Connect with us

Sách hay

‘Bút chiến’ thời Tự Lực Văn Đoàn

Được phát hành

,

Ở “Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do” chi chít những “vụ áp phe” công kích giữa các báo, các nhân vật nổi tiếng gây chú ý cho độc giả.

Tu luc van doan anh 1

Sách Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do. Ảnh: Tao Đàn.

Trước khi được giải Lý luận phê bình của Hội Nhà văn năm nay thì Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do đã được chú ý trong cộng đồng đọc. “Câu chuyện cũ nhưng cách tiếp cận mới, khảo tả công phu, chưa kể những dẫn chứng “đấu đá” hậu trường văn chương, đọc rất vui”, độc giả bình luận.

Công trình nghiên cứu nhưng viết thú vị

Về ý kiến cho rằng câu chuyện của văn học thuộc địa giai đoạn những năm 30 của thế kỷ trước không khỏi “đã cũ” trong bối cảnh hiện tại, TS Đoàn Ánh Dương (đồng tác giả cuốn sách) cho rằng: Thực tế không bao giờ có một đối tượng nghiên cứu cũ “đã xong xuôi”, mọi vấn đề và câu chuyện đều luôn mới nếu đặt trong cách diễn giải khác.

Một trong những độc giả đầu tiên của cuốn sách, TS Phạm Phương Chi đánh giá: “Một công trình nghiên cứu nhưng viết thú vị kể cả lập luận, giọng điệu và sự kiện. Khi đọc, tôi cũng nhiều lần bật cười một mình, các tác giả có sự hài hước, duyên dáng, vốn rất hiếm trong các công trình khoa học, học thuật”. Chị Chi còn khẳng định: Đây là cuốn sách dành cho mọi người.

Hầu hết người từng đọc qua Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do đều bày tỏ thích thú với những câu chuyện hậu trường văn chương được kể lại trong sách. Ở đấy, chi chít những “vụ áp phe” công kích giữa các báo, các nhân vật nổi tiếng như một sự gây chú ý cho độc giả hay như chiến lược kinh doanh văn học nghệ thuật.

Ví như: “trong số Mùa xuân báo Phong Hóa vu cho Nguyễn Công Hoan đã “sưu tầm” để viết “Lá ngọc cành vàng”, giống “Nửa chừng xuân” và “Cô giáo Minh” giống hệt “Đoạn tuyệt”, nói một cách khác tức là Nguyễn Công Hoan ăn cắp văn của Nhất Linh và Khái Hưng. Nếu Phong Hóa nói đúng, thì là một cái nhục cho nhà văn Nguyễn Công Hoan. Mà trái lại, ông Hoan quả không ăn cắp văn, thì với một việc này cũng có thể tan tành hết cả công gây dựng của TLVĐ”, trích bài của tác giả Lê Cường trên Hà Nội báo (1936). Đáp lời, báo Phong Hóa thẳng thắn: “Chúng tôi không trả lời Hà Nội báo, nghĩa là ông Lê Cường, chủ hiệu thuốc lậu Hồng Khê, vì ông Lê Cường có ý ở giữa nói khích hai bên, mong đục nước để béo cò. Hành vi ấy trẻ con lắm, dùng để quảng cáo thuốc lậu tốt hơn là dùng quảng cáo văn”.

Theo TS. Nguyễn Phương Chi, những câu chuyện kiểu này không cần có hồi kết ai đúng ai sai nhưng tạo ấn tượng về một đời sống trí thức đầy sôi động, đầy hỉ nộ ái ố những năm trước cách mạng. “Việc bao gồm những câu chuyện văn chương trong một công trình học thuật khiến cho cuốn sách có giá trị như một sự giải thiêng với tôi – nếu đặt trong bối cảnh những công trình nghiên cứu về đời sống trí thức giai đoạn thuộc địa từ góc nhìn hậu thuộc địa mà ở đó hầu hết trí thức đều được miêu tả như những nhà tư tưởng, nhà hoạt động chính trị hay là những nhà lập quốc rất nghiêm túc”, chị Chi chia sẻ.

Tự chủ văn chương nhân trường hợp Tự Lực Văn Đoàn

Cuối tháng 12, trước khi giải thưởng Hội Nhà văn chính thức công bố, một tọa đàm khoa học về cuốn sách đã được tổ chức “xôm tụ” ở Đại học KHXH&NV Hà Nội. Nói là xôm vì cả hội trường liên tục phải dồn chỗ ngồi, sinh viên đến rất đông, phá vỡ định kiến “chuyện từ thời 1930-1945 ai còn hứng thú nghe”.

PGS. TS Phùng Ngọc Kiên, chủ biên cuốn sách cho biết: “Đây là một phần kết quả nghiên cứu được thực hiện trong khuôn khổ đề tài cấp Nhà nước do Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ quốc gia tài trợ”. Đường đi của những công trình nghiên cứu “cao siêu” kiểu này trước nay đa phần đều chỉ lưu hành trong nhóm nhỏ, rất ít phổ biến cho công chúng, đừng nói đến in sách và bán đại trà. Nên có thể coi Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do (NXB Hội nhà văn) là một ngoại lệ.

Cuốn sách bắt đầu bằng luận điểm của TS Phùng Ngọc Kiên về “tính nước đôi” trong sự khai phá văn minh của người Pháp ở Đông Dương. Theo chứng minh của anh Kiên: “Công cuộc khai hóa thuộc địa của Đế chế Pháp theo sau các cuộc chiếm đóng và bình định đã làm thay đổi sâu sắc xứ Đông Dương”. Và rằng: “Người Pháp vào Việt Nam đã mang đến báo chí như một không gian công cộng mới mẻ”. Để từ đó “thế giới có vẻ đã được thu nhỏ lại hơn, và dễ bề hình dung hơn với người trí thức Việt Nam”.

Mạch khảo cứu cứ thế được dẫn dắt khéo léo với lối viết hoạt, dẫn chứng chi tiết, pha chút hài hước khiến người đọc dễ dàng bị cuốn theo. Từ đây, bức tranh về những hoạt động báo chí, văn chương chữ quốc ngữ thời kỳ đầu ở Việt Nam được phục dựng hết sức cụ thể.

Tiến sĩ Mai Anh Tuấn đánh giá: Đây là cuốn sách đầu tiên trong giới nghiên cứu Việt Nam giúp chúng ta nhìn thấy vấn đề then chốt của văn học Việt Nam thuộc địa: chính là tính tự chủ.

Nói rõ hơn về tính tự chủ trong văn chương, một số diễn giả cho rằng: tự chủ có thể hiểu là người viết sống được bằng ngòi bút mà không dựa vào nhà tài trợ. Trước thế kỷ 17, trên thế giới, đa số nhà văn vẫn chỉ sống bằng tài trợ hoặc tiền trợ cấp của nhà vua.

PGS.TS Nguyễn Bá Thành chia sẻ, theo nghiên cứu lịch sử văn học nhiều thời kỳ thì văn học tự chủ luôn có đời sống lâu hơn, khỏe hơn văn học không tự chủ (phụ thuộc, ít giá trị tự thân).

“Điểm nhấn của cuốn sách là phân tích quá trình tự chủ về kinh tế và tự chủ về nghệ thuật thông qua ví dụ của nhóm Tự Lực Văn Đoàn (TLVĐ). Nỗ lực rất lớn của TLVĐ là xây dựng quá trình tự chủ kinh tế thông qua nhiều hoạt động như: báo chí, xuất bản, in ấn, quảng cáo… để quyết định việc họ sẽ tồn tại với tư cách một nhóm phái văn chương ra sao. Giữa tự chủ về kinh tế và tự chủ về nghệ thuật cái gì quan trọng hơn? Cá nhân tôi vẫn nghĩ rằng có lẽ tự chủ nghệ thuật là tiên quyết, trước khi tạo lực về kinh tế.

Ví dụ qua khảo sát lượng sách bán chạy của TLVĐ, rõ ràng không phải chỉ vì họ làm quảng cáo tốt, cũng không phải vì chiến lực in ấn khôn khéo, hay nhờ cả vào lượng độc giả đã được tập dượt về văn chương mới, mà vì tất cả sản phẩm văn chương đó đủ tạo thành một hệ thẩm mỹ mới hấp dẫn người ta mua sách. Điều này nói lên rằng: trong văn chương nếu muốn tích lũy tư bản thì phải có sự khác biệt về nghệ thuật, chính sự khác biệt này khiến cho công chúng nhận ra người nghệ sĩ và tác phẩm của họ”, ông Mai Anh Tuấn nói thêm.

Nguồn: https://znews.vn/but-chien-thoi-tu-luc-van-doan-post1453334.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng