Connect with us

Sách hay

Bách khoa thư về vợ

Được phát hành

,

Đi sâu vào những câu chuyện về vợ trong các xã hội từ cổ đại cho đến hiện đại, “Lịch sử vợ” cung cấp một bức tranh về sự thay đổi trong vị trí và quyền lợi của phụ nữ, mở ra các cuộc đối thoại về quyền bình đẳng giới.

Lich su vo anh 1
Sách Lịch sử vợ. Ảnh: NXB Phụ nữ Việt Nam.

Lịch sử vợ là một công trình biên khảo chuyên sâu của Giáo sư Pháp ngữ và văn học so sánh Marilyn Yalom – từng là Giám đốc của CROW, tiền thân Viện Nghiên cứu Giới Clayman – Đại học Stanford, được dịch giả Nguyễn Thị Minh dịch sang tiếng Việt.

Vợ trong các xã hội từ cổ đại cho đến hiện đại

Cuốn sách như một bách khoa thư, khám phá vai trò và hình ảnh của người vợ trong các nền văn hóa khác nhau; tìm hiểu đời sống muôn hình vạn trạng các kiểu vợ trong những cảnh ngộ, trạng thái khác nhau, từ vợ linh mục đến vợ người đàn ông thế tục, từ vợ tổng thống đến vợ dân thường, thương nhân và thợ thủ công, từ vợ da trắng đến vợ da đen, da màu, vợ công dân tự do đến vợ nô lệ, vợ quý tộc đến vợ nông dân… qua hàng nghìn năm lịch sử.

Lịch sử vợ bắt đầu bằng cuộc trao đổi về quyền tự do lựa chọn, quyền lấy mình làm trung tâm trong cân nhắc về hôn nhân cho người phụ nữ phương Tây thế kỷ XXI. Và từ cuộc trao đổi này, tác giả đi ngược dòng thời gian, trở về hoàn cảnh của những người vợ bắt đầu từ thời xa xưa và mở ra viễn tượng về người vợ mới cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI.

Theo tác giả, vào thời Hy Lạp, La Mã cổ đại và Kinh thánh: Vợ thường bị xem như tài sản của chồng, phụ thuộc hoàn toàn vào người đàn ông trong gia đình cả về mặt kinh tế lẫn mặt tình cảm. Hôn nhân thường được xây dựng vì mục đích liên minh chính trị giữa các gia tộc hơn là tình yêu. Dẫu vậy, ở La Mã, tình cảm vợ chồng đã được coi là điều đáng ham muốn, có những cặp vợ chồng huyền thoại đồng sinh đồng tử như Antony và Cleopatra.

Thời Trung cổ và Phục hưng: Vợ vẫn bị xem là tài sản của chồng, hôn nhân vẫn mang tính chất liên minh chính trị, nhưng vị thế của người vợ có phần được nâng cao hơn.

Đặc biệt, trong thời Trung cổ, diễn ngôn tôn giáo bao trùm đời sống xã hội ca tụng sự trinh trắng và tìm cách đè nén, khiến con người xấu hổ che giấu khoái lạc trong tình dục, song vẫn có những người vợ để lại bằng chứng về khát khao nhục cảm mãnh liệt đối với chồng. Đây cũng chính là thời kỳ ra đời tình yêu lãng mạn kiểu hiệp sĩ, gắn với một thể loại văn học được xem là do phụ nữ tạo ra.

Còn trong thời Phục hưng, những cải cách về tôn giáo và hôn nhân của Luther, tiếng nói đòi tình yêu tự do của con trẻ chống lại sự sắp đặt của phụ huynh trong sáng tác của Shakespeare… đã nổi lên.

Thời Cách mạng và Victoria: Trong suốt thời kỳ Cách mạng Pháp, người phụ nữ có điều kiện tiếp cận với giáo dục nhiều hơn, địa vị của họ cũng được nâng cao. Phụ nữ nói chung và người vợ nói riêng tham gia thường xuyên hơn vào các diễn ngôn chính trị. Hôn nhân hiện đại ở phương Tây được nhiều nhà sử học đồng ý là xuất hiện trong khoảng thời gian giữa Cách mạng Mỹ (1765 – 1783) và khoảng năm 1830.

Suốt khoảng thời gian này, tình yêu đã trở thành tiêu chuẩn chọn bạn đời, bên cạnh các tiêu chuẩn khác như tầng lớp, kinh tế… Một điều đáng lưu ý là thế kỷ XIX chứng kiến sự bùng nổ của nhiều cuộc cách mạng xã hội, trong đó, phong trào nữ quyền bắt đầu đặt nghi vấn về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng. Phụ nữ bắt đầu yêu cầu quyền ly hôn và tự quyết định cuộc đời.

Thế kỷ XX và hiện đại: Hai cuộc Thế chiến đã thay đổi rất nhiều khía cạnh trong đời sống lẫn địa vị của phụ nữ và người vợ. Chồng và vợ cùng san sẻ các trách nhiệm và nghĩa vụ trong gia đình, từ việc chăm sóc con cái đến việc kiếm thu nhập nuôi sống gia đình. Vợ trở thành một cá nhân độc lập với sự nghiệp và ước mơ riêng.

Lich su vo anh 2
Tranh sử dụng làm ảnh bìa 1 cuốn sách: The Banquet of Cleopatra của Giovanni Battista Tiepolo. Nguồn: Wikipedia.

Quá trình khẳng định vị trí của người vợ – Một hành trình chông gai

Một điều thú vị mà ta sẽ tìm thấy trong Lịch sử vợ là vợ trở thành đối tượng để nghiên cứu khoa học. Bằng vô số khảo cứu công phu, những câu chuyện thú vị, bao quát từ thế giới cổ đại cho đến hiện đại, tác giả chứng minh vợ là một phạm trù có tính lịch sử.

Theo tác giả, “Sử tính” của vợ ít nhất gắn với hai điều. Thứ nhất, các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hình thành nên hoàn cảnh làm vợ, cùng những kiến tạo văn hóa quy định thế nào là vợ tốt/vợ xấu thay đổi theo thời gian, không gian, văn hóa.

Không có một quy chuẩn duy nhất, bất biến cho điều này. Vợ bị dạy phải xấu hổ nếu bộc lộ ham muốn dục tình trong thời Trung cổ, thậm chí sau này bị mô tả như là vô tính, thì sang thời hiện đại, diễn ngôn tiêu dùng lại khiến vợ lo lắng nếu không có ham muốn.

Trong thời suy thoái, vợ bị khuyên không nên đi làm, không cướp công việc của đàn ông, không làm mất đi nam tính hay sự tự tin của nam giới, thì khi chiến tranh nổ ra, người ta lại khuyến khích vợ phải ra ngoài lao động, làm việc, thế thì mới là yêu nước, yêu chồng và sớm đưa chồng trở về…

Thứ hai, cách những người vợ nhận thức về bản thân mình và xoay xở trong định chế hôn nhân, gia đình, cũng như tuân phục và thách thức các kỳ vọng, khuôn mẫu ở các thời đại cũng khác nhau.

Trong nghiên cứu khoa học, gia đình được xem là một định chế, và nhiều nhà nữ quyền cho rằng đây là địa hạt mà trong đó chế độ gia trưởng đặc biệt bộc lộ sức mạnh của nó, và phụ nữ bị áp bức.

Người vợ trong hôn nhân truyền thống gần như phụ thuộc hoàn toàn vào người chồng cả về tài chính lẫn tình cảm, dẫn đến việc phụ nữ không thể tự định hình cuộc sống của họ, vì mọi quyết định quan trọng trong gia đình đều do người chồng nắm quyền.

Lich su vo anh 3
Tác giả Marilyn Yalom. Nguồn: NYT.

Nhiều nhà nghiên cứu nữ quyền có cái nhìn tiêu cực về hôn nhân. Carole Pateman, lý thuyết gia chính trị nữ quyền, lập luận rằng trong lịch sử, người vợ về mặt pháp lý và xã hội giống như nô lệ. Còn nhà nữ quyền Pháp Simone de Beauvoir, người nổi tiếng với câu nói “người ta không sinh ra là phụ nữ, mà trở thành phụ nữ”, kiên quyết từ chối hôn nhân.

Tuy nhiên, Marilyn Yalom lại có một quan điểm tương đối lạc quan về địa vị, về việc làm vợ. Bà khẳng định: “Trong những điều kiện nào đó, việc có vợ và trở thành vợ vẫn là ‘một điều tốt’. Những điều kiện này liên quan đến sự bình đẳng tương đối giữa hai người hôn phối, tôn trọng và yêu quý lẫn nhau”.

Tác giả cũng nhắc đến giá trị của hôn nhân bền lâu đối với con người: “Vượt qua giông bão thời kỳ đầu và giữa của cuộc hôn nhân – sự hỗn loạn của con cái, sự không chung thủy của một hoặc cả hai vợ chồng, cái chết của cha mẹ, những nỗ lực đấu tranh để trưởng thành của con cái mình – có thể tạo ra sự gắn bó không thể thay thế được đối với người đã chia sẻ lịch sử đó cùng bạn”.

Mặc dù, Lịch sử vợ của Marilyn Yalom tập trung vào hình ảnh vợ trong thế giới phương Tây, có nhiều điều thú vị có thể làm dữ liệu cho những so sánh liên văn hóa. Những vấn đề tác giả nói về tầm quan trọng của việc sinh con đối với người phụ nữ mang thân phận làm vợ suốt từ thời Kinh Thánh cho đến hiện đại có thể được hình tượng hóa trong nhiều tác phẩm văn chương, điện ảnh Việt Nam.

Tóm lại, Lịch sử vợ là một hành trình về các thách thức mà phụ nữ đã và đang đối mặt trong vai trò làm vợ, làm mẹ. Sách giúp độc giả nhận ra những khuôn mẫu xã hội, định kiến và vai trò giới trong hôn nhân mà lâu nay bị nhiều lớp màn che phủ, giúp độc giả thấy được quá trình từ bị xem là tài sản đến trở thành đối tác bình đẳng trong hôn nhân của phụ nữ chông gai đến thế nào.

Nguồn: https://znews.vn/bach-khoa-thu-ve-vo-post1508907.html

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng