Connect with us

Sách hay

Cái nhìn đầy đủ về Chiến tranh thế giới thứ Hai

Được phát hành

,

Thế chiến thứ Hai là một trong những giai đoạn giàu kịch tính, cuốn hút nhất trong toàn bộ chiều dài lịch sử đầy thăng trầm của loài người. 

Thế chiến thứ Hai là cuộc xung đột vũ trang có quy mô lớn nhất, gây thiệt hại nặng nề nhất trong lịch sử loài người và có ảnh hưởng lâu dài tới thế giới trong suốt nửa sau thế kỷ 20, thậm chí “dư chấn” của cuộc chiến này còn tác động tới cuộc sống ngày nay. Ngoài ra, với những ai yêu thích tìm hiểu và đọc về lịch sử, Thế chiến thứ Hai cũng là một trong những giai đoạn giàu kịch tính, cuốn hút nhất trong toàn bộ chiều dài lịch sử đầy thăng trầm của loài người.

Tuy nhiên, đây cũng là một cuộc chiến quá kỳ vĩ, phức tạp, với nhiều khía cạnh hết sức đa dạng tới mức những tác giả viết về nó cho tới nay vẫn chưa cạn nguồn khai thác để đưa ra những cuốn sách mới về Thế chiến thứ Hai, còn người đọc có lẽ sẽ ngợp trước số lượng khổng lồ những cuốn sách dày mỏng, từ phổ thông tới chuyên sâu, từ tổng hợp tới chi tiết, viết về từng khía cạnh, câu chuyện cụ thể hay về cả cuộc chiến.

Để bắt đầu tìm hiểu về Thế chiến thứ Hai, có lẽ cách hay nhất là xuất phát từ một cuốn sách không quá nặng nề cả về mức độ học thuật của nội dung lẫn số trang sách cung cấp cho ta một cái nhìn đầy đủ, toàn diện, tuần tự về những biến cố chính yếu nhất của cuộc xung đột chấn động thế giới này từ đầu đến cuối. Với bạn đọc Việt Nam, Thế chiến thứ Hai (The second World War) của Anthony Beevor vừa được chuyển ngữ sang tiếng Việt là một lựa chọn có lẽ sẽ khiến đa số độc giả háo hức tìm hiểu về thời kỳ lịch sử đầy biến động này cảm thấy hài lòng.

Anthony Beevor là một tác giả người Anh chuyên về chủ đề lịch sử, trong đó các đầu sách nổi tiếng nhất của ông chủ yếu có chủ đề về thời kỳ Thế chiến thứ Hai.

Advertisement

Thế chiến thứ Hai chính là cuốn ký sự tóm lược lại trọn vẹn tiến trình của cuộc xung đột đã làm rung chuyển thế giới suốt từ tháng 9/1939 đến tháng 9/1945. Thu gọn sáu năm khốc liệt với những chiến trường nằm rải khắp châu Âu, châu Á và châu Phi và bốn trong năm đại dương trên Trái Đất chỉ trong gần 1.200 trang sách quả là một kỳ công của tác giả, một nỗ lực lớn lao để đưa đến cho người đọc một cái nhìn chỉnh thể trọn vẹn của cuộc Thế chiến chỉ trong khuôn khổ của một cuốn sách duy nhất.

Thế chiến thứ Hai bao gồm một phần dẫn nhập và 50 chương nội dung chính thức. Phần dẫn nhập tóm lược ngắn gọn bối cảnh quốc tế từ khi Thế chiến thứ Nhất kết thúc đến những ngày cuối cùng trước khi Thế chiến thứ Hai bùng nổ. Với những ai tò mò muốn tìm hiểu về thời kỳ này song chưa quen thuộc về nó, phần dẫn nhập cung cấp một hiểu biết nền vừa đủ để tất cả bạn đọc bước vào nội dung chính của sách đã được chuẩn bị để hiểu nguyên do dẫn tới các biến cố của Thế chiến thứ Hai.

Chương 1 “Chiến tranh nổ ra” là câu chuyện về 3 tháng cuối cùng trước thời điểm ngày 1/9/1939. Đó là quãng thời gian với nhiều biến động lớn như xung đột Xô – Nhật ở Mông Cổ, đỉnh điểm là trận Khankhil Gol, đánh dấu khẳng định tài cầm quân của Georghi Zhukov cũng như quyết định diễn biến về sau ở mặt trận châu Á – Thái Bình Dương, hay sự căng thẳng tăng dần tại châu Âu, nhất là giữa Đức và Ba Lan, sau cuộc xâu xé Tiệp Khắc trước đó, và những nỗ lực ngoại giao bất thành để ngăn cản sự bành trướng của nước Đức Quốc xã do sự nghi ngờ lẫn nhau giữa Anh – Pháp và Liên Xô, dẫn tới việc ký kết hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau giữa Liên Xô và Đức vào những ngày cuối tháng 8/1939. Tất cả đã quá muộn để ngăn cơn ác mộng không trở thành hiện thực.

Từ chương 2 đến chương 11 là diễn biến của Thế chiến thứ Hai từ tháng 9/1939 đến trước ngày Đức tấn công Liên Xô. Anthony Beevor để phần này để tường thuật lại chiến dịch Ba Lan (chương 2), nơi “chiến tranh chớp nhoáng” của người Đức lần đầu tiên cho thấy sức mạnh khủng khiếp của nó, cũng như “cuộc chiến Cuội” (chương 3) – thời kỳ án binh bất động của liên quân Anh – Pháp ở mặt trận phía Tây từ tháng 9/1939 đến tháng 4/1940, bất chấp cam kết trợ giúp Ba Lan. Chương 5 đến chương 7 là câu chuyện về chiến dịch thắng như chẻ tre của Đức khi đánh chiếm Na Uy, Đan Mạch rồi ngoặt sang phía tây đánh tan tác liên quân Pháp – Anh, buộc nước Pháp phải đình chiến, trên thực tế gần như là đầu hàng, vào tháng 6/1940.

Từ chương 8 đến chương 11 là quãng thời gian nước Anh đứng một mình cự lại sức mạnh của Đức Quốc xã, cùng diễn biến của chiến cuộc tại Bắc Phi, trên biển Đại Tây Dương, nơi người Anh phải chiến đấu bảo vệ lãnh thổ thuộc địa và các tuyến đường tiếp vận sống còn cho sự sinh tồn của mình, cũng như diễn biến chiến tranh tại Balkan, bước chuẩn bị cuối cùng của Hitler trước khi tấn công Liên Xô. Ngoại lệ duy nhất ở phần đầu này là chương 4, nơi Beevor hồi cứu lại ngược thời gian cuộc chiến Trung – Nhật đã khởi đầu từ năm 1931 và lan rộng năm 1937, để rồi chính thức trở thành một phần của Thế chiến thứ Hai từ tháng 9/1939.

Advertisement

Từ chương 12 đến chương 23 là giai đoạn ngọn lửa chiến tranh của Thế chiến thứ Hai đạt tới đỉnh điểm khi Đức tấn công Liên Xô vào tháng 6/1941, khơi mào cho mặt trận trên bộ ác liệt nhất của cuộc chiến, rồi sau đó Nhật tấn công hạm đội Mỹ vào tháng 12/1941, bắt đầu cuộc hải chiến lớn nhất của Thế chiến thứ Hai trên mặt Thái Bình Dương.

Giai đoạn đầu của cuộc Thế chiến giờ đây đã ở vào mức khốc liệt nhất của nó đánh dấu thắng lợi vang dội của phe Trục. Người Đức liên tục đẩy lùi Hồng quân Liên Xô và tiến sát Moskva trước khi chịu thất bại đầu tiên trong cuộc chiến trước cửa ngõ thủ đô Liên Xô, buộc phải rút lui chỉ ngay trước khi người Nhật kéo nước Mỹ vốn cố hết sức trung lập ở ngoài cuộc vào vòng chiến sau cuộc tập kích Trân Châu Cảng ngày 7/12/1941, rồi sau đó ào ạt chiếm toàn bộ Đông Nam Á cùng một vùng rộng lớn trên Thái Bình Dương.

Hệ quả của các biến cố này là bước ngoặt quan trọng bậc nhất cuộc chiến: sự hình thành phe Đồng Minh do Liên Xô – Mỹ – Anh là ba trụ cột lớn vào đầu năm 1942 với mục tiêu đánh bại triệt để phe Trục (Đức – Italy – Nhật) và vãn hồi hòa bình trên toàn cầu. Dù vẫn chiếm ưu thế tạm thời, sức mạnh của phe Trục đã chứng tỏ những giới hạn của nó với các thất bại của Đức tại Moskva mùa đông năm 1941 (chương 15), của Nhật tại Midway vào tháng 6/1942 (chương 20) cùng các thất bại thê thảm của Italy trước đó tại Balkan (chương 10), Bắc Phi và Đông Phi (chương 11, 21).

Những nỗ lực quan trọng cuối cùng nhằm giành được thắng lợi quyết định của Đức (chương 22) và Nhật (chương 23) trong nửa cuối năm 1942 cũng vấp phải những khó khăn lớn do sự giáng trả quyết liệt của phe Đồng Minh, báo hiệu gió sắp đổi chiều.

Phần còn lại của “Thế chiến thứ Hai”, từ chương 24 đến chương 50, chiếm già nửa số trang của cuốn sách, là câu chuyện các nước Đồng Minh phản kích đánh bại phe Trục trên tất cả các mặt trận. Tại mặt trận Xô – Đức, trận Stalingrad (chương 24) đã đẩy Đức Quốc xã vào thế bị động rồi từ đó đi từ thất bại này tới thất bại khác.

Advertisement

Tại Bắc Phi, thất bại tại El Alamein vào cuối năm 1942 (chương 25) là khởi đầu cho thất bại hoàn toàn của Đức – Italy trên lục địa Đen. Chương 26 đến chương 30 điểm qua chiến sự giằng co trên khắp các chiến trường ở châu Âu, châu Á và châu Phi.

Chương 31 đến chương 40 tường thuật lại chủ yếu chiến cuộc giữa các nước Đồng Minh và Đức – Italy trong giai đoạn 1943-1944, bắt đầu từ nỗ lực tấn công mùa hè cuối cùng của người Đức vào tháng bảy năm 1943 ở Kursk (chương 31) tới cuộc tấn công của Anh – Mỹ lên Sicily và bán đảo Italy (chương 32). Tình hình thuận lợi cho thấy thắng lợi của phe Đồng Minh chỉ còn là vấn đề thời gian, chiến lược hành động của Đồng Minh được thống nhất trong hội nghị Tehran (chương 33). Italy nhanh chóng bị đánh bại, đổi phe – ngoại trừ một lực lượng nhỏ rút lên phía bắc cố thủ (chương 35). Mùa thu-đông 1943 và mùa xuân 1944 đánh dấu những cuộc tấn công liên tục của Liên Xô trên mặt trận phía Đông và Anh – Mỹ tại Italy.

Để rồi cuộc đổ bộ lên Normandy và chiến dịch Bagration (chương 39) làm quân Đức thua lớn phải rút lui trên cả hai mặt trận, dẫn tới binh biến trong nội bộ nước Đức với cuộc ám sát hụt Hitler (20 tháng bảy năm 1944), Paris được giải phóng (tháng tám năm 1944), trong khi lực lượng kháng chiến tại nhiều quốc gia bị chiếm đóng khác cũng vùng dậy như cuộc nổi dậy tại Warszawar (chương 40).

Trong khi phe Đồng Minh chủ trương “Đức trước”, chiến sự tại châu Á – Thái Bình Dương vẫn tiếp tục ác liệt (chương 37), người Nhật vẫn giành được một số thắng lợi trên lục địa tại Trung Quốc hay chiếm được Miến Điện, song ngày càng lâm vào thế hạ phong trước sức mạnh hải quân ngày càng vượt trội của Mỹ.

Người Nhật thắng lợi trong chiến dịch Ichi-Go để tạo hành lang nối thông vùng kiểm soát ở Trung Quốc với Đông Dương, nhưng hạm đội Nhật gần như tan tành trong hải chiến vịnh Leyte (chương 41). Từ đây, trên biển người Nhật chỉ còn biết cố thủ cảm tử các hòn đảo để làm chậm bước tiến của quân Mỹ tới các đảo nhà của nước Nhật mà không còn khả năng phản kích.

Advertisement

Những chương cuối của “Thế chiến thứ Hai” dành cho các cuộc phản kích của Đồng Minh tại châu Âu trên mặt trận phía Tây và Balkan (chương 43), mặt trận Xô – Đức (chương 44), tại châu Á trong cuộc chiến tranh “nhảy cóc” chiếm đảo của người Mỹ (chương 45).

Chương 46 đến chương 48 kể lại cuộc gặp thượng đỉnh thứ hai của nguyên thủ Liên Xô – Mỹ – Anh tại Yalta trên bán đảo Crimea mới được Liên Xô giải phóng chưa lâu để dàn xếp về tương lai hậu chiến của châu Âu và thế giới, các cuộc tấn công đồng thời từ hai hướng đông và tây (chương 46, 47) và trận chiến đánh chiếm Berlin (chương 48).

Chương 49 và chương 50 là đoạn kết của nước Nhật: những cuộc không kích dữ dội vào các thành phố của Nhật Bản, lần đầu tiên vũ khí phân hạch được sử dụng trên thực tế và cho thấy sức hủy diệt khủng khiếp của nó, và cuối cùng là quyết định đầu hàng vô điều kiện của người Nhật để tránh cho các đảo nhà của họ phải chịu thêm tàn phá.

Sáu năm chiến tranh khốc liệt với quá nhiều biến cố xảy ra ở những địa điểm quá xa nhau sẽ rất khó để độc giả theo dõi, vì vậy, “Thế chiến thứ Hai” được bổ sung 24 bản đồ về tình hình các chiến trường, các trận đánh quan trọng cùng một phụ lục ảnh tư liệu giúp người đọc có cái nhìn trực quan hơn, làm cho các tường thuật từ ngữ trở nên sống động, dễ hiểu và gần gũi hơn.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Zing News

Advertisement

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Zing News mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://zingnews.vn/cai-nhin-day-du-ve-chien-tranh-the-gioi-thu-hai-post1446248.html

Advertisement
Tiếp tục đọc
Quảng cáo
Nhấn vào đây để bình luận

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sách hay

Lịch sử chưa kể về ramen

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một khảo cứu thú vị về lịch sử món mì ramen ở Nhật Bản thông qua lăng kính phân tích và mối liên hệ chặt chẽ của món ăn với địa lý, chính trị, quan hệ đối ngoại, khoa học dinh dưỡng, truyền thông và bản sắc dân tộc.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 cho thấy Zhu Shun Shui đã chỉ cho Mitsukuni (cận vệ của Tokugawa Mitsukuni) cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa.

Mì ramen được giới thiệu lần đầu đến Nhật Bản vào năm 1665, năm 1884 hay năm 1910? Tiền thân của nó liệu có phải là món ăn được gọi với cái tên ūshin udon, Nankin soba hay Shina soba? Tùy thuộc vào câu trả lời mà chúng ta sẽ nghiệm suy về từng món ăn khác nhau với một giai thoại nguồn cội riêng, cùng một quỹ đạo lịch sử đặc thù mang đến các góc nhìn cụ thể về đất nước Nhật Bản. […]

Mi ra men anh 1

Bìa cuốn sách

Giai thoại đầu tiên, và cũng sống động nhất, đã xuất hiện ban đầu trong công trình nghiên cứu mang tính tiên phong về lịch sử của mì ramen (được xuất bản năm 1987) của nhà sử học về ẩm thực Kosuge Keiko, trong đó ấn định thời điểm món ăn này được trình làng là vào những năm 1660, đồng thời cho rằng Tokugawa Mitsukuni (tên khác là Mito Kōmon, 1628 − 1701) – vị lãnh chúa huyền thoại thời phong kiến (daimyō) nắm hàng thứ hai sau Mạc chủ (shōgun) (1) – là người đầu tiên thưởng thức món mì ramen ở Nhật Bản.

Là nhân vật lịch sử nổi tiếng ở Nhật và từng được một bộ phim truyền hình dài tập mô tả như một vị hảo hán, ở gần cuối mỗi tập phim, Tokugawa Mitsukuni thường tiết lộ danh tính của mình cho những kẻ xấu bằng cách để lộ ra hình ảnh chiếc inrō (hộp đựng trang trí sơn mài kích cỡ nhỏ) có khắc gia huy của dòng họ ông, cho thấy ông là vị daimyō trong vùng.

Advertisement

Câu thoại “Ngươi không nhận ra gia huy này sao?” (Kono mondokoro ga me ni hairanuka?) được Kaku-san (cận vệ của Mitsukuni) nhắc lại trong đoạn cao trào của mỗi tập phim nhằm khôi phục lại trật tự và cấp bậc, và khiến những kẻ bất lương ngang ngược phải lập tức cầu xin sự khoan hồng.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 về các hoạt động của Mitsukuni cho thấy rằng Zhu Shun Shui – một người Trung Quốc tị nạn khỏi chính quyền nhà Minh sống ở Mito vào thời điểm đó (2) – đã chỉ cho Mitsukuni cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa nhiều khả năng chính là món mì ramen ngày nay (3).

Mặc dù Mitsukuni được biết đến nhiều nhất trong lịch sử Nhật Bản khi đã khởi xướng kế hoạch kỳ vĩ biên soạn nên Dai Nihon Shi – hay Lịch sử vĩ đại của Nhật Bản – một cuốn sách mất gần 250 năm và mười thế hệ để hoàn thành, ông cũng là một người ca tụng triết học Lý học (Neo- Confucianism) (4) và đã tìm đến Trung Quốc để được soi đường chỉ lối cách trị nước.

Ông do vậy đã tham vấn và kết giao với Zhu, người trước đó từng nắm chức thượng quan ở Trung Quốc dưới thời nhà Minh nhưng quyết định đến Nhật Bản vào năm 1665 do phải lưu vong khỏi chế độ cai trị của Mãn Châu.

Mi ra men anh 2

Lãnh chúa Tokugawa Mitsukuni. Nguồn: wikipedia.

Zhu trở thành một trong những cố vấn quan trọng nhất của Mitsukuni, và làm việc trong chính quyền cai trị của ông này trong 17 năm tiếp theo cho đến khi qua đời vào năm 1682. Vai trò quan trọng của Zhu trong đội ngũ cố vấn của vị daimyō đã giúp ông có được một cuộc sống thoải mái, cùng một bia mộ nổi bật còn tồn tại cho đến ngày nay trong khu nghĩa trang của gia tộc Tokugawa nhánh Mito (5).

Advertisement

Trong thời gian hầu cận daimyō, Zhu biết được rằng Mitsukuni là một người rất thích ăn udon – loại mì nước hiện vẫn phổ biến ở Nhật Bản – với sợi mì làm từ bột mì sử dụng với nước dùng dashi (làm từ cá ngừ khô và tảo bẹ).

Vào thế kỷ 17, người Nhật thường ăn mì udon với quả mơ ngâm (umeboshi) và vừng. Thấy vậy, Zhu đã gợi ý về năm thành phần thường được sử dụng trong món mì nước Trung Quốc để vị daimyō vùng Mito có thể thêm vào nhằm cải thiện hương vị của món ăn. Năm thành phần (ūshin) mà ông chủ ý đề xuất gồm: rễ kiệu (rakkyō), tỏi, hẹ tỏi (nira), hành lá và gừng (6).

Từ những dữ kiện này, nhà sử học về ẩm thực Kosuge phỏng đoán rằng Tokugawa Mitsukuni chính là cha đẻ của tập tục ăn mì nước Trung Quốc ở Nhật Bản. Sau này Bảo tàng Ramen ở Shin-Yokohama đã phổ biến rộng rãi câu chuyện trên, và kết quả là vào năm 2003, Tập đoàn Thực phẩm Nissin của Nhật Bản nhà sản xuất mì ramen ăn liền lớn nhất thế giới – trong một thời gian ngắn đã cho ra – mắt nhãn hiệu mì ăn liền U-shin có in hình gia huy của gia tộc Tokugawa, được điểm tô bằng giai thoại về Mitsukuni và Zhu.

Mặc dù khó xác định liệu món ăn từng được ưa chuộng bởi vị lãnh chúa nổi tiếng của vùng Mito kia tương thích ra sao với món ăn ngày nay được gọi với cái tên “mì ramen”, cần ghi nhớ rằng câu chuyện được lưu truyền rộng rãi ở trên về sự xuất hiện tại Nhật Bản của món mì nước kiểu người Hoa đã thiết lập nên một giai thoại nguồn cội trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên hiện đại – một thời đại được đánh dấu bằng việc người Nhật có xu hướng học hỏi người Trung Quốc.

Mặc dù câu chuyện trên được coi như một phiên bản bao trùm đầy lôi cuốn về nguồn gốc của món ăn, với đầy đủ các nhân vật ngoài đời thực cùng những tương tác tưởng tượng dựa trên các cách diễn giải không thành kiến đối với những ghi chép lịch sử, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhấn mạnh sự ngưỡng mộ của người Nhật đối với một nước Trung Quốc thời tiền Thanh.

Advertisement

—————-

1. Một tước hiệu đặc biệt dành cho những vị tướng quân có chức vụ cao nhất trong thời kỳ phong kiến của Nhật Bản. (ND)

2. Khi triều đại nhà Thanh củng cố quyền lực của mình lên miền nam Trung Quốc, một số học giả Nho giáo làm việc cho chính quyền nhà Minh đã trốn sang Đại Hàn và Nhật Bản để làm cố vấn.

3. Kosuge Keiko, Nippon Rāmen Monogatari: Chūka soba wa itsu doko de umareta ka (Tokyo: Shinshindō, 1987), tr.45-59.

4. Tư tưởng triết lý Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Lý học có thể được xem là nỗ lực hợp lý hóa cũng như thế tục hóa Nho giáo bằng cách loại bỏ các yếu tố mê tín, huyền bí của Đạo giáo và Phật giáo, vốn từng được đưa vào Nho giáo trong và sau đời nhà Hán. (ND)

Advertisement

5. Sĩ quan hải quân người Mỹ. (ND)

6. Cho đến năm 1854, khi Hiệp ước Perry đầu tiên có hiệu lực, triều đại Tokugawa ở Nhật Bản đã duy trì chính sách tránh tiếp xúc với các cường quốc phương Tây (ngoài Hà Lan) trong hơn hai thế kỷ để hạn chế tình trạng hỗn loạn do những nỗ lực cải đạo của các nhà truyền giáo Cơ đốc ở Nhật Bản. Riêng Hà Lan đã đồng ý giới hạn mối quan hệ giữa hai nước chỉ trong lĩnh vực thương mại, kết quả là Hà Lan trở thành quốc gia châu Âu duy nhất duy trì quan hệ thương mại và ngoại giao với Nhật Bản từ năm 1639 đến năm 1854.

Nguồn: https://znews.vn/giai-thoai-ve-su-xuat-hien-cua-mi-ramen-mon-an-quoc-dan-nhat-ban-post1455469.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Nóng giận là bản năng tĩnh lặng là bản lĩnh

Được phát hành

,

Bởi

Trong cuốn sách, tác giả Tống Mặc đã trò chuyện với độc giả về cách kiềm chế cơn nóng giận, học cách bao dung, kiểm soát cảm xúc của mình trước những tác động của cuộc sống.

Ai chẳng có lúc giận dữ, nóng giận là hạt mầm được gieo vào tâm ta từ lúc mới chào đời. Nhưng kìm chế cơn giận là bản lĩnh cần rèn luyện mỗi ngày.

Kim che con gian anh 1

Thái độ điềm tĩnh sẽ giúp con người dễ dàng vượt qua nghịch cảnh, đón nhận thử thách. Ảnh: P.G.

Điềm đạm là sự điềm tĩnh xuất phát từ nội tâm. Cổ nhân cho rằng: “Điềm tĩnh dưỡng thần, phật dịch ô vật.” Ý muốn nói, điềm tĩnh có thể dưỡng tâm, giúp con người không phụ thuộc vào thứ bên ngoài. Điềm tĩnh nói đến một thái độ sống “lùi”, vạn sự thuận theo tự nhiên, người giữ được tinh thần như vậy, chắc chắn có thể làm tốt việc dưỡng tâm.

Hiện giờ, ngày càng có nhiều người theo đuổi việc “dưỡng sinh”. Dưỡng sinh gồm có dưỡng tâm, dưỡng tính và dưỡng thân. Nhưng rất nhiều người chỉ quan tâm đến việc dưỡng thân, cho rằng chỉ cần chăm sóc cơ thể cho thật đẹp đẽ, khỏe mạnh, thì có thể hưởng thụ cuộc sống lâu dài. Cho nên, số người có thể kiên trì hàng ngày tập luyện thể thao, ăn uống lành mạnh thì nhiều, nhưng số người có thể kiên trì dưỡng tâm hàng ngày lại rất ít.

Advertisement

Có một bà mẹ cực kỳ chú trọng việc dưỡng sinh. Gặp ai cô ấy cũng thao thao bất tuyệt về đạo lý dưỡng sinh, về việc mỗi ngày phải ăn cái gì, ăn bao nhiêu, ăn thế nào, vận động bao lâu… Cô ấy nói hết lần này đến lần khác: Chỉ có làm như vậy, mới không bị bệnh! Nhưng mỗi lần nghe những điều này, tôi đều thấy rất lạ. Một người ngày nào cũng bận rộn chuẩn bị đồ ăn lành mạnh cho bản thân từ sáng đến tối, sợ mình ăn phải đồ ăn không tốt sẽ sinh bệnh, không thể sống thọ, ngày nào cũng lo lắng như vậy, liệu có vui vẻ được không?

Nếu như chúng ta dư ỡng sinh mà không bắt đầu từ việc dưỡng tâm dưỡng tính, trong lòng sẽ có nhiều phiền não, có nhiều ham muốn. Như vậy, “hạnh phúc” mà chúng ta được hưởng chỉ dừng ở mức ăn ngon mặc đẹp và cơ thể khỏe mạnh, đó không phải cuộc sống thăng hoa chân chính.

Đại sư Hoằng Nhất cho rằng điềm đạm là “điều đầu tiên của việc dưỡng tâm”. Điềm đạm mà ngài nói tới suy cho cùng là cần con người phải tĩnh tâm. Thế gian này bao chuyện phiền não, dễ ảnh hưởng đến tâm lý của con người.

Kim che con gian anh 2

Cuốn sách Nóng giận là bản năng, tĩnh lặng là bản lĩnh mang đến cho người đọc nhiều lời khuyên hữu ích. Ảnh: Chi.

Cho nên, nhiều người nghĩ rằng tâm mình không tĩnh là vì đang bị quá nhiều chuyện quấy nhiễu. Thật ra, ta bị quấy rầy không phải vì những chuyện phiền nhiễu trên đời, mà vì tâm không tĩnh. Khi chúng ta có thể tách khỏi tất cả sự vật bên ngoài, cho dù ở trong hoàn cảnh nào, ta cũng có thể hưởng thụ cuộc sống an nhàn thực sự.

Trong xã hội hiện thực này, rất nhiều chuyện sẽ làm cho chúng ta “dao động”.

Advertisement

Khi một người mỗi ngày kiếm được 10 đồng, chỉ đủ để ăn no, anh ta cảm thấy rất thoải mái, nhưng lại mơ mỗi ngày kiếm được 100 đồng; khi kiếm được 100 đồng mỗi ngày, anh ta lại cảm thấy mệt hơn trước rất nhiều, và không thấy hài lòng lắm, bởi vì có người mỗi ngày kiếm được 1.000 đồng.

Anh ta làm việc chăm chỉ hơn, cuối cùng cũng có thể kiếm 1.000 đồng mỗi ngày, anh ta bắt đầu mua xe, mua nhà, sống cuộc sống tốt đẹp mà anh ta từng ao ước, nhưng anh ta lại bắt đầu hướng về cuộc sống mỗi ngày kiếm được 10.000 đồng…

Chúng ta luôn rơi vào một vòng tròn kỳ lạ như vậy. Chúng ta luôn cho rằng khi đạt được điều gì mình mong đợi đã lâu, trong lòng sẽ cảm thấy yên tâm, hài lòng, từ đó có thể hạnh phúc. Nhưng sau khi đạt được điều mình muốn, ta lại có cảm giác cũng chỉ thế mà thôi. Những ham muốn lớn hơn nối tiếp nhau, mục tiêu ngày càng cao, và chúng ta càng ngày càng mệt hơn.

Do đó, một người sau khi có biệt thự, xe hơi, anh ta càng không hạnh phúc, bởi anh ta lo sợ một ngày nào đó sẽ mất đi cuộc sống như vậy, do đó đành phải dốc sức làm việc nhiều hơn, ép bản thân phải kiếm được 100.000 mỗi ngày, nếu chỉ kiếm được 80.000 thì thở dài ngao ngán.

Ngày nào cũng sống trong nỗi sợ mất đi danh lợi, gánh áp lực khủng khiếp, làm sao mà không sinh bệnh cho được? Dĩ nhiên, không phải con người không thể sống như vậy, danh lợi vốn là sự theo đuổi lớn nhất cuộc đời đối với một người bình thường.

Advertisement

Nhưng ý ở đây muốn nói, nếu như cuộc sống như vậy làm cho chúng ta cảm thấy thêm áp lực, thêm phiền muộn, không hề có cảm giác hạnh phúc, thì bạn hoàn toàn có thể suy nghĩ theo hướng khác.

Không nhất thiết phải từ bỏ những thứ như biệt thự, xe hơi, chỉ cần từ bỏ việc cố chấp gắn bó với những thứ này, dù kiếm được 1.000.000 mỗi ngày cũng không ngạo mạn, mà mỗi ngày kiếm được 10 đồng cũng không chán chường, muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, không cần gượng ép bản thân, bạn có thể cảm nhận được sự hạnh phúc ngay lập tức.

Người có nội tâm điềm đạm là người ngay cả khi mặc một chiếc áo vải, ăn một bữa cơm đạm bạc, vẫn có thể an nhàn thoải mái, không có chút cảm giác khó chịu hay không vui nào. Cho dù đối mặt với phiền não và sinh tử, họ cũng có thể thản nhiên đối diện, trong lòng không một chút gợn sóng đau khổ, không cần ăn ngon mặc đẹp vẫn cảm thấy yên bình và hạnh phúc.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/kim-che-con-gian-la-ban-linh-can-co-cua-nguoi-truong-thanh-post1455101.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tuổi ấy mình yêu

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn tản văn “Tuổi ấy mình yêu” ghi lại nhiều ký ức về Hà Nội của thế hệ 6X, 7X. Khi ấy thành phố tuy còn nhiều gian khó nhưng đầy lãng mạn với những biệt thự cổ rêu phong, cùng những thanh niên tha thiết yêu đời!

Dòng thời gian miên man đưa ta về những kỷ niệm ấu thơ không thể nào quên. Mùa hè nóng như đổ lửa, chẳng có điều hòa lẫn quạt điện, chỉ đành phe phẩy quạt nan xua đi cái nóng.

Tuoi ay minh yeu anh 1

Cảnh mấy đứa trẻ ngồi ở bể nước công cộng để mẹ tắm rửa là hình ảnh quen thuộc thời bao cấp. Ảnh: Fclikr.

Ở miền ôn đới mà nhiệt độ lên tới 40 thì không thể không coi là sự kiện. Vì thế mà ai chưa kịp trẻ lại, gầy đi, chết vì nóng thì cứ, rất nhiều người thích, tranh thủ cởi gần hết cho da có màu suy nghĩ. Cái màu này, Tây và ngay cả ta chưa từng trải đời này dăm chục năm tha hồ suy nghĩ cũng chả biết là màu gì.

[…]

Advertisement

Thành phố uể oải trong hơi nóng làm người cứ lơ mơ, thương chả ra thương nhớ chẳng ra nhớ, cứ dằng dai lừng khừng. Chẳng biết có phải dân ở những xứ nóng động cái là sùng sục hừng hực lên là vì một năm mấy mùa đã tha hồ uể oải rồi không?

Chiều qua thứ bảy, chỉ còn mấy tiếng nữa cửa hàng cửa họ đóng, đóng cửa luôn ngày chủ nhật là ngày đến Chúa cũng không làm gì (mà còn làm làm gì, sửa sai thế nào được nữa sau khi đã tạo ra con người) nhưng nắng vẫn còn chấp chới trên bờ tường, ngọn cây, mái nhà. Say nắng trưa rồi, không dám đi xa, chỉ lếch thếch ra đầu phố xem có quả dưa hấu nào nhẹ hơn một yến để tha về ăn giải nhiệt chờ mưa.

Mưa thì chưa, dưa thì không nhẹ, chẳng mua bán gì nữa, đi về. Ngang qua cái quán nhỏ đầu phố thấy bàn nào cũng có người ngồi lơ mơ. Có ông lẩn mẩn lúc quờ cốc cà phê đưa lên môi lúc sờ cây bút bi chơi đố chữ.

Có mẹ nạ dòng cháu sớm phom dáng cực kì hùng tráng vẫn chẳng ngần ngại gọi cốc kem to cho xứng người, ăn thi với cháu. Có bà già lim dim mắt xếp tà váy rồi ngồi vắt chân đầy vẻ quý phái khiêu khích kiểu Marlene Dietrich, thay vì điếu thuốc trên tay lại thấy phảy một cái quạt giấy thật là xinh.

Kỷ vật của những ngày nắng hạ Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Tuynidi gì đó đây, không biết cụ mua hay cụ trai nào tặng, mùa hạ vừa đi qua hay từ đời thăm thẳm nỗi niềm nào.

Advertisement

Bất chợt thấy mình chậm bước. Bất chợt hình dung lại, ngày xưa, cũng quạt giấy như này. Bà tóc bạc vấn lẳn trong vành khăn trắng để “trở” ai trong họ chẳng biết. Bà đứng chờ tàu điện chỗ Ô Cầu Dền. Bà luôn luôn có cái quạt trong tay phe phảy cho cháu bám quẩn bên chân.

Bà ngồi chân co chân duỗi đầu tấm phản sau này hạ xuống che cái hầm trú ẩn đào ngay dưới gậm giường rồi cúi người vuốt ngay ngắn ống quần, mở âu giầu, tỉ mẩn tiện miếng vỏ quạch, xé mảnh lá giầu không, bổ nhỏ miếng cau đã bổ sáu từ trước, quết chút vôi trắng, nhúm chút thuốc lào rồi đưa lên miệng, rồi bận bịu dọi lại vành cái quạt nan, xếp lại cái quạt giấy, lầm thầm không biết là mắng đứa cháu nào dùng đồ xong buông quăng bỏ vãi, vô ý vô tứ chẳng biết của bền tại người.

Chao ôi những buổi chiều Hà Nội hết chiến tranh, đã khó nghèo càng thêm khó nghèo vì mẹ mất, nhưng bà còn đó cho chị em mình nương dựa, bà còn đó, giữ lại cho chị em mình những gì còn có thể giữ được, là sự ngây ngô quý giá nhất của tuổi ấu thơ.

Tuoi ay minh yeu anh 2

Cuốn tản văn Tuổi ấy mình yêu của nhà văn Lê Minh Hà. Ảnh: NXB Trẻ.

Cũng cái quạt giấy này, trong bàn tay con gái những ngày cuối cùng đến lớp, giấy trang kim màu tím, nan tre, thằng bạn ngồi bên giằng lấy hỏng luôn chỗ tay cầm, những cái nan rời nhau ra, thế mà nó ra sức khoát tay quạt cho cả mình với nó. Tức mà nghĩ tới những ngày sắp xa đi, gặp lại không biết có đủ tự tin như giờ vẫn hay gây sự với nhau, nghĩ tới cái compa dở hơi nó vẫn nhường mình trong giờ hình học, thôi im vậy.

Bà già váy hoa vẫn đang lơ mơ bên cốc kem phe phẩy cái quạt giấy rõ là xinh. Uể oải thì mình đang uể oải lắm rồi, nhưng có mơ đâu, mà cảm như từ đâu xưa hơi gió từ cái quạt giấy muôn đời. Chỉ phảy nhẹ phảng phất thôi đã đủ làm xao động hơi nóng ngày tháng hạ vì cái mùi hơi thum thủm của những nan quạt vót từ tre ngâm ao bùn.

Advertisement

Ở Hà Nội giờ hay gặp các bà đi tập dưỡng sinh. Khi biểu diễn dưỡng sinh, các bà mặc cả bộ sa tanh đỏ, cứ từng lúc lại khuỵu đầu gối trong tư thế cảm tử lao về phía trước, trong tay là cái quạt hình thù như cái quạt giấy mình quen pạch một cái đồng loạt xòe ra.

Chưa tới gần nên không biết nan quạt bằng tre bằng gỗ hay bằng nhựa, nhưng cái quạt cũng màu đỏ rực, lại có tua rua, xòe ra đều còn hơn các diễn viên hội đoàn tập múa, chỉ còn thiếu hai bím tóc ngắn vểnh ngang tai và trẻ đi dăm chục tuổi là gần bằng diễn viên kinh kịch Bắc Kinh nhảy một cái, xoạc chân một cái, cao giọng á a a trên sân khấu Hà Nội một thời.

Về với Hà Nội, cứ lần nào nhìn thấy những mảnh tam giác đỏ rực ấy chói lọi trong nắng sớm cũng giật mình.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/mua-he-da-xa-post1455038.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Xu hướng