Connect with us

Sách hay

‘Việt Nam đang có cơ hội rất lớn trong ứng dụng công nghệ’

Được phát hành

,

Theo tác giả Maciej Kranz, Việt Nam có dân số trẻ, nền kinh tế đang tăng trưởng và khát khao khởi nghiệp, nên có cơ hội lớn trước Cách mạng Công nghiệp 4.0.

Ngày 3/10, từ Thung lũng Silicon (Mỹ), tác giả Maciej Kranz có mặt tại TP.HCM giới thiệu cuốn sách Thiết lập Internet Vạn Vật trong doanh nghiệp với độc giả Việt Nam. Cuốn sách được xem là cẩm nang cho các nhà lãnh đạo doanh nghiệp trong thời đại 4.0.

Thông qua cuốn sách này, tác giả đã mang đến những giải pháp Internet Vạn Vật (IoT – Internet of Things), đưa những ý tưởng to lớn về IoT trở thành những vấn đề hết sức thực tế, đồng thời chỉ ra cách giúp các doanh nghiệp triển khai IoT, tạo ra lợi nhuận và hiệu quả trong xu hướng công nghệ có tầm ảnh hưởng lớn như hiện nay.

Nhân dịp này, Zing có cuộc trò chuyện với tác giả Maciej Kranz.

Công nghệ giải quyết được các vấn đề trong cuộc sống

– Điều gì thôi thúc ông bắt tay vào thực hiện cuốn sách “Thiết lập Internet Vạn Vật trong doanh nghiệp”?

– Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc viết sách, cho đến cách đây hai năm, có nhiều khách hàng hỏi làm thế nào để ứng dụng IoT vào doanh nghiệp của họ. Trên thị trường cũng không có nhiều cuốn sách viết chuyên sâu về IoT. Bởi vậy tôi quyết định viết cuốn sách này, mang đến những thông tin chuyên sâu từ những người trong cuộc.

Mục tiêu chính của cuốn sách này là giúp tất cả các doanh nghiệp, dù lớn hay nhỏ trên thế giới, ở bất kỳ ngành nghề nào cũng có thể bắt đầu khởi động cho hành trình ứng dụng IoT. Cần phải có một cuốn sách mang tính chất hướng dẫn, thực tế từng bước để cho họ ứng dụng.

Tác giả Maciej Kranz .

Tác giả Maciej Kranz .

– Được xem là một trong những nhà tiên phong trong lĩnh vực IoT, ông mất bao lâu để thực hiện cuốn sách này?

– Khó khăn lớn nhất với tôi là về thời gian. Hiện tại công việc chính của tôi vẫn là ở Cisco, tôi chỉ dành mỗi sáng chủ nhật để viết sách. Vậy nên phải đến hai năm tôi mới viết xong cuốn sách này.

Kiến thức, nội dung của cuốn sách không có gì khó khăn vì đó là công việc mà tôi đang làm, cái khó là tiến trình thực hiện vì tôi bận rất nhiều công việc ở công ty, phải liên tục trả lời thắc mắc của khách hàng các vấn đề về công nghệ khiến thời gian bị kéo dài.

– Ông có thể cho biết tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ trong đời sống hiện nay?

– Thực chất chỉ có công nghệ mới giải quyết được các vấn đề với hiệu ứng nhanh nhất, tiết kiệm chi phí nhất và tạo tác động lớn nhất không chỉ cho kinh doanh mà còn về xã hội. Hiện nay, chúng ta hoàn toàn có thể ứng dụng công nghệ vào tất cả các lĩnh vực, vì đây là kỷ nguyên công nghệ. Đó là điều chắc chắn.

– Với việc vận dụng IoT, doanh nghiệp của ông đã có những thay đổi như thế nào?

– Trong chính Cisco cũng đã áp dụng IoT, cụ thể ở đây là những nhà máy sản xuất những thiết bị kết nối mạng, sử dụng 1500 bộ cảm biến để đo về sử dụng năng lượng. Khi sử dụng IoT, với bộ cảm biến này sẽ giúp tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm được khoảng 20% năng lượng và tương đương với 1 triệu USD (23.3 tỷ đồng) mỗi năm. Sau khi sử dụng ở nhà máy này, sẽ tiếp tục được sử dụng ở các nhà máy khác trên toàn thế giới để đặt mục tiêu tiết kiệm năng lượng lên 30%. Đó là ứng dụng cụ thể ngay tại Cisco.

Ứng dụng công nghệ để tạo nên sự đột phá và khác biệt

– Trong cuốn sách của mình, ông có đề cập đến việc ứng dụng IoT để xây dựng những thành phố thông minh. Xin ông nói rõ hơn về vấn đề này và liệu Việt Nam có thể ứng dụng nền tảng này để tạo nên những thành phố thông minh hay không?

– Việc xây dựng thành phố thông minh trên thế giới tùy thuộc vào khả năng và điều kiện của từng thành phố. Mỗi thành phố có những điều kiện khác nhau về giao thông vận tải, các dịch vụ đô thị, nước, thiên nhiên, chính phủ…

Nhưng có 3 yếu tốt cốt lõi mà thành phố nào cũng cần là chỗ đậu xe, hệ thống đèn giao thông và bãi rác. Đó là 3 yếu tố mà IoT có thể ứng dụng ngay tức khắc và nó sẽ giúp gia tăng hiệu quả rất lớn. Và đặc biệt, lợi nhuận thu lại từ việc đầu tư này rất rõ và rất cao khi ứng dụng IoT vào 3 yêu tố trên, có thể tiết kiệm được 20-30% nguồn năng lượng, nâng cao hiệu quả sử dụng.

Tôi nghĩ hoàn toàn có thể khả thi khi áp dụng cho Việt Nam với các thành phố như TP.HCM, Hà Nội… vì ở đây mọi thứ còn quá thiếu. IoT hoàn toàn có thể sử dụng tùy vào sự sẵn sàng của chính phủ và những doanh nghiệp có thể ứng dụng. Hiện nay, có rất nhiều công nghệ cũng như giải pháp để có thể lựa chọn. Các thành phố ở Việt Nam hay các nước đang phát triển hoàn toàn có thể ứng dụng.

Sách Thiết lập Internet Vạn Vật trong doanh nghiệp .

Sách Thiết lập Internet Vạn Vật trong doanh nghiệp .

– Tại sao ông cho rằng IoT là “cơ hội mang lại cuộc cách mạng cho nền công nghiệp”?

– Tôi thấy nó đã diễn ra rồi. Những doanh nghiệp đang ứng dụng hoàn toàn có thể tạo nên cuộc cách mạng cho lĩnh vực của họ. Điều quan trọng ở đây là các doanh nghiệp có dám chấp nhận bắt đầu hành động hay không. Họ phải tìm hiểu rất rõ để xem nó phù hợp với mình như thế nào, mình có thể làm gì. Bất cứ lĩnh vực nào nếu ứng dụng IoT hoặc ứng dụng công nghệ nói chung thì đó là cách duy nhất để tạo nên sự đột phá và khác biệt.

– Với những quốc gia mà nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế như Việt Nam, việc vận dụng IoT là một thách thức hay cơ hội?  

– Thực chất, nông nghiệp là lĩnh vực dẫn đầu trên thế giới về ứng dụng IoT. Những trang trại trồng trái cây, chăn nuôi v.v… họ có thể sử dụng IoT để nâng cao hiệu quả sử dụng nước tưới, cũng như trong nông nghiệp điều quan trọng nhất là giảm được lao động thủ công để tặng hiệu quả lao động. Tôi nghĩ nó vừa là cơ hội vừa là thách thức. Cơ hội thì rõ ràng chúng ta đã thấy còn thách thức ở đây là chúng ta có sẵn sàng cho nó hay không, chúng ta chuẩn bị cho nó như thế nào, người nông dân, các doanh nghiệp sẽ phải thực thi nó ra sao.

– Thưa ông, mỗi quốc gia sẽ có một đặc thù riêng về cơ chế, cách vận hành cũng như tính cách con người… Như vậy, liệu cuốn sách của ông có thể áp dụng chung cho các quốc gia không? Ông có điều gì cần lưu ý với họ?

– Đó là vấn đề mà tôi cũng có lưu ý tới. Mỗi đất nước có một vấn đề khác nhau, tuy nhiên trong cuốn sách này, tôi cố gắng đề cập đến những vấn đề phổ biến mà bất kì nước nào hay doanh nghiệp nào cũng có thể gặp phải. Khi áp dụng cuốn sách này hay các cuốn sách khác, tất nhiên, mình cũng phải học hỏi các trường hợp trên thế giới nhưng cũng không nên học hỏi một cách máy móc.

Vẫn phải học hỏi nhưng đồng thời, đối với từng quốc gia cụ thể thì cần phải rút ra cái gì là phù hợp và quan trọng nhất. Quyển sách này chỉ là những quy tắc chung, khi ứng dụng từng thị trường và từng lĩnh vực, phải có sự thấu hiểu lĩnh vực của mình.

– Ông đã có những hiểu biết như thế nào về Việt Nam? Ông có dự đoán gì về cơ hội và tương lai của IoT ở Việt Nam?

– Việt Nam có những yếu tố như dân số trẻ, nền kinh tế đang tăng trưởng và khát khao khởi nghiệp. Với những yếu tố đó, tôi tin là cơ hội rất lớn. Các bạn có thể có những bước nhảy vọt vì các bạn đang ở giai đoạn bắt đầu, mọi thứ đang hoàn toàn mới, không bị những vấn đề cũ chi phối. Với nguồn nhân lực ở đây, với sự khát khao, đam mê công nghệ, với khả năng của các bạn thì cơ hội rất lớn để thành công.

Tác giả Maciej Kranz hiện là Phó chủ tịch, Phụ trách Nhóm giải pháp Đổi mới Chiến lược Sáng tạo tại Cisco với hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực phát triển mạng lưới. Ông lãnh đạo tập đoàn tập trung vào những doanh nghiệp mới, gia tăng tốc độ cải tiến nội bộ, thông qua một mạng lưới toàn cầu của Trung tâm Cải tiến Cisco.

Trước khi đến Cisco, Kranz đảm nhiệm các vị trí quản lý khác nhau tại 3Com Corporation, nơi ông điều hành một dây chuyền sản xuất Giao diện mạng Ethernet (NIC) trị giá 1 tỉ USD. Ông sống tại Thung lũng Silicon.

Nguồn: Thành Vinh(Zing.vn)

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng