Connect with us

Sách hay

Cái nhìn đầy đủ về Chiến tranh thế giới thứ Hai

Được phát hành

,

Thế chiến thứ Hai là một trong những giai đoạn giàu kịch tính, cuốn hút nhất trong toàn bộ chiều dài lịch sử đầy thăng trầm của loài người.

Thế chiến thứ Hai là cuộc xung đột vũ trang có quy mô lớn nhất, gây thiệt hại nặng nề nhất trong lịch sử loài người và có ảnh hưởng lâu dài tới thế giới trong suốt nửa sau thế kỷ 20, thậm chí “dư chấn” của cuộc chiến này còn tác động tới cuộc sống ngày nay. Ngoài ra, với những ai yêu thích tìm hiểu và đọc về lịch sử, Thế chiến thứ Hai cũng là một trong những giai đoạn giàu kịch tính, cuốn hút nhất trong toàn bộ chiều dài lịch sử đầy thăng trầm của loài người.

Tuy nhiên, đây cũng là một cuộc chiến quá kỳ vĩ, phức tạp, với nhiều khía cạnh hết sức đa dạng tới mức những tác giả viết về nó cho tới nay vẫn chưa cạn nguồn khai thác để đưa ra những cuốn sách mới về Thế chiến thứ Hai, còn người đọc có lẽ sẽ ngợp trước số lượng khổng lồ những cuốn sách dày mỏng, từ phổ thông tới chuyên sâu, từ tổng hợp tới chi tiết, viết về từng khía cạnh, câu chuyện cụ thể hay về cả cuộc chiến.

Để bắt đầu tìm hiểu về Thế chiến thứ Hai, có lẽ cách hay nhất là xuất phát từ một cuốn sách không quá nặng nề cả về mức độ học thuật của nội dung lẫn số trang sách cung cấp cho ta một cái nhìn đầy đủ, toàn diện, tuần tự về những biến cố chính yếu nhất của cuộc xung đột chấn động thế giới này từ đầu đến cuối. Với bạn đọc Việt Nam, Thế chiến thứ Hai (The second World War) của Anthony Beevor vừa được chuyển ngữ sang tiếng Việt là một lựa chọn có lẽ sẽ khiến đa số độc giả háo hức tìm hiểu về thời kỳ lịch sử đầy biến động này cảm thấy hài lòng.

Anthony Beevor là một tác giả người Anh chuyên về chủ đề lịch sử, trong đó các đầu sách nổi tiếng nhất của ông chủ yếu có chủ đề về thời kỳ Thế chiến thứ Hai.

Thế chiến thứ Hai chính là cuốn ký sự tóm lược lại trọn vẹn tiến trình của cuộc xung đột đã làm rung chuyển thế giới suốt từ tháng 9/1939 đến tháng 9/1945. Thu gọn sáu năm khốc liệt với những chiến trường nằm rải khắp châu Âu, châu Á và châu Phi và bốn trong năm đại dương trên Trái Đất chỉ trong gần 1.200 trang sách quả là một kỳ công của tác giả, một nỗ lực lớn lao để đưa đến cho người đọc một cái nhìn chỉnh thể trọn vẹn của cuộc Thế chiến chỉ trong khuôn khổ của một cuốn sách duy nhất.

Thế chiến thứ Hai bao gồm một phần dẫn nhập và 50 chương nội dung chính thức. Phần dẫn nhập tóm lược ngắn gọn bối cảnh quốc tế từ khi Thế chiến thứ Nhất kết thúc đến những ngày cuối cùng trước khi Thế chiến thứ Hai bùng nổ. Với những ai tò mò muốn tìm hiểu về thời kỳ này song chưa quen thuộc về nó, phần dẫn nhập cung cấp một hiểu biết nền vừa đủ để tất cả bạn đọc bước vào nội dung chính của sách đã được chuẩn bị để hiểu nguyên do dẫn tới các biến cố của Thế chiến thứ Hai.

Chương 1 “Chiến tranh nổ ra” là câu chuyện về 3 tháng cuối cùng trước thời điểm ngày 1/9/1939. Đó là quãng thời gian với nhiều biến động lớn như xung đột Xô – Nhật ở Mông Cổ, đỉnh điểm là trận Khankhil Gol, đánh dấu khẳng định tài cầm quân của Georghi Zhukov cũng như quyết định diễn biến về sau ở mặt trận châu Á – Thái Bình Dương, hay sự căng thẳng tăng dần tại châu Âu, nhất là giữa Đức và Ba Lan, sau cuộc xâu xé Tiệp Khắc trước đó, và những nỗ lực ngoại giao bất thành để ngăn cản sự bành trướng của nước Đức Quốc xã do sự nghi ngờ lẫn nhau giữa Anh – Pháp và Liên Xô, dẫn tới việc ký kết hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau giữa Liên Xô và Đức vào những ngày cuối tháng 8/1939. Tất cả đã quá muộn để ngăn cơn ác mộng không trở thành hiện thực.

Từ chương 2 đến chương 11 là diễn biến của Thế chiến thứ Hai từ tháng 9/1939 đến trước ngày Đức tấn công Liên Xô. Anthony Beevor để phần này để tường thuật lại chiến dịch Ba Lan (chương 2), nơi “chiến tranh chớp nhoáng” của người Đức lần đầu tiên cho thấy sức mạnh khủng khiếp của nó, cũng như “cuộc chiến Cuội” (chương 3) – thời kỳ án binh bất động của liên quân Anh – Pháp ở mặt trận phía Tây từ tháng 9/1939 đến tháng 4/1940, bất chấp cam kết trợ giúp Ba Lan. Chương 5 đến chương 7 là câu chuyện về chiến dịch thắng như chẻ tre của Đức khi đánh chiếm Na Uy, Đan Mạch rồi ngoặt sang phía tây đánh tan tác liên quân Pháp – Anh, buộc nước Pháp phải đình chiến, trên thực tế gần như là đầu hàng, vào tháng 6/1940.

Từ chương 8 đến chương 11 là quãng thời gian nước Anh đứng một mình cự lại sức mạnh của Đức Quốc xã, cùng diễn biến của chiến cuộc tại Bắc Phi, trên biển Đại Tây Dương, nơi người Anh phải chiến đấu bảo vệ lãnh thổ thuộc địa và các tuyến đường tiếp vận sống còn cho sự sinh tồn của mình, cũng như diễn biến chiến tranh tại Balkan, bước chuẩn bị cuối cùng của Hitler trước khi tấn công Liên Xô. Ngoại lệ duy nhất ở phần đầu này là chương 4, nơi Beevor hồi cứu lại ngược thời gian cuộc chiến Trung – Nhật đã khởi đầu từ năm 1931 và lan rộng năm 1937, để rồi chính thức trở thành một phần của Thế chiến thứ Hai từ tháng 9/1939.

Từ chương 12 đến chương 23 là giai đoạn ngọn lửa chiến tranh của Thế chiến thứ Hai đạt tới đỉnh điểm khi Đức tấn công Liên Xô vào tháng 6/1941, khơi mào cho mặt trận trên bộ ác liệt nhất của cuộc chiến, rồi sau đó Nhật tấn công hạm đội Mỹ vào tháng 12/1941, bắt đầu cuộc hải chiến lớn nhất của Thế chiến thứ Hai trên mặt Thái Bình Dương.

Giai đoạn đầu của cuộc Thế chiến giờ đây đã ở vào mức khốc liệt nhất của nó đánh dấu thắng lợi vang dội của phe Trục. Người Đức liên tục đẩy lùi Hồng quân Liên Xô và tiến sát Moskva trước khi chịu thất bại đầu tiên trong cuộc chiến trước cửa ngõ thủ đô Liên Xô, buộc phải rút lui chỉ ngay trước khi người Nhật kéo nước Mỹ vốn cố hết sức trung lập ở ngoài cuộc vào vòng chiến sau cuộc tập kích Trân Châu Cảng ngày 7/12/1941, rồi sau đó ào ạt chiếm toàn bộ Đông Nam Á cùng một vùng rộng lớn trên Thái Bình Dương.

Hệ quả của các biến cố này là bước ngoặt quan trọng bậc nhất cuộc chiến: sự hình thành phe Đồng Minh do Liên Xô – Mỹ – Anh là ba trụ cột lớn vào đầu năm 1942 với mục tiêu đánh bại triệt để phe Trục (Đức – Italy – Nhật) và vãn hồi hòa bình trên toàn cầu. Dù vẫn chiếm ưu thế tạm thời, sức mạnh của phe Trục đã chứng tỏ những giới hạn của nó với các thất bại của Đức tại Moskva mùa đông năm 1941 (chương 15), của Nhật tại Midway vào tháng 6/1942 (chương 20) cùng các thất bại thê thảm của Italy trước đó tại Balkan (chương 10), Bắc Phi và Đông Phi (chương 11, 21).

Những nỗ lực quan trọng cuối cùng nhằm giành được thắng lợi quyết định của Đức (chương 22) và Nhật (chương 23) trong nửa cuối năm 1942 cũng vấp phải những khó khăn lớn do sự giáng trả quyết liệt của phe Đồng Minh, báo hiệu gió sắp đổi chiều.

Phần còn lại của “Thế chiến thứ Hai”, từ chương 24 đến chương 50, chiếm già nửa số trang của cuốn sách, là câu chuyện các nước Đồng Minh phản kích đánh bại phe Trục trên tất cả các mặt trận. Tại mặt trận Xô – Đức, trận Stalingrad (chương 24) đã đẩy Đức Quốc xã vào thế bị động rồi từ đó đi từ thất bại này tới thất bại khác.

Tại Bắc Phi, thất bại tại El Alamein vào cuối năm 1942 (chương 25) là khởi đầu cho thất bại hoàn toàn của Đức – Italy trên lục địa Đen. Chương 26 đến chương 30 điểm qua chiến sự giằng co trên khắp các chiến trường ở châu Âu, châu Á và châu Phi.

Chương 31 đến chương 40 tường thuật lại chủ yếu chiến cuộc giữa các nước Đồng Minh và Đức – Italy trong giai đoạn 1943-1944, bắt đầu từ nỗ lực tấn công mùa hè cuối cùng của người Đức vào tháng bảy năm 1943 ở Kursk (chương 31) tới cuộc tấn công của Anh – Mỹ lên Sicily và bán đảo Italy (chương 32). Tình hình thuận lợi cho thấy thắng lợi của phe Đồng Minh chỉ còn là vấn đề thời gian, chiến lược hành động của Đồng Minh được thống nhất trong hội nghị Tehran (chương 33). Italy nhanh chóng bị đánh bại, đổi phe – ngoại trừ một lực lượng nhỏ rút lên phía bắc cố thủ (chương 35). Mùa thu-đông 1943 và mùa xuân 1944 đánh dấu những cuộc tấn công liên tục của Liên Xô trên mặt trận phía Đông và Anh – Mỹ tại Italy.

Để rồi cuộc đổ bộ lên Normandy và chiến dịch Bagration (chương 39) làm quân Đức thua lớn phải rút lui trên cả hai mặt trận, dẫn tới binh biến trong nội bộ nước Đức với cuộc ám sát hụt Hitler (20 tháng bảy năm 1944), Paris được giải phóng (tháng tám năm 1944), trong khi lực lượng kháng chiến tại nhiều quốc gia bị chiếm đóng khác cũng vùng dậy như cuộc nổi dậy tại Warszawar (chương 40).

Trong khi phe Đồng Minh chủ trương “Đức trước”, chiến sự tại châu Á – Thái Bình Dương vẫn tiếp tục ác liệt (chương 37), người Nhật vẫn giành được một số thắng lợi trên lục địa tại Trung Quốc hay chiếm được Miến Điện, song ngày càng lâm vào thế hạ phong trước sức mạnh hải quân ngày càng vượt trội của Mỹ.

Người Nhật thắng lợi trong chiến dịch Ichi-Go để tạo hành lang nối thông vùng kiểm soát ở Trung Quốc với Đông Dương, nhưng hạm đội Nhật gần như tan tành trong hải chiến vịnh Leyte (chương 41). Từ đây, trên biển người Nhật chỉ còn biết cố thủ cảm tử các hòn đảo để làm chậm bước tiến của quân Mỹ tới các đảo nhà của nước Nhật mà không còn khả năng phản kích.

Những chương cuối của “Thế chiến thứ Hai” dành cho các cuộc phản kích của Đồng Minh tại châu Âu trên mặt trận phía Tây và Balkan (chương 43), mặt trận Xô – Đức (chương 44), tại châu Á trong cuộc chiến tranh “nhảy cóc” chiếm đảo của người Mỹ (chương 45).

Chương 46 đến chương 48 kể lại cuộc gặp thượng đỉnh thứ hai của nguyên thủ Liên Xô – Mỹ – Anh tại Yalta trên bán đảo Crimea mới được Liên Xô giải phóng chưa lâu để dàn xếp về tương lai hậu chiến của châu Âu và thế giới, các cuộc tấn công đồng thời từ hai hướng đông và tây (chương 46, 47) và trận chiến đánh chiếm Berlin (chương 48).

Chương 49 và chương 50 là đoạn kết của nước Nhật: những cuộc không kích dữ dội vào các thành phố của Nhật Bản, lần đầu tiên vũ khí phân hạch được sử dụng trên thực tế và cho thấy sức hủy diệt khủng khiếp của nó, và cuối cùng là quyết định đầu hàng vô điều kiện của người Nhật để tránh cho các đảo nhà của họ phải chịu thêm tàn phá.

Sáu năm chiến tranh khốc liệt với quá nhiều biến cố xảy ra ở những địa điểm quá xa nhau sẽ rất khó để độc giả theo dõi, vì vậy, “Thế chiến thứ Hai” được bổ sung 24 bản đồ về tình hình các chiến trường, các trận đánh quan trọng cùng một phụ lục ảnh tư liệu giúp người đọc có cái nhìn trực quan hơn, làm cho các tường thuật từ ngữ trở nên sống động, dễ hiểu và gần gũi hơn.

Nguồn: https://zingnews.vn/cai-nhin-day-du-ve-chien-tranh-the-gioi-thu-hai-post1446248.html

Sách hay

Con người hiện đại có thể học được gì từ Quỷ Cốc Tử

Được phát hành

,

Bởi

Trong thế giới hiện đại, “Quỷ Cốc Tử mưu lược toàn thư” không chỉ là một di sản văn hóa mà còn là “Trí tuệ kỳ thư” mang tính ứng dụng cao.

Trong thế giới hiện đại, “Quỷ Cốc Tử mưu lược toàn thư” không chỉ là một di sản văn hóa mà còn là “Trí tuệ kỳ thư” mang tính ứng dụng cao.

Con người hiện đại có thể học được gì từ Quỷ Cốc Tử

Trong thế giới hiện đại, “Quỷ Cốc Tử mưu lược toàn thư” không chỉ là một di sản văn hóa mà còn là “Trí tuệ kỳ thư” mang tính ứng dụng cao.

Audiobook

Nguồn: https://znews.vn/con-nguoi-hien-dai-co-the-hoc-duoc-gi-tu-quy-coc-tu-post1512001.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Dám nghi, dám nghĩ, dám nghỉ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách này ghi chép những câu chuyện nhỏ về cuộc sống của tác giả quanh vấn đề Dám Nghi – Dám Nghĩ – Dám Nghỉ ở ba nơi: Mekong – Sài Gòn – San Francisco.

Thấy trên bảng có hai bài toán thống kê, chàng sinh viên nghĩ rằng chúng là bài tập về nhà. Vài ngày sau, anh nộp bài cho giáo sư với lời giải thích “bài tập lần này hơi khó hơn bình thường” nên anh nộp trễ.

Truyền thông nói gì về giới hạn?

Họ nhắc đến những trải nghiệm thương đau như là nấu hỏng, chi phí tốn kém, hay phải lau dọn bếp khá là mệt đằng sau. Kiểu là như vậy đấy.

Tôi bảo với cô nhà báo rằng, tôi sẽ ái ngại nếu những người thân quen quanh tôi, người mà biết hết mọi nốt thăng, nốt trầm, nốt lỗi trong đời tôi đọc bài báo này. Tôi hỏi cô có cách nào chỉnh sửa được không. Cô cười giải thích với tôi rằng, chúng ta nên nghĩ ở góc độ người đọc.

Người đọc báo mạng cần thông tin chính xác (tức không đưa thông tin sai), nhưng súc tích ngắn gọn và họ sẽ tiếp tục đọc thêm nhiều bài khác. Người đọc báo mạng không cần tôi giải thích mọi ngóc ngách ưu khuyết về cuộc đời tôi, tôi đâu phải là nhân vật của công chúng. Cô nhà báo gợi ý tôi xem bản nháp có chỗ nào chưa đúng thì sửa chữa, chứ chưa đủ thì rất khó để viết thành đủ.

Gioi han anh 1
Ảnh minh hoạ. Nguồn: BBC.

Bên cạnh nhu cầu đọc nhanh của độc giả, việc thuyết phục tòa soạn cho nhiều “đất” để viết dài là một vấn đề khác. Tôi tuy vẫn ái ngại, nhưng thấy cô nói có lý. Tri thức của độc giả đến từ việc họ đọc đa dạng nội dung, và đọc nhiều mỗi ngày. Nếu tôi có duyên được đóng góp một bài đúng-tuy-chưa-đủ thì cũng là một vinh dự rồi. Vậy thôi tôi đồng ý cho đăng.

Nhân nói chuyện về báo, tôi muốn chia sẻ một bài báo tôi đọc gần đây. Năm 1939, tại giảng đường Đại học UC Berkeley, một sinh viên tiến sĩ tên là George Dantzig đến lớp trễ. Thấy trên bảng có hai bài toán thống kê, chàng sinh viên nghĩ rằng chúng là bài tập về nhà. Vài ngày sau, anh nộp bài cho giáo sư với lời giải thích “bài tập lần này hơi khó hơn bình thường” nên anh nộp trễ.

Ông giáo sư giật mình, không phải vì chàng sinh viên nộp bài trễ mà vì anh đã… nộp bài. Bài toán viết trên bảng hôm ấy không phải là bài tập về nhà. Chúng là hai bài toán thống kê nổi tiếng nhân loại chưa có đáp án. Ông giáo sư viết trên bảng cho lớp biết, và anh sinh viên George Dantzig đã… giải ra.

Nguồn: https://znews.vn/chang-sinh-vien-nham-de-toan-noi-tieng-nhan-loai-voi-bai-tap-ve-nha-post1511859.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1
Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2
Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng