Connect with us

Sách hay

Chuyên khảo về những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp

Được phát hành

,

Sách “Du hành giữa các văn bản – Nguyễn Huy Thiệp và xã hội Việt Nam sau 1975” là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống những sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.

Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn được nhắc đến như người đã làm thay đổi và tạo ra bước ngoặt cho văn chương Việt Nam từ sau 1975. Cho đến hiện tại, những tác phẩm của ông vẫn khiến nhiều thế hệ độc giả say mê và trở thành chủ đề hấp dẫn trong giới nghiên cứu.

Cuốn sách Du hành giữa các văn bản – Nguyễn Huy Thiệp và xã hội Việt Nam sau 1975 là chuyên khảo nghiên cứu chuyên sâu về gần như toàn bộ các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp theo cách tiếp cận liên văn bản và liên ngành.

TS Nguyễn Văn Thuấn – Trưởng khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm (Đại học Huế) tác giả cuốn sách – chia sẻ với Zing về quá trình thực hiện tác phẩm này.

Advertisement
Nghien cuu van chuong Nguyen Huy Thiep anh 1

Chuyên khảo cung cấp cái nhìn độc đáo về những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Ảnh: Việt Linh.

Vẻ đẹp của văn chương Nguyễn Huy Thiệp

– Tác phẩm “Du hành giữa các văn bản – Nguyễn Huy Thiệp và xã hội Việt Nam sau 1975” được thực hiện như thế nào, thưa ông?

– Tôi có duyên với sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từ rất sớm. Như đã chia sẻ với độc giả trong Lời mở đầu cuốn sách, tôi bắt đầu đọc Nguyễn Huy Thiệp khi là học sinh phổ thông.

Sau khi tốt nghiệp cử nhân, tôi thực hiện luận văn thạc sĩ về truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Năm 2013, tôi hoàn thành luận án tiến sĩ cũng về sáng tác của ông. Sau đó, tôi dành thêm mấy năm để hoàn thành một số tiểu luận và đề tài khoa học có liên quan sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.

Có thể nói, cuốn sách này được tôi thai nghén và hoàn thành trong khoảng 20 năm. 20 năm, một thời gian rất dài!

– Đâu là điều khiến ông cảm thấy thử thách nhất khi thực hiện tác phẩm này?

Advertisement

– Nguyễn Huy Thiệp là một tài năng lớn và phức tạp. Dư luận bạn đọc rất trái chiều, các đánh giá về ông thường ít khi thống nhất. Trong khoảng hơn 40 năm cầm bút, ông là nhà văn đã gây nên nhiều cuộc tranh luận văn học. Có người khen ông hết lời nhưng cũng có người chê ông hết lời. Mà sự khen hay chê đều tỏ ra ít nhiều có lý.

Nghien cuu van chuong Nguyen Huy Thiep anh 2

TS Nguyễn Văn Thuấn đang giảng dạy tại khoa Ngữ Văn, Đại học Sư phạm (Đại học Huế). Ảnh: NVCC.

Bản thân tôi là một người trẻ, không có trải nghiệm về thời cuộc và văn chương như thế hệ cha anh. Tôi thuộc lớp 8X, cái thời khó khăn và sôi động những năm trước và sau 1986, tôi cho là thời kỳ vàng của văn học Việt Nam.

Vậy mà mãi sau này, đến tận 10 năm đầu thế kỷ XXI, khi bày tỏ việc nghiên cứu, viết sách về sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, tôi thường ít khi nhận được sự khuyến khích, cổ vũ nồng nhiệt.

Mọi người e dè, lo cho tôi, vì nhiều lý do, trong đó nhìn chung cho rằng Nguyễn Huy Thiệp là hiện tượng phức tạp, nhạy cảm, nếu nghiên cứu thì khó bảo vệ thành công luận án tiến sĩ; nếu viết sách, chắc khó tìm được nơi xuất bản. Tôi nghĩ đó là những thử thách lớn đối với mình.

Tất nhiên, chúng ta còn có thử thách khác của đời thường, chuyện cơm áo, nhà ở, con cái, đòi hỏi ta phải dành nhiều thời gian, công sức. Bây giờ, khi đã xuất bản cuốn sách này, nhìn lại thử thách đã qua, nhìn lại hàng trăm trang bản thảo đã bị cắt bỏ, tôi rất cảm ơn những người thầy, người bạn, người thân đã luôn tin tưởng, động viên, khuyến khích và hỗ trợ để quyển sách kịp ra mắt, trước là mừng sinh nhật lần thứ 70 của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, sau nữa là dành chút niềm vui hoặc có thể là sự trăn trở, cho bạn đọc, cho các sinh viên của tôi.

Advertisement

– Tại sao ông lại lựa chọn cách tiếp cận các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp bằng con đường liên văn bản và liên ngành? Điều này mang lại lợi thế gì khi “đi tìm Nguyễn Huy Thiệp”?

– Tôi là người nghiên cứu, giảng dạy lý luận văn học ở khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm (Đại học Huế) nên công việc khiến bản thân tiếp cận thường xuyên với các khuynh hướng, trường phái nghiên cứu, phê bình văn học vốn rất phong phú, phức tạp của thế kỷ XX, XXI.

Nhờ cơ duyên này, tôi nhận ra không có phương pháp nghiên cứu nào toàn năng. Một phương pháp nghiên cứu tỏ ra thành công với hiện tượng văn học này thì rất có thể lại thất bại với hiện tượng văn học khác. Nhiều khi, chính đối tượng nghiên cứu lại “đẻ” ra phương pháp hoặc gợi cho ta tìm kiếm phương pháp tiếp cận thích hợp.

Đối với trường hợp Nguyễn Huy Thiệp, một nhà văn lớn chịu ảnh hưởng nhiều nguồn tư tưởng, tôn giáo, thử nghiệm thành công nhiều lối viết và phong cách, tạo nên những tác phẩm văn chương phơi bày tính phức tạp của đời sống và tâm hồn con người thì cần có cách tiếp cận phức hợp. Chính vì thế, tôi đã sử dụng phương pháp liên văn bản và liên ngành.

Tôi nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp từ góc độ giới, góc độ luân lý, góc độ thi pháp, góc độ ký hiệu – biểu tượng, góc độ hiện sinh, góc độ so sánh và liên văn bản.

Advertisement

Các độc giả sẽ nhận ra là ở mỗi chương của cuốn sách đều có một phương pháp tiếp cận chủ đạo. Như thế, toàn bộ sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp được đặt trong tầm nhìn liên văn bản và liên ngành.

Lợi thế của cách tiếp cận này là ở chỗ, độc giả sẽ nhận ra vẻ đẹp đặc trưng của văn chương Nguyễn Huy Thiệp: Vẻ đẹp của tính phức tạp. Tôi muốn nói thêm rằng nếu văn học của ta giai đoạn trước 1986 thường tôn vinh cái đẹp giản dị, cái đẹp của sự lựa chọn dứt khoát, của niềm lạc quan, tin tưởng thì Nguyễn Huy Thiệp tôn vinh cái đẹp phức tạp, cái đẹp kín đáo ẩn trong sự phân vân, sự hoài nghi, sự lưỡng lự, sự hỗn độn…

Tiếp tục “đi tìm Nguyễn Huy Thiệp”

– Theo ông, đâu là cá tính, dấu ấn và vị thế của tác phẩm này trong nhiều công trình về Nguyễn Huy Thiệp?

– Đã có rất nhiều bài viết bàn về sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Có thể tính đến con số vài trăm, trong đó, hầu hết nhà nghiên cứu, phê bình văn học có tên tuổi đều có bài viết hoặc nghiên cứu về văn chương của ông.

Trước khi có tác phẩm của tôi, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đã biên tập và xuất bản cuốn sách mang tên Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Còn hàng chục bài viết khác, rất chất lượng, về văn chương của ông được đăng tải ở nhiều báo và tạp chí uy tín cũng rất cần được chọn lọc để in thành sách. Tôi nghĩ đó cũng sẽ là một cuốn sách thú vị.

Advertisement

Tuy nhiên, Du hành giữa các văn bản – Nguyễn Huy Thiệp và xã hội Việt Nam sau 1975 là một chuyên khảo, lần đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống về sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từ tầm nhìn liên văn bản và liên ngành.

Là một chuyên khảo, cuốn sách có nét riêng, thành công và thiếu sót của nó đều mang dấu ấn cá nhân của tôi. Về vị thế của cuốn sách, tôi xin nhường sự đánh giá cho bạn đọc, những người yêu văn chương và yêu thích vẻ đẹp phức tạp của cuộc sống này.

– Tác phẩm này đã là điểm kết trong hành trình “đi tìm Nguyễn Huy Thiệp” của riêng ông chưa hay hành trình ấy còn tiếp tục?

– Tôi nghĩ rằng văn chương Nguyễn Huy Thiệp cũng như cái đẹp trong cuộc sống, nó khiến ta không thể thờ ơ. Những người yêu mến Nguyễn Huy Thiệp không thờ ơ với các sáng tác của ông đã đành. Ngay cả những người không có cảm tình với ông vẫn không thờ ơ với tác phẩm của ông. Đâu đó sẽ có cuộc tranh luận chực bùng lên về cuộc đời và văn chương của ông.

Một nhà văn với những tác phẩm như thế, thiết nghĩ sẽ luôn được tìm đọc, được đối thoại và vì vậy, cuộc tìm kiếm của tôi sẽ chưa dừng lại.

Advertisement

Tôi đang âm thầm đối thoại với các vị hoàng đế, các vị anh hùng do ông tạo ra, bộ phim ấn tượng chuyển thể từ truyện ngắn của ông, những vấn đề rắc rối của thanh niên trong tiểu thuyết của ông…

Tôi vẫn chưa hết phân vân, vì sao, bằng cách nào, một nhà văn hiền lành, giản dị như thế lại viết dữ dội, hiểm hóc và hấp dẫn đến thế? Tại sao tác phẩm của ông khiến tôi nhìn cuộc sống tỉnh táo hơn, điềm đạm hơn, yêu thương hơn? Tại sao, đến bây giờ, tác phẩm của ông vẫn là đối tượng không ngừng khiêu khích các lý thuyết tiếp nhận, phê bình văn học đương đại?

– Trong quá trình thực hiện tác phẩm, có điều gì ông hối tiếc và muốn làm tốt hơn trong tương lai?

– Luôn có điều hối tiếc về những gì đã qua. Bởi lẽ, chúng ta luôn muốn làm một điều gì đó thật hoàn thiện, thật toàn vẹn nhưng vì nhiều lý do thường chưa đạt được. Cuốn sách của tôi cũng vậy.

Tôi đã rất cố gắng để hoàn thành tốt nhất có thể, nhưng vẫn còn những điều khiến tôi băn khoăn, do dự.

Advertisement

Tôi tiếc chưa hoàn thành được một chương về chân dung nhà văn Nguyễn Huy Thiệp để đưa vào sách. Nhiều đoạn, tôi chưa phân tích thật tỉ mỉ, đưa ra các dẫn chứng cụ thể hơn. Tôi muốn làm một bảng chỉ dẫn cuối cuốn sách để bạn đọc được thuận lợi khi tra cứu, thêm một số hình ảnh về nhà văn Nguyễn Huy Thiệp mà tôi trân trọng…

Có lẽ cuốn sách vẫn còn các thiếu sót mà tôi chưa nhận ra hết. Nhưng tôi vẫn quyết định xuất bản cuốn sách vào tháng 4/2020 ở NXB Đại học Huế. Tôi xem đây là một trạm dừng trong cuộc du hành của riêng mình với niềm tin rằng cuốn sách sẽ hoàn chỉnh hơn nữa sau mỗi lần tái bản. Còn bây giờ, bạn đọc thuần hậu và tinh tế sẽ giúp tôi hoàn thiện nó, trong trái tim bao dung và khối óc giàu sáng tạo của họ.

Nguồn: https://zingnews.vn/chuyen-khao-ve-nhung-sang-tac-cua-nguyen-huy-thiep-post1272237.html

Advertisement

Sách hay

Lịch sử chưa kể về ramen

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một khảo cứu thú vị về lịch sử món mì ramen ở Nhật Bản thông qua lăng kính phân tích và mối liên hệ chặt chẽ của món ăn với địa lý, chính trị, quan hệ đối ngoại, khoa học dinh dưỡng, truyền thông và bản sắc dân tộc.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 cho thấy Zhu Shun Shui đã chỉ cho Mitsukuni (cận vệ của Tokugawa Mitsukuni) cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa.

Mì ramen được giới thiệu lần đầu đến Nhật Bản vào năm 1665, năm 1884 hay năm 1910? Tiền thân của nó liệu có phải là món ăn được gọi với cái tên ūshin udon, Nankin soba hay Shina soba? Tùy thuộc vào câu trả lời mà chúng ta sẽ nghiệm suy về từng món ăn khác nhau với một giai thoại nguồn cội riêng, cùng một quỹ đạo lịch sử đặc thù mang đến các góc nhìn cụ thể về đất nước Nhật Bản. […]

Mi ra men anh 1

Bìa cuốn sách

Giai thoại đầu tiên, và cũng sống động nhất, đã xuất hiện ban đầu trong công trình nghiên cứu mang tính tiên phong về lịch sử của mì ramen (được xuất bản năm 1987) của nhà sử học về ẩm thực Kosuge Keiko, trong đó ấn định thời điểm món ăn này được trình làng là vào những năm 1660, đồng thời cho rằng Tokugawa Mitsukuni (tên khác là Mito Kōmon, 1628 − 1701) – vị lãnh chúa huyền thoại thời phong kiến (daimyō) nắm hàng thứ hai sau Mạc chủ (shōgun) (1) – là người đầu tiên thưởng thức món mì ramen ở Nhật Bản.

Là nhân vật lịch sử nổi tiếng ở Nhật và từng được một bộ phim truyền hình dài tập mô tả như một vị hảo hán, ở gần cuối mỗi tập phim, Tokugawa Mitsukuni thường tiết lộ danh tính của mình cho những kẻ xấu bằng cách để lộ ra hình ảnh chiếc inrō (hộp đựng trang trí sơn mài kích cỡ nhỏ) có khắc gia huy của dòng họ ông, cho thấy ông là vị daimyō trong vùng.

Advertisement

Câu thoại “Ngươi không nhận ra gia huy này sao?” (Kono mondokoro ga me ni hairanuka?) được Kaku-san (cận vệ của Mitsukuni) nhắc lại trong đoạn cao trào của mỗi tập phim nhằm khôi phục lại trật tự và cấp bậc, và khiến những kẻ bất lương ngang ngược phải lập tức cầu xin sự khoan hồng.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 về các hoạt động của Mitsukuni cho thấy rằng Zhu Shun Shui – một người Trung Quốc tị nạn khỏi chính quyền nhà Minh sống ở Mito vào thời điểm đó (2) – đã chỉ cho Mitsukuni cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa nhiều khả năng chính là món mì ramen ngày nay (3).

Mặc dù Mitsukuni được biết đến nhiều nhất trong lịch sử Nhật Bản khi đã khởi xướng kế hoạch kỳ vĩ biên soạn nên Dai Nihon Shi – hay Lịch sử vĩ đại của Nhật Bản – một cuốn sách mất gần 250 năm và mười thế hệ để hoàn thành, ông cũng là một người ca tụng triết học Lý học (Neo- Confucianism) (4) và đã tìm đến Trung Quốc để được soi đường chỉ lối cách trị nước.

Ông do vậy đã tham vấn và kết giao với Zhu, người trước đó từng nắm chức thượng quan ở Trung Quốc dưới thời nhà Minh nhưng quyết định đến Nhật Bản vào năm 1665 do phải lưu vong khỏi chế độ cai trị của Mãn Châu.

Mi ra men anh 2

Lãnh chúa Tokugawa Mitsukuni. Nguồn: wikipedia.

Zhu trở thành một trong những cố vấn quan trọng nhất của Mitsukuni, và làm việc trong chính quyền cai trị của ông này trong 17 năm tiếp theo cho đến khi qua đời vào năm 1682. Vai trò quan trọng của Zhu trong đội ngũ cố vấn của vị daimyō đã giúp ông có được một cuộc sống thoải mái, cùng một bia mộ nổi bật còn tồn tại cho đến ngày nay trong khu nghĩa trang của gia tộc Tokugawa nhánh Mito (5).

Advertisement

Trong thời gian hầu cận daimyō, Zhu biết được rằng Mitsukuni là một người rất thích ăn udon – loại mì nước hiện vẫn phổ biến ở Nhật Bản – với sợi mì làm từ bột mì sử dụng với nước dùng dashi (làm từ cá ngừ khô và tảo bẹ).

Vào thế kỷ 17, người Nhật thường ăn mì udon với quả mơ ngâm (umeboshi) và vừng. Thấy vậy, Zhu đã gợi ý về năm thành phần thường được sử dụng trong món mì nước Trung Quốc để vị daimyō vùng Mito có thể thêm vào nhằm cải thiện hương vị của món ăn. Năm thành phần (ūshin) mà ông chủ ý đề xuất gồm: rễ kiệu (rakkyō), tỏi, hẹ tỏi (nira), hành lá và gừng (6).

Từ những dữ kiện này, nhà sử học về ẩm thực Kosuge phỏng đoán rằng Tokugawa Mitsukuni chính là cha đẻ của tập tục ăn mì nước Trung Quốc ở Nhật Bản. Sau này Bảo tàng Ramen ở Shin-Yokohama đã phổ biến rộng rãi câu chuyện trên, và kết quả là vào năm 2003, Tập đoàn Thực phẩm Nissin của Nhật Bản nhà sản xuất mì ramen ăn liền lớn nhất thế giới – trong một thời gian ngắn đã cho ra – mắt nhãn hiệu mì ăn liền U-shin có in hình gia huy của gia tộc Tokugawa, được điểm tô bằng giai thoại về Mitsukuni và Zhu.

Mặc dù khó xác định liệu món ăn từng được ưa chuộng bởi vị lãnh chúa nổi tiếng của vùng Mito kia tương thích ra sao với món ăn ngày nay được gọi với cái tên “mì ramen”, cần ghi nhớ rằng câu chuyện được lưu truyền rộng rãi ở trên về sự xuất hiện tại Nhật Bản của món mì nước kiểu người Hoa đã thiết lập nên một giai thoại nguồn cội trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên hiện đại – một thời đại được đánh dấu bằng việc người Nhật có xu hướng học hỏi người Trung Quốc.

Mặc dù câu chuyện trên được coi như một phiên bản bao trùm đầy lôi cuốn về nguồn gốc của món ăn, với đầy đủ các nhân vật ngoài đời thực cùng những tương tác tưởng tượng dựa trên các cách diễn giải không thành kiến đối với những ghi chép lịch sử, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhấn mạnh sự ngưỡng mộ của người Nhật đối với một nước Trung Quốc thời tiền Thanh.

Advertisement

—————-

1. Một tước hiệu đặc biệt dành cho những vị tướng quân có chức vụ cao nhất trong thời kỳ phong kiến của Nhật Bản. (ND)

2. Khi triều đại nhà Thanh củng cố quyền lực của mình lên miền nam Trung Quốc, một số học giả Nho giáo làm việc cho chính quyền nhà Minh đã trốn sang Đại Hàn và Nhật Bản để làm cố vấn.

3. Kosuge Keiko, Nippon Rāmen Monogatari: Chūka soba wa itsu doko de umareta ka (Tokyo: Shinshindō, 1987), tr.45-59.

4. Tư tưởng triết lý Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Lý học có thể được xem là nỗ lực hợp lý hóa cũng như thế tục hóa Nho giáo bằng cách loại bỏ các yếu tố mê tín, huyền bí của Đạo giáo và Phật giáo, vốn từng được đưa vào Nho giáo trong và sau đời nhà Hán. (ND)

Advertisement

5. Sĩ quan hải quân người Mỹ. (ND)

6. Cho đến năm 1854, khi Hiệp ước Perry đầu tiên có hiệu lực, triều đại Tokugawa ở Nhật Bản đã duy trì chính sách tránh tiếp xúc với các cường quốc phương Tây (ngoài Hà Lan) trong hơn hai thế kỷ để hạn chế tình trạng hỗn loạn do những nỗ lực cải đạo của các nhà truyền giáo Cơ đốc ở Nhật Bản. Riêng Hà Lan đã đồng ý giới hạn mối quan hệ giữa hai nước chỉ trong lĩnh vực thương mại, kết quả là Hà Lan trở thành quốc gia châu Âu duy nhất duy trì quan hệ thương mại và ngoại giao với Nhật Bản từ năm 1639 đến năm 1854.

Nguồn: https://znews.vn/giai-thoai-ve-su-xuat-hien-cua-mi-ramen-mon-an-quoc-dan-nhat-ban-post1455469.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Nóng giận là bản năng tĩnh lặng là bản lĩnh

Được phát hành

,

Bởi

Trong cuốn sách, tác giả Tống Mặc đã trò chuyện với độc giả về cách kiềm chế cơn nóng giận, học cách bao dung, kiểm soát cảm xúc của mình trước những tác động của cuộc sống.

Ai chẳng có lúc giận dữ, nóng giận là hạt mầm được gieo vào tâm ta từ lúc mới chào đời. Nhưng kìm chế cơn giận là bản lĩnh cần rèn luyện mỗi ngày.

Kim che con gian anh 1

Thái độ điềm tĩnh sẽ giúp con người dễ dàng vượt qua nghịch cảnh, đón nhận thử thách. Ảnh: P.G.

Điềm đạm là sự điềm tĩnh xuất phát từ nội tâm. Cổ nhân cho rằng: “Điềm tĩnh dưỡng thần, phật dịch ô vật.” Ý muốn nói, điềm tĩnh có thể dưỡng tâm, giúp con người không phụ thuộc vào thứ bên ngoài. Điềm tĩnh nói đến một thái độ sống “lùi”, vạn sự thuận theo tự nhiên, người giữ được tinh thần như vậy, chắc chắn có thể làm tốt việc dưỡng tâm.

Hiện giờ, ngày càng có nhiều người theo đuổi việc “dưỡng sinh”. Dưỡng sinh gồm có dưỡng tâm, dưỡng tính và dưỡng thân. Nhưng rất nhiều người chỉ quan tâm đến việc dưỡng thân, cho rằng chỉ cần chăm sóc cơ thể cho thật đẹp đẽ, khỏe mạnh, thì có thể hưởng thụ cuộc sống lâu dài. Cho nên, số người có thể kiên trì hàng ngày tập luyện thể thao, ăn uống lành mạnh thì nhiều, nhưng số người có thể kiên trì dưỡng tâm hàng ngày lại rất ít.

Advertisement

Có một bà mẹ cực kỳ chú trọng việc dưỡng sinh. Gặp ai cô ấy cũng thao thao bất tuyệt về đạo lý dưỡng sinh, về việc mỗi ngày phải ăn cái gì, ăn bao nhiêu, ăn thế nào, vận động bao lâu… Cô ấy nói hết lần này đến lần khác: Chỉ có làm như vậy, mới không bị bệnh! Nhưng mỗi lần nghe những điều này, tôi đều thấy rất lạ. Một người ngày nào cũng bận rộn chuẩn bị đồ ăn lành mạnh cho bản thân từ sáng đến tối, sợ mình ăn phải đồ ăn không tốt sẽ sinh bệnh, không thể sống thọ, ngày nào cũng lo lắng như vậy, liệu có vui vẻ được không?

Nếu như chúng ta dư ỡng sinh mà không bắt đầu từ việc dưỡng tâm dưỡng tính, trong lòng sẽ có nhiều phiền não, có nhiều ham muốn. Như vậy, “hạnh phúc” mà chúng ta được hưởng chỉ dừng ở mức ăn ngon mặc đẹp và cơ thể khỏe mạnh, đó không phải cuộc sống thăng hoa chân chính.

Đại sư Hoằng Nhất cho rằng điềm đạm là “điều đầu tiên của việc dưỡng tâm”. Điềm đạm mà ngài nói tới suy cho cùng là cần con người phải tĩnh tâm. Thế gian này bao chuyện phiền não, dễ ảnh hưởng đến tâm lý của con người.

Kim che con gian anh 2

Cuốn sách Nóng giận là bản năng, tĩnh lặng là bản lĩnh mang đến cho người đọc nhiều lời khuyên hữu ích. Ảnh: Chi.

Cho nên, nhiều người nghĩ rằng tâm mình không tĩnh là vì đang bị quá nhiều chuyện quấy nhiễu. Thật ra, ta bị quấy rầy không phải vì những chuyện phiền nhiễu trên đời, mà vì tâm không tĩnh. Khi chúng ta có thể tách khỏi tất cả sự vật bên ngoài, cho dù ở trong hoàn cảnh nào, ta cũng có thể hưởng thụ cuộc sống an nhàn thực sự.

Trong xã hội hiện thực này, rất nhiều chuyện sẽ làm cho chúng ta “dao động”.

Advertisement

Khi một người mỗi ngày kiếm được 10 đồng, chỉ đủ để ăn no, anh ta cảm thấy rất thoải mái, nhưng lại mơ mỗi ngày kiếm được 100 đồng; khi kiếm được 100 đồng mỗi ngày, anh ta lại cảm thấy mệt hơn trước rất nhiều, và không thấy hài lòng lắm, bởi vì có người mỗi ngày kiếm được 1.000 đồng.

Anh ta làm việc chăm chỉ hơn, cuối cùng cũng có thể kiếm 1.000 đồng mỗi ngày, anh ta bắt đầu mua xe, mua nhà, sống cuộc sống tốt đẹp mà anh ta từng ao ước, nhưng anh ta lại bắt đầu hướng về cuộc sống mỗi ngày kiếm được 10.000 đồng…

Chúng ta luôn rơi vào một vòng tròn kỳ lạ như vậy. Chúng ta luôn cho rằng khi đạt được điều gì mình mong đợi đã lâu, trong lòng sẽ cảm thấy yên tâm, hài lòng, từ đó có thể hạnh phúc. Nhưng sau khi đạt được điều mình muốn, ta lại có cảm giác cũng chỉ thế mà thôi. Những ham muốn lớn hơn nối tiếp nhau, mục tiêu ngày càng cao, và chúng ta càng ngày càng mệt hơn.

Do đó, một người sau khi có biệt thự, xe hơi, anh ta càng không hạnh phúc, bởi anh ta lo sợ một ngày nào đó sẽ mất đi cuộc sống như vậy, do đó đành phải dốc sức làm việc nhiều hơn, ép bản thân phải kiếm được 100.000 mỗi ngày, nếu chỉ kiếm được 80.000 thì thở dài ngao ngán.

Ngày nào cũng sống trong nỗi sợ mất đi danh lợi, gánh áp lực khủng khiếp, làm sao mà không sinh bệnh cho được? Dĩ nhiên, không phải con người không thể sống như vậy, danh lợi vốn là sự theo đuổi lớn nhất cuộc đời đối với một người bình thường.

Advertisement

Nhưng ý ở đây muốn nói, nếu như cuộc sống như vậy làm cho chúng ta cảm thấy thêm áp lực, thêm phiền muộn, không hề có cảm giác hạnh phúc, thì bạn hoàn toàn có thể suy nghĩ theo hướng khác.

Không nhất thiết phải từ bỏ những thứ như biệt thự, xe hơi, chỉ cần từ bỏ việc cố chấp gắn bó với những thứ này, dù kiếm được 1.000.000 mỗi ngày cũng không ngạo mạn, mà mỗi ngày kiếm được 10 đồng cũng không chán chường, muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, không cần gượng ép bản thân, bạn có thể cảm nhận được sự hạnh phúc ngay lập tức.

Người có nội tâm điềm đạm là người ngay cả khi mặc một chiếc áo vải, ăn một bữa cơm đạm bạc, vẫn có thể an nhàn thoải mái, không có chút cảm giác khó chịu hay không vui nào. Cho dù đối mặt với phiền não và sinh tử, họ cũng có thể thản nhiên đối diện, trong lòng không một chút gợn sóng đau khổ, không cần ăn ngon mặc đẹp vẫn cảm thấy yên bình và hạnh phúc.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/kim-che-con-gian-la-ban-linh-can-co-cua-nguoi-truong-thanh-post1455101.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tuổi ấy mình yêu

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn tản văn “Tuổi ấy mình yêu” ghi lại nhiều ký ức về Hà Nội của thế hệ 6X, 7X. Khi ấy thành phố tuy còn nhiều gian khó nhưng đầy lãng mạn với những biệt thự cổ rêu phong, cùng những thanh niên tha thiết yêu đời!

Dòng thời gian miên man đưa ta về những kỷ niệm ấu thơ không thể nào quên. Mùa hè nóng như đổ lửa, chẳng có điều hòa lẫn quạt điện, chỉ đành phe phẩy quạt nan xua đi cái nóng.

Tuoi ay minh yeu anh 1

Cảnh mấy đứa trẻ ngồi ở bể nước công cộng để mẹ tắm rửa là hình ảnh quen thuộc thời bao cấp. Ảnh: Fclikr.

Ở miền ôn đới mà nhiệt độ lên tới 40 thì không thể không coi là sự kiện. Vì thế mà ai chưa kịp trẻ lại, gầy đi, chết vì nóng thì cứ, rất nhiều người thích, tranh thủ cởi gần hết cho da có màu suy nghĩ. Cái màu này, Tây và ngay cả ta chưa từng trải đời này dăm chục năm tha hồ suy nghĩ cũng chả biết là màu gì.

[…]

Advertisement

Thành phố uể oải trong hơi nóng làm người cứ lơ mơ, thương chả ra thương nhớ chẳng ra nhớ, cứ dằng dai lừng khừng. Chẳng biết có phải dân ở những xứ nóng động cái là sùng sục hừng hực lên là vì một năm mấy mùa đã tha hồ uể oải rồi không?

Chiều qua thứ bảy, chỉ còn mấy tiếng nữa cửa hàng cửa họ đóng, đóng cửa luôn ngày chủ nhật là ngày đến Chúa cũng không làm gì (mà còn làm làm gì, sửa sai thế nào được nữa sau khi đã tạo ra con người) nhưng nắng vẫn còn chấp chới trên bờ tường, ngọn cây, mái nhà. Say nắng trưa rồi, không dám đi xa, chỉ lếch thếch ra đầu phố xem có quả dưa hấu nào nhẹ hơn một yến để tha về ăn giải nhiệt chờ mưa.

Mưa thì chưa, dưa thì không nhẹ, chẳng mua bán gì nữa, đi về. Ngang qua cái quán nhỏ đầu phố thấy bàn nào cũng có người ngồi lơ mơ. Có ông lẩn mẩn lúc quờ cốc cà phê đưa lên môi lúc sờ cây bút bi chơi đố chữ.

Có mẹ nạ dòng cháu sớm phom dáng cực kì hùng tráng vẫn chẳng ngần ngại gọi cốc kem to cho xứng người, ăn thi với cháu. Có bà già lim dim mắt xếp tà váy rồi ngồi vắt chân đầy vẻ quý phái khiêu khích kiểu Marlene Dietrich, thay vì điếu thuốc trên tay lại thấy phảy một cái quạt giấy thật là xinh.

Kỷ vật của những ngày nắng hạ Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Tuynidi gì đó đây, không biết cụ mua hay cụ trai nào tặng, mùa hạ vừa đi qua hay từ đời thăm thẳm nỗi niềm nào.

Advertisement

Bất chợt thấy mình chậm bước. Bất chợt hình dung lại, ngày xưa, cũng quạt giấy như này. Bà tóc bạc vấn lẳn trong vành khăn trắng để “trở” ai trong họ chẳng biết. Bà đứng chờ tàu điện chỗ Ô Cầu Dền. Bà luôn luôn có cái quạt trong tay phe phảy cho cháu bám quẩn bên chân.

Bà ngồi chân co chân duỗi đầu tấm phản sau này hạ xuống che cái hầm trú ẩn đào ngay dưới gậm giường rồi cúi người vuốt ngay ngắn ống quần, mở âu giầu, tỉ mẩn tiện miếng vỏ quạch, xé mảnh lá giầu không, bổ nhỏ miếng cau đã bổ sáu từ trước, quết chút vôi trắng, nhúm chút thuốc lào rồi đưa lên miệng, rồi bận bịu dọi lại vành cái quạt nan, xếp lại cái quạt giấy, lầm thầm không biết là mắng đứa cháu nào dùng đồ xong buông quăng bỏ vãi, vô ý vô tứ chẳng biết của bền tại người.

Chao ôi những buổi chiều Hà Nội hết chiến tranh, đã khó nghèo càng thêm khó nghèo vì mẹ mất, nhưng bà còn đó cho chị em mình nương dựa, bà còn đó, giữ lại cho chị em mình những gì còn có thể giữ được, là sự ngây ngô quý giá nhất của tuổi ấu thơ.

Tuoi ay minh yeu anh 2

Cuốn tản văn Tuổi ấy mình yêu của nhà văn Lê Minh Hà. Ảnh: NXB Trẻ.

Cũng cái quạt giấy này, trong bàn tay con gái những ngày cuối cùng đến lớp, giấy trang kim màu tím, nan tre, thằng bạn ngồi bên giằng lấy hỏng luôn chỗ tay cầm, những cái nan rời nhau ra, thế mà nó ra sức khoát tay quạt cho cả mình với nó. Tức mà nghĩ tới những ngày sắp xa đi, gặp lại không biết có đủ tự tin như giờ vẫn hay gây sự với nhau, nghĩ tới cái compa dở hơi nó vẫn nhường mình trong giờ hình học, thôi im vậy.

Bà già váy hoa vẫn đang lơ mơ bên cốc kem phe phẩy cái quạt giấy rõ là xinh. Uể oải thì mình đang uể oải lắm rồi, nhưng có mơ đâu, mà cảm như từ đâu xưa hơi gió từ cái quạt giấy muôn đời. Chỉ phảy nhẹ phảng phất thôi đã đủ làm xao động hơi nóng ngày tháng hạ vì cái mùi hơi thum thủm của những nan quạt vót từ tre ngâm ao bùn.

Advertisement

Ở Hà Nội giờ hay gặp các bà đi tập dưỡng sinh. Khi biểu diễn dưỡng sinh, các bà mặc cả bộ sa tanh đỏ, cứ từng lúc lại khuỵu đầu gối trong tư thế cảm tử lao về phía trước, trong tay là cái quạt hình thù như cái quạt giấy mình quen pạch một cái đồng loạt xòe ra.

Chưa tới gần nên không biết nan quạt bằng tre bằng gỗ hay bằng nhựa, nhưng cái quạt cũng màu đỏ rực, lại có tua rua, xòe ra đều còn hơn các diễn viên hội đoàn tập múa, chỉ còn thiếu hai bím tóc ngắn vểnh ngang tai và trẻ đi dăm chục tuổi là gần bằng diễn viên kinh kịch Bắc Kinh nhảy một cái, xoạc chân một cái, cao giọng á a a trên sân khấu Hà Nội một thời.

Về với Hà Nội, cứ lần nào nhìn thấy những mảnh tam giác đỏ rực ấy chói lọi trong nắng sớm cũng giật mình.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/mua-he-da-xa-post1455038.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Xu hướng