu Phi để rồi lan tỏa sự có mặt của mình trên khắp các vùng đất liền của Trái Đất.

Cuộc hành trình được thực hiện không phải ngẫu nhiên mà có tính toán một cách thông minh. Cuộc dịch chuyển không ngừng của các Homo erectus bản thân nó là một kỳ công vĩ đại của sức mạnh cộng đồng, một minh chứng cho khả năng giao tiếp và tư duy mạnh mẽ họ sở hữu, đồng thời cũng chính sự dịch chuyển đó không ngừng mài sắc tư duy cho người đứng thẳng, đóng vai trò quan trọng trong việc làm ngôn ngữ hình thành, phát triển ở loài người sau này.

Chương 4 “Ai cũng nói ngôn ngữ tín hiệu” bàn về các luận điểm lý thuyết đã được đưa ra về nguồn gốc ngôn ngữ. Từ các hình thức tồn tại hiện hành của ngôn ngữ, từ những ngôn ngữ phát triển cao độ về ngữ pháp, từ vựng, chức năng như tiếng Anh cho tới các ngôn ngữ phi văn tự như ngôn ngữ của tộc người Pirahã.

Từ đó, với xuất phát điểm là sử dụng các chỉ dấu, điều mà mọi động vật đều sử dụng, các loài linh trưởng của chi Homo đã đi xa hơn để chuyển từ chỉ dấu thành hình tượng, rồi đến Homo erectus đã đi xa hơn nữa tới ký hiệu, biểu tượng, và nhiều khả năng đã sở hữu ngôn ngữ đúng nghĩa như các tiến hóa về nhận thức của họ cho thấy.

Phần hai của cuốn sách – “Những thích nghi về mặt sinh học dành cho ngôn ngữ” phân tích những đặc điểm về mặt cấu tạo sinh học con người có được từ quá trình tiến hóa thích nghi để có được khả năng biểu đạt ngôn ngữ, trong khi các loài động vật khác hầu hết không vượt qua được mức độ sử dụng chỉ dấu.

Chương 5 “Con người có bộ não ưu việt hơn” bắt đầu phần này từ yếu tố quan trọng nhất trong việc hình thành, phát triển, sử dụng ngôn ngữ: bộ não. Quá trình tiến hóa của bộ não của loài người đã diễn ra từ khi người và tinh tinh tách ra trên cây tiến hóa (giai đoạn nền tảng), rồi trải qua những bước tiến hóa đã diễn ra với sự xuất hiện của Vượn người phương Nam, của người đứng thẳng để rồi đạt được mức độ tối đa về kích thước cũng như sự tinh vi vào 500.000 năm trước.

Và ở người thông minh hiện đại, bộ não tiếp tục có những tiến hóa để tạo nên con người ưu việt hơn, đặc biệt là dưới sự thúc đẩy của sự kết hợp giữa ngôn ngữ và văn hóa.

Chương 6 “Cách bộ não tổ chức ngôn ngữ” phân tích cấu trúc bộ não người, tập trung vào những bộ phận thực hiện các chức năng liên quan tới ngôn ngữ, những lý thuyết liên quan tới việc bộ não giúp chúng ta vận hành, phát triển chức năng ngôn ngữ của mình, sự linh hoạt của bộ não trong đảm nhận chức năng ngôn ngữ thay vì có những vùng chuyên biệt hóa bẩm sinh cho thấy bộ não có tiềm năng rất lớn trong việc hình thành, thực thi những loại hình hoạt động mới, và ngôn ngữ của nhân loại vẫn còn dư địa để phát triển, hoàn thiện.

Chương 7 “Khi bộ não gặp trục trặc” xem xét mối quan hệ giữa ngôn ngữ và bộ não thông qua mối tương quan giữa các trường hợp suy giảm, thậm chí khuyết thiếu hoàn toàn chức năng ngôn ngữ như hội chứng suy giảm ngôn ngữ chuyên biệt, chứng ASD hay tự kỷ với những dấu hiệu về rối loạn di truyền.

Nhiều giả thiết đã được đưa ra để lý giải các khiếm khuyết về chức năng, hành vi có liên quan tới ngôn ngữ, nhưng không tồn tại rối loạn di truyền chuyên biệt về ngôn ngữ, điều cho thấy ngôn ngữ là một phát minh trong quá trình tồn tại của con người, không phải là một thứ bẩm sinh đã được mã hóa sẵn trong vật chất di truyền của chúng ta.

Chương 8 “Chuyện trò bằng tiếng nói” tập trung vào cấu tạo, hoạt động của cơ quan phát âm của chúng ta, sự tối ưu hóa về cấu trúc của cơ quan này ở con người để khiến chúng ta có thể sử dụng tiếng nói làm phương tiện chuyển tải ngôn ngữ một cách hiệu quả, đồng thời cũng phân tích nguyên do dẫn tới sự hình thành các phương ngữ, các âm khác nhau trong các ngôn ngữ khác nhau.

Phần ba “Sự tiến hóa của hình thức ngôn ngữ” là câu chuyện về sự hoàn thiện của ngôn ngữ từ dạng thể sơ khai nhất – ngôn ngữ nói – tới chỗ trở thành một phương tiện tư duy, giao tiếp ngày càng phức tạp.

Chương 9 “Cội nguồn của ngữ pháp” tóm lược tiến trình điều chỉnh một cách có ý thức và thông minh của con người để hình thức của ngôn ngữ – trước hết là ngôn ngữ nói, dạng nguyên thủy nhất – được mài giũa sao cho ngày càng hiệu quả khi sử dụng, dẫn tới hình thành hệ thống trật tự nhất quán, một thứ ngữ pháp sơ khai là cơ sở tạo nên ngôn ngữ viết ở nhiều thứ tiếng sau này.

Chương 10 “Chuyện trò khi có đôi tay” đề cập tới vai trò của những thành phần đồng hành với ngôn ngữ nói như cử chỉ, thái độ của người nói trong việc tạo nên tổng thể hoàn thiện của ngôn ngữ. Mỗi ngôn ngữ chỉ hoàn thiện khi đi kèm với hệ thống cử chỉ đặc trưng của những cộng đồng người tạo ra ngôn ngữ đó.

Cử chỉ cũng có lịch sử tiến hóa, biến đổi riêng của nó khi đồng hành với sự hình thành, tiến hóa của ngôn ngữ. Thậm chí, với đặc trưng riêng của mình, cử chỉ có thể đạt được mức độ phổ biến không ngôn ngữ nào đạt được, đến mức có thể thay thế ngôn ngữ làm phương tiện giao tiếp trong nhiều trường hợp.

Chương 11 “Vừa đủ tốt” nhấn mạnh vào sự không hoàn hảo của ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một phát minh có sức mạnh lớn lao, nhưng không phải là vạn năng. Hiệu quả của một ngôn ngữ phụ thuộc rất nhiều vào sự hợp tác giữa những người trao đổi bằng ngôn ngữ, những thông tin không được nói ra nhưng cần được ngầm hiểu, suy luận, cũng như văn hóa, ngữ cảnh mà ngôn ngữ được sử dụng.

Phần cuối cùng của cuốn sách -“Sự tiến hóa về văn hóa của ngôn ngữ” gồm một chương duy nhất, chương 12 “Những cộng đồng và sự giao tiếp”. Phần này nhìn nhận ngôn ngữ trong vai trò tạo dựng văn hóa cùng những vấn đề có thể phát sinh khi các nền văn hóa khác nhau tiếp xúc với nhau.

Không thể hiểu trọn vẹn thông điệp một ngôn ngữ đưa ra nếu không hiểu nền văn hóa đi kèm với nó. Bởi mỗi nền văn hóa đều có những giá trị, quy ước riêng, làm cơ sở vận hành cho xã hội của nền văn hóa đó.

Trong thế giới ngày nay, với sự giao thoa ngày càng nhanh và mạnh giữa các nền văn hóa, tạo dựng nên xã hội có các quy tắc tương thích với các nền văn hóa khác nhau cùng tồn tại trong một xã hội là quan trọng để thiết lập, duy trì ổn định, hài hòa trong xã hội.

Nguồn: https://zingnews.vn/cuoc-hanh-trinh-ngon-ngu-cua-loai-nguoi-post1437327.html

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng