Connect with us

Sách hay

Não người phân biệt thực hư ra sao?

Được phát hành

,

Mô hình hoạt động tạo sinh – đối kháng của AI đưa ra gợi ý về cách não bộ con người hoạt động trong quá trình phân định thực tế với tưởng tượng.

Không chỉ những giấc mơ sống động, đầy xúc cảm và đậm chất điện ảnh mới là ảo giác. Con người rất dễ gặp phải “ảo tượng” mà mình không ý thức được, theo Adam Zeman – tác giả cuốn sách The Shape of Things Unseen: A New Science of Imagination (tạm dịch: Dáng hình của điều chưa thấy: Khoa học mới về trí tưởng tượng).

phan biet thuc hu anh 1

Minh họa: Tranh Eye in the Egg của Ülo Ilmar Sooster. Ảnh: Obelisk Art History.

Tri giác cũng là tưởng tượng

Qua một khảo sát, khoảng 80% người vừa trải qua mất mát cho biết họ gặp lại người thân đã khuất: thường là cảm giác sống động về sự hiện diện của họ, nhưng một số người thậm chí nghe thấy, nhìn thấy hoặc trò chuyện với họ.

60% người mất thị lực khi trưởng thành nhìn thấy những thứ không có ở đó, đôi khi là những hình ảnh khoa trương như “hai thanh niên … khoác áo choàng lộng lẫy … đội mũ … viền bạc”. Đây được gọi là hội chứng Charles Bonnet.

Một phụ nữ 20 tuổi bị bịt mắt trong 12 giờ nhìn thấy “thành phố, bầu trời, kính vạn hoa, sư tử và hoàng hôn sáng đến mức cô ‘gần như không thể nhìn vào'”. Sau khi mất một chi, hầu hết mọi người đều mang trong mình “bóng ma về phần cơ thể bị mất, thường trực hoặc không”. Weir Mitchell, nhà thần kinh học người Mỹ, đặt ra thuật ngữ “chi ma” sau khi nghiên cứu 90 trường hợp từ cuộc nội chiến Mỹ.

Phi công trên những chuyến bay dài, lữ khách đi qua bão tuyết và sa mạc, tù nhân và con tin bị giam giữ trong bóng tối: Não bộ của họ khôn nguôi nghĩ về những thứ họ đã bị tước đoạt.

Ngoài thị giác, các giác quan khác cũng tạo ra ảo giác mạnh mẽ. Khoảng 10% trong số chúng ta từng nghe thấy giọng nói tưởng chừng đến từ bên ngoài nhưng thực ra do chính mình tạo ra, và 1% gặp hiện tượng này thường xuyên.

Tâm trí và bộ não hợp tác thế nào để tạo ra những trải nghiệm lừa phỉnh này? Nghiên cứu về ảnh tượng có chủ ý – (người tham gia được yêu cầu “hình dung một quả táo trong tâm trí”) – và về ảo giác cho thấy cả hai có chung cơ chế: kích hoạt các vùng cảm giác trong não.

Điều này cũng diễn ra khi ta thực sự tri giác thế giới xung quanh. Tương đồng này mang một hàm ý sâu sắc: tri giác thực chất cũng là một dạng hành vi tưởng tượng. Tri giác phụ thuộc nhiều vào kiến thức có sẵn – những mô hình nội tại, tỉ mỉ về thế giới – hơn ta thường nghĩ.

Ý tưởng xa xưa này được củng cố bởi quan điểm từ tâm lý học rằng dự đoán đóng vai trò quan trọng trong tri giác, và nhờ bằng chứng từ thần kinh học rằng trải nghiệm của chúng ta phụ thuộc hoàn toàn vào hoạt động của bộ não – vốn tiêu thụ một lượng lớn đường và oxy.

Nói cách khác, tri giác ít mang tính “từ ngoài vào trong” hơn ta tưởng, mà chủ yếu là “từ trong ra ngoài”. Nếu tri giác quả thật là một dạng ảo giác, thì vấn đề đặt ra là: Làm sao để phân biệt giữa tưởng tượng và thực tế?

Tạo ra và kiểm chứng tưởng tượng

Con người có thể nhầm lẫn giữa tưởng tượng với hiện thực, thường chỉ thoáng qua. Nhưng đôi khi, như trường hợp loạn thần, sự nhầm lẫn kéo dài. Ngược lại, hiệu ứng “Perky” cho thấy con người có thể không nhận ra rằng những vật họ tưởng tượng thực chất đang trình ra trước mắt họ.

Tuy vậy, phần lớn thời gian bộ não chúng ta vẫn đưa ra được kết luận đúng. Có một số nguyên tắc chung để phân biệt thực hư. Ví dụ, trải nghiệm sống động, chi tiết, dễ dàng xuất hiện và nhất quán với bối cảnh thường cho thấy đó là thực tế. Nhưng không phải điều này luôn đúng.

phan biet thuc hu anh 2

Một giấc mơ đã giúp Dmitri Mendeleev xây dựng bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học. Ảnh: studio4art/Freepic.

Đôi khi mộng tưởng cũng sống động và dễ dàng xuất hiện; còn tìm lối trong màn sương dày lại rất khó khăn, tạo ra trải nghiệm mờ ảo. Dẫu vậy, bộ não vẫn biết cách đánh giá và thường đưa ra câu trả lời chính xác.

Nghiên cứu lĩnh vực trí tuệ nhân tạo cung cấp một số gợi ý thú vị về cách não bộ phân biệt thực hư.

Trong mô hình “đối kháng tạo sinh” (generative adversarial models), hai yếu tố kết hợp để học hỏi về thế giới: “tạo sinh” cố gắng dự đoán thế giới chính xác nhất có thể, còn “đối kháng” làm nhiệm vụ phân biệt xem đầu vào là thực hay chỉ là sản phẩm của tạo sinh. Hai mô hình này liên tục nâng cao kỹ năng: tạo sinh ngày càng tinh vi hơn trong việc tạo ra thực tại giả, đối kháng liên tục cải thiện khả năng nhận diện thật – giả.

Quá trình tương tự có thể diễn ra trong não bộ chúng ta. Phần “đối kháng” chịu trách nhiệm kiểm tra thực tại do vùng thùy trán lớn điều khiển: vùng 10, ở đầu vỏ não trước trán, đặc biệt hoạt động mạnh khi ta phải quyết định xem một vật thể là thật hay do tưởng tượng. Khu vực này nhỏ hơn và ít hoạt động hơn ở những người loạn thần, đặc biệt là những ai bị ảo giác.

Vậy là vùng tiến hóa cao nhất trong não bộ con người lại đảm nhận nhiệm vụ “siêu nhận thức” quan trọng: phân biệt tưởng tượng với thực tế. Nhưng điều đó không có nghĩa những tưởng tượng này không thể là nguồn cảm hứng mạnh mẽ.

Nhà hóa học Friedrich Kekulé kể ông phát hiện cấu trúc vòng của phân tử benzen sau khi mơ thấy một con rắn “tự cắn đuôi mình”. Một giấc mơ đã giúp Dmitri Mendeleev xây dựng bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học. Einstein cũng tưởng tượng diện mạo vũ trụ nếu ta di chuyển trên một chùm ánh sáng. Nhà văn Malcolm Bradbury từng nói: “Mọi nhà văn đều nghe thấy những giọng nói. Buổi sáng bạn thức giấc với những giọng nói ấy… và cố gắng nắm giữ trước khi chúng biến mất”.

Các quá trình chồng chéo nhau trong bộ não năng động giúp chúng ta tri giác, tưởng tượng và sáng tạo. Chúng ta cần biết đâu là đâu – nhưng như Kekulé đã khuyên: “Hãy học cách mơ, thưa quý vị, và có lẽ chúng ta sẽ học được sự thật”.

Nguồn: https://znews.vn/nao-nguoi-phan-biet-thuc-hu-ra-sao-post1533814.html

Sách hay

Cuốn sách giúp bạn giao tiếp tốt, ghi điểm trong mọi tình huống

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách “Đơn giản mà nói” cung cấp những phương pháp hữu ích giúp bạn tạo ra thông điệp hiệu quả từ việc sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu cho đến cách kể chuyện sinh động.

Cuốn sách Đơn giản mà nói của tác giả Ben Guttmann hướng dẫn cách giao tiếp để bất kỳ ai cũng có thể áp dụng nhằm cải thiện khả năng truyền đạt và “ghi điểm” trong mọi tình huống.

Don gian anh 1

Tác phẩm “Đơn giản mà nói”. Ảnh: First News Trí Việt

Xác định mục tiêu rõ ràng

Trước khi bắt đầu nói hoặc viết, hãy tự hỏi: “Mình muốn người nghe hiểu điều gì?”. Việc xác định mục tiêu rõ ràng ngay từ đầu giúp bạn tránh lạc đề và tập trung vào thông điệp chính. Đặc biệt, trong môi trường công sở hiện nay, nơi các cuộc họp và email trở nên dày đặc, việc truyền đạt một thông điệp rõ ràng và nhanh chóng trở thành yếu tố quan trọng.

Sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc sử dụng ngôn ngữ đơn giản và rõ ràng trong giao tiếp có thể giảm thiểu sự hiểu lầm và tăng cường hiệu quả trong các cuộc họp và thảo luận nhóm. Trong giao tiếp, ngôn ngữ đơn giản giúp thông điệp dễ tiếp nhận và dễ nhớ hơn. Nếu bạn đang thuyết trình hay viết một email quan trọng, tránh sử dụng những thuật ngữ chuyên môn quá phức tạp trừ khi bạn chắc chắn người nghe đã quen thuộc với chúng.

Hãy tập trung vào sự nổi bật

Các nhà tâm lý học và thần kinh học sử dụng từ “nổi bật” để mô tả những thứ dễ nhận ra giữa đám đông, dễ thu hút sự chú ý của chúng ta. Hãy tập trung vào một ý chính để tạo nên sự khác biệt. Nếu bạn đang giới thiệu một sản phẩm mới, hãy chia nội dung thành các phần nhỏ như: tính năng nổi bật, lợi ích, và cách sử dụng.

Tạo sự đồng cảm và kết nối

Giao tiếp không chỉ là truyền tải thông tin mà còn là việc xây dựng mối quan hệ và kết nối với người khác. Khi bạn chia sẻ một câu chuyện đơn giản và dễ hiểu, thông điệp của bạn sẽ trở nên sinh động và dễ nhớ. Lắng nghe chủ động là một yếu tố quan trọng trong giao tiếp hiện đại, không chỉ giúp hiểu rõ hơn đối phương mà còn tạo dựng mối quan hệ bền chặt hơn.

Luyện tập và điều chỉnh

Giao tiếp là một kỹ năng cần được rèn luyện và cải thiện liên tục. Mỗi khi bạn giao tiếp, hãy quan sát phản ứng của người nghe và sẵn sàng điều chỉnh nếu cần. Khi bạn luyện tập thường xuyên, bạn sẽ trở nên tự tin và hiệu quả hơn trong việc truyền đạt thông điệp.

Nguồn: https://znews.vn/cuon-sach-giup-ban-giao-tiep-tot-ghi-diem-trong-moi-tinh-huong-post1531467.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Ái kỷ là gì và làm sao để đối phó với ái kỷ?

Được phát hành

,

Bởi

Nhận diện người ái kỷ và học cách đối phó, thoát ra những ảnh hưởng độc hại của họ là điều được chuyên gia người Thụy Điển Thomas Erikson chia sẻ trong cuốn sách của mình.

sach ai ky anh 1

Tranh Echo và Narcissus (1903) của John William Waterhouse, ghi lại khoảnh khắc bi thảm trong thần thoại Hy Lạp khi Narcissus, bị hình ảnh phản chiếu của mình mê hoặc, không hề hay biết Echo buồn bã đang dõi theo anh trong tuyệt vọng. Nguồn: Google Art Project.

Trong tiếng Anh, chứng ái kỷ có tên “narcissism”, lấy tên từ nhân vật Narcissus trong thần thoại Hy Lạp. Chàng là con thần sông Cephissus, đẹp trai đến mức ai nhìn thấy cũng sẽ yêu ngay. Nhưng chàng đã từ chối mọi người nên đành chịu lời nguyền phải yêu hình ảnh phản chiếu của bản thân trên mặt nước.

Câu chuyện có nhiều phiên bản khác nhau, trong số đó có một phiên bản Narcissus cứ thế chết đói khi ngồi bên bờ hồ nhìn đắm đuối hình ảnh của mình dưới nước. Cuối cùng, chàng biến thành một bông hoa màu trắng và vàng. Loài hoa về sau được đặt theo tên chàng – chi hoa Narcissus, bao gồm hoa thủy tiên vàng.

Tuy nhiên, khái niệm “narcissism” thời hiện đại bao hàm những ý nghĩa mới, vượt khỏi khuôn khổ thần thoại xưa. Chuyện của Narcissus, dẫu đau lòng, vẫn vẹn nguyên không khí bi kịch đầy chất thơ. Nhưng sống với người ái kỷ, theo quan điểm của tâm lý học hiện đại, dường như lại là một sự chịu đựng mà con người phải vùng thoát khỏi.

Khi vây quanh là những người ái kỷ

Trong cuốn sách Khi vây quanh là những người ái kỷ, tác giả Thomas Erikson giới thiệu khái lược những hiểu biết căn bản về ái kỷ, đồng thời đưa ra phương án để mỗi người có thể “nhận diện và bảo vệ mình trước những kẻ độc hại”.

Ngay từ chương 1 Ái kỷ là gì?, tác giả dứt khoát khẳng định “ái kỷ không phải một căn bệnh”, do đó không thể điều trị bằng thuốc hoặc học cách sống chung với nó.

Ái kỷ là một chứng rối loạn nhân cách, với một số điểm chung thường thấy như quá mức coi bản thân là trung tâm, cảm thấy bản thân đặc biệt và độc đáo, kiêu ngạo và kiêu căng, liên tục đòi hỏi sự công nhận, dễ dàng chỉ trích và phán xét hay thậm chí lừa dối và thao túng người khác.

sach ai ky anh 2

Sách Khi vây quanh là những người ái kỷ – Cách nhận diện hành vi và tự bảo vệ mình trước những kẻ độc hại. Ảnh: O.P.

Trong các chương tiếp theo, Erikson làm rõ hơn từng khía cạnh của những biểu hiện này. Chẳng hạn, dù tập trung vào bản thân và coi bản thân là số một dường như là động lực bẩm sinh của chúng ta, nhưng vẫn có ranh giới phân biệt giữa người ái kỷ và những người khác: người bình thường sẽ suy ngẫm và tính đến tác động mà quyết định của họ sẽ gây ra cho người khác.

Rất khó để nhận ra một người rối loạn nhân cách ái kỷ chỉ thông qua lời nói của họ. Tuy nhiên, đối chiếu giữa lời nói và hành động của một người có thể giúp xác định họ có phải người ái kỷ không.

Tác giả giới thiệu một số cách “dịch” lời của người ái kỷ, ví dụ “Người yêu cũ của tôi chưa bao giờ phản ứng như vậy” thì chính là “Người yêu cũ của tôi đã phản ứng chính xác như vậy, đó là lý do họ trở thành ‘người cũ’. Thực ra bạn đang phản ứng giồng tất cả nạn nhân khác của tôi. Phản ứng của bạn khuyến khích tôi tiếp tục cư xử như hiện tại, vì vậy tôi có thể khiến bạn cảm thấy tồi tệ và đau buồn”.

Với khả năng lừa dối và thao túng, người ái kỷ trở thành mối nguy hại với đời sống những người xung quanh. Tác giả so sánh ái kỷ với hút thuốc: người hút thuốc không chỉ làm hại chính mình, mà còn gây hại tương đương, thậm chí là hơn, đối với những ai hút thuốc tự động.

Cuốn sách giới thiệu mô hình DISC (Dominance – Thống trị, Influence – Ảnh hưởng, Steadiness – Kiên định, Compliance – Tuân thủ) được dùng như hệ thống phân tích hành vi. Dựa trên cách một người phản ứng với quy tắc và luật lệ; tiếp cận các vấn đề và đối phó với thách thức; phản ứng với thay đổi; hợp tác với mọi người và tìm cách ảnh hưởng lên người khác (ứng với các màu Xanh lam; Đỏ; Xanh lá; Vàng), tác giả chỉ ra cách mà người ái kỷ có thể lợi dụng điểm yếu của người thuộc từng nhóm để biến họ thành nạn nhân của mình.

Tác giả dành riêng một chương để bàn về nguyên nhân dẫn đến ái kỷ, với một số ví dụ môi trường sống ngày nhỏ, bao gồm các yếu tố như hành xử của người chăm sóc, có thể góp phần hình thành rối loạn nhân cách này. Câu chuyện thái độ, ứng phó đối với người ái kỷ cũng được thảo luận chi tiết, trong đó bao gồm những điều không được làm và điều cần phải làm.

Nhìn bức tranh rộng lớn hơn, tác giả xem xét các khái niệm “nền văn hóa ái kỷ”, “chứng ái kỷ tập thể” và hiện tượng bình thường hóa chứng ái kỷ, đưa ra những lời cảnh tỉnh và kêu gọi hành động để ngăn chặn xu hướng ái kỷ gia tăng.

Một đôi chỗ, cuốn sách thiếu hụt cứ liệu khoa học chặt chẽ để bổ sung cho những luận điểm của tác giả và dường như vẫn còn khá chung chung. Tuy nhiên, Khi vây quanh là những người ái kỷ vẫn mang đến một cái nhìn khái quát về rối loạn nhân cách này, qua một lăng kính gần gũi, dễ tiếp cận và ứng dụng vào đời sống.

Thomas Erikson là chuyên gia, tác giả và diễn giả người Thụy Điển, nổi tiếng với các nghiên cứu về hành vi con người và tâm lý giao tiếp. Ông cũng là tác giả sách bán chạy, với bộ sách Surrounded by Idiots (Vây quanh bởi những kẻ ngốc), được dịch ra gần 60 ngôn ngữ và đã bán hơn 3 triệu bản trên toàn thế giới. Erikson có nhiều kinh nghiệm trong việc huấn luyện các nhà lãnh đạo và tổ chức, giúp họ nâng cao nhận thức về bản thân, cải thiện khả năng giao tiếp, lãnh đạo và làm việc nhóm.

Bên cạnh sự nghiệp viết sách, ông còn là một diễn giả năng động, tích cực chia sẻ kiến thức về cách đọc hiểu hành vi con người. Trong hơn hai mươi năm, ông đã đi khắp châu Âu để giảng dạy và tổ chức các hội thảo cho các giám đốc điều hành và quản lý tại nhiều công ty lớn.

Nguồn: https://znews.vn/ai-ky-la-gi-va-lam-sao-de-doi-pho-voi-ai-ky-post1531775.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tiểu sử Steve Jobs

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn tiểu sử do cựu thư ký tòa soạn của tạp chí Time, Walter Isaacson biên soạn, dựa trên 40 cuộc phỏng vấn với Steve Jobs trong 2 năm, cùng các cuộc phỏng vấn với hơn 100 người thân, bạn bè, đồng nghiệp và đối thủ của ông. Tác phẩm cung cấp cho người đọc một cái nhìn sâu sắc về nhân cách và cả những thành tựu của cuộc đời Steve Jobs. Cuốn sách cũng chứa đựng những điều Steve Jobs muốn nói với thế giới.

Raskin hình dung chiếc máy tính đó sẽ được bán với giá 1.000 đôla và là một cỗ máy đơn giản với màn hình, bàn phím và phần cứng gói gọn trong một thiết bị.

Jef Raskin là kiểu người có thể làm mê hoặc cũng như khiến Jobs cảm thấy khó chịu. Đôi lúc, ông biểu hiện cả hai. Ông thuộc kiểu người triết lý, vừa ham chơi lại vừa cần cù, chăm chỉ. Raskin từng theo học khoa học máy tính, tham gia dạy nhạc và nghệ thuật thị giác. Ông cũng từng thành lập một công ty nghệ thuật biểu diễn nhạc thính phòng và tổ chức những buổi biểu diễn bí mật.

Luận văn Tiến sĩ bảo vệ năm 1967 tại trường U.C. San Diego của ông đã đưa ra luận điểm: Những chiếc máy tính nên có giao diện hiển thị cả đồ họa thay vì chỉ có ký tự văn bản thông thường. Khi đã thấy chán ngán với công việc giảng dạy, ông thuê một chiếc khinh khí cầu, bay trên nóc nhà Hiệu trưởng và hét thật to rằng ông đã quyết định nghỉ việc.

Khi Jobs cần tìm một người có khả năng viết một cuốn sách hướng dẫn cho Apple II năm 1976, ông đã gọi cho Raskin, lúc đó cũng đang sở hữu một công ty tư vấn nhỏ. Raskin tới gara, cảnh tượng đầu tiên ông bắt gặp là Wozniak đang cặm cụi làm việc ở góc bàn. Và Jobs đã thuyết phục Raskin viết cuốn sách hướng dẫn với giá 50 đô-la. Sau này, ông trở thành Quản lý Bộ phận Xuất bản của Apple.

Macbook anh 1

Chiếc macbook gắn liền với tên tuổi Steve Jobs và thương hiệu Apple. Ảnh: The Washington Post.

Một trong những ước mơ của Raskin là chế tạo ra một dòng máy tính giá rẻ phân phối tới đa số người dùng. Vì vậy, năm 1979, ông thuyết phục Mike Markkula cho ông chủ trì một dự án phát triển sản phẩm nhỏ mang tên “Annie” để thực hiện ước mơ này. Raskin cho rằng có đôi chút thành kiến phân biệt giới khi đặt tên cho những chiếc máy tính theo tên của phụ nữ, vậy nên ông đã đổi lại tên của dự án đó theo loại táo yêu thích của mình: McIntosh. Sau đó, để tránh gây hiểu nhầm với một hãng sản xuất thiết bị âm thanh có tên McIntosh Laboratory, ông đã thay đổi cách ghép âm thành Macintosh.

Raskin hình dung chiếc máy tính đó sẽ được bán với giá 1.000 đô-la và là một cỗ máy đơn giản với màn hình, bàn phím và phần cứng gói gọn trong một thiết bị. Để giảm giá thành sản phẩm, ông đề xuất chiếc máy sẽ có màn hình 5 inch nhỏ nhắn và một bộ vi xử lý giá rẻ (và lì máy) có tên là Motorola 6809. Raskin thích thú tự coi mình là một triết gia.

Ông đã viết ra những suy nghĩ của mình trong một cuốn sách được nhiều người biết đến mang tên The Book of Macintosh (Câu chuyện về Macintosh). Ngoài ra, thỉnh thoảng ông cũng đưa ra những “bản tuyên ngôn” về công nghệ. Một trong số đó là “Máy tính của hàng triệu người” và nó bắt đầu với một khát vọng: “Nếu những chiếc máy tính cá nhân thật sự là của cá nhân, thì khi chọn ngẫu nhiên một gia đình, sẽ không thể có trường hợp một hộ chỉ sở hữu một chiếc máy.”

Trong suốt năm 1979 và đầu năm 1980, dự án Macintosh duy trì sự tồn tại hời hợt. Cứ khoảng vài tháng, nó lại đứng trước nguy cơ bị “xóa sổ”. Mỗi lần như vậy, Raskin lại phỉnh phờ thành công, Markkula lại mở lòng nhân từ. Nhóm phát triển Macintosh lúc đó chỉ có bốn kỹ sư, hoạt động tại trụ sở ban đầu của Apple cạnh nhà hàng Good Earth, cách trụ sở mới của công ty vài dãy nhà.

Không gian làm việc ở đây được trang trí với rất nhiều đồ chơi và các máy bay mô hình hoạt động bằng sóng radio (một niềm đam mê của Raskin) để mang lại cảm giác như một trung tâm chăm sóc hàng ngày cho những “con mọt công nghệ”. Thỉnh thoảng, công việc sẽ được tạm gác lại để nhường chỗ cho những trận chơi ném bóng. Andy Hertzfeld nhớ lại: “Trò chơi này làm cho mọi người cảm thấy rất hứng thú với những tấm bìa cứng sử dụng để che chắn khi chơi. Văn phòng lúc đó giống như một đống hỗn độn.”

Ngôi sao của nhóm là một kỹ sư trẻ có mái tóc vàng, mắt to tròn, hiền hậu với khả năng tập trung tâm lý cao độ, tên là Burrell Smith. Anh là một người tôn sùng công việc viết mã lệnh của Wozniak và luôn khao khát, cố gắng hết mình để có thể tạo ra những thành công sáng chói như vậy. Atkinson đã nhận ra tài năng của Smith khi làm tại bộ phận dịch vụ của Apple.

Ông thật sự kinh ngạc khi chứng kiến khả năng ứng biến với các bản vá lỗi của Smith và đã giới thiệu anh cho Raskin. Smith sau này đã không chống đỡ được chứng bệnh tâm thần phân liệt, nhưng vào đầu thập niên 1980, anh đã thành công khi có thể chuyển sự bất thường trong tâm lý của mình sang niềm hăng say làm việc suốt cả tuần của một tài năng trong ngành công nghệ.

Tầm nhìn của Raskin đã mê hoặc Jobs, chứ không phải bởi sự sẵn sàng thỏa hiệp để giảm thiểu chi phí của ông. Một ngày mùa thu năm 1979, Jobs nói rằng ông muốn Raskin tập trung vào chế tạo sản phẩm mà ông nhắc đi nhắc lại là “vô cùng tuyệt vời.” Jobs nói: “Đừng quá lo lắng về giá cả, hãy tập trung vào khả năng đáp ứng người sử dụng của máy tính.”

Raskin đáp lại lệnh của Jobs bằng một bản ghi nhớ có đôi chút châm biếm. Nó đưa ra tất cả những thứ mà bạn sẽ muốn ở một chiếc máy tính lý tưởng: Màn hình màu có độ phân giải cao, một chiếc máy in không có băng mực với tốc độ in màu một trang một giây, truy cập không giới hạn vào hệ thống mạng ARPA cùng khả năng nhận dạng giọng nói và tổng hợp nhạc, “thậm chí mô phỏng lại giọng hát của Caruso cùng đội hợp xướng thánh ca với âm vang ở mọi cung độ.”

Bảng ghi nhớ đó kết luận: “Việc bắt đầu với những đặc tính mà chúng ta mong muốn là điều ngu xuẩn. Chúng ta phải bắt đầu dựa trên cả việc định hướng giá cả lẫn tập hợp những chức năng mong muốn, dựa trên xu hướng công nghệ tại thời điểm triển khai và tương lai gần.” Nói cách khác, Raskin hầu như không có đủ sự kiên nhẫn đối với niềm tin của Jobs, rằng bạn có thể thay đổi hiện thực nếu bạn có đủ niềm đam mê để phát triển sản phẩm của mình.

Vì vậy, giữa họ đã xảy ra xung đột, đặc biệt sau khi Jobs bị tách ra khỏi dự án Lisa vào tháng 9 năm 1980 và bắt đầu tìm cách để chứng minh quan điểm của mình nhằm tạo ra sự khác biệt. Rõ ràng mục tiêu nhắm đến của ông không gì khác ngoài dự án Macintosh.

Những tuyên bố của Raskin về một chiếc máy tính giá rẻ phục vụ số đông với giao diện đồ họa đơn giản, thiết kế tinh gọn đã làm ông trăn trở rất nhiều. Và một điều hiển nhiên là, một khi Jobs đã hạ quyết tâm thực hiện dự án Macintosh thành công, tương lai của Raskin chỉ còn được tính bằng ngày. Joanna Hoffman, một thành viên của nhóm Mac, nhớ lại: “Steve bắt đầu hành động theo những gì mà ông nghĩ chúng tôi cần phải làm, Jef cũng bắt đầu nghiền ngẫm và nhanh chóng tìm được lời giải cho vấn đề.”

Xung đột đầu tiên liên quan đến việc Raskin sùng bái bộ vi xử lý yếu kém Motorola 6809. Raskin muốn giữ giá của máy Mac dưới 1.000 đô-la trong khi quyết tâm của Jobs là chế tạo ra một dòng máy thật sự tuyệt vời, tuyệt vời đến kinh ngạc. Vì vậy, Jobs bắt đầu tập trung toàn lực chuyển đổi máy Mac sang dùng bộ vi xử lý cấu hình mạnh hơn với tên gọi Motorola 68000, cái mà dòng Lisa đang sử dụng. Ngay trước lễ Giáng sinh năm 1980, ông đã yêu cầu Burrell Smith thiết kế một bản mẫu sử dụng dòng chip mạnh hơn mà không nói với Raskin.

Giống như “người anh hùng” Wozniak từng làm, Smith làm việc thâu đêm suốt sáng, liên tục trong ba tuần liền và đã tìm ra những bước nhảy ngoạn mục trong lập trình. Khi Smith thành công, Jobs có cớ gây sức ép chuyển sang sử dụng bộ vi xử lý Motorola 68000, khiến Raskin phải cân nhắc và tính toán lại chi phí của Mac.

Nguồn: https://znews.vn/macbook-ra-doi-the-nao-post1533731.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng