Connect with us

Sách hay

Vẻ đẹp nguyên thủy của thi ca

Được phát hành

,

“In illo tempore” của Nguyễn Thụy Đan là một tập thơ mang thẩm mỹ và thi pháp thơ đương đại, truyền đạt những ưu tư, suy tưởng bằng ngôn ngữ thơ bác học và dụng điển.

Không nhớ lần cuối cùng tôi thực sự thấy rung cảm trước một bài thơ là khi nào. Sự phổ cập, đại chúng hóa thi ca dẫn đến khuynh hướng tầm thường hóa thơ, làm mất đi tính mỹ học của thơ.

Nhưng rồi đã có người vừa cho tôi thấy lại vẻ đẹp nguyên thủy của thi ca:

tôi đã độ-nhật. bằng những khoảng vắng

quặn thắt. theo từng câu của swinburne.

vang dội tuyệt-vọng. khắp căn phòng nặng

hơi gió mùa. và grand marnier

còn sót. từ cuộc tự-sát thầm lặng.

để rồi đo. chiều sâu của đêm đông

bằng những hồi dư-hưởng vẳng sau cùng

của tuẫn-tình-khúc. rực lửa. rồi tắt.

thất-tung. vào giữa lòng manhattan

đầu thập-niên bất chợt. và hư-không.

(In illo tempore)

In illo tempore là câu thành ngữ trong sách Tin Mừng, có nghĩa là: “Trong những ngày ấy…”. Các đoạn Phúc âm được đọc trong Thánh lễ luôn bắt đầu bằng thành ngữ này, ví dụ: “Trong những ngày ấy, Iesous nói với đám đông và với các môn đệ của ông rằng…”. Đặt trong bối cảnh của tập sách thơ, thành ngữ này chứa đựng cảm thức thời gian và mang sắc thái triết học huyền bí về đời sống nhân sinh.

Thi ca anh 1

Hàm nghĩa mang tính triết học siêu hình của tập thơ In illo tempore chính là mỗi khoảnh khắc trong cuộc đời đều có thể là “in illo tempore” với tất cả sự màu nhiệm huyền bí của nó. Trước khi trở thành “những ngày ấy”, chúng ta đang “trong những ngày này”. Đó có thể là sự hồi tưởng quá khứ, nhưng cũng chính là những suy ngẫm, cảm tưởng ngay lúc này. Và cái khoảnh khắc ngay lúc này sẽ luôn là “hiện tại vĩnh cửu” vượt ra ngoài sự câu thúc và giới hạn của thời gian.

In illo tempore của Nguyễn Thụy Đan là một tập thơ mang thẩm mỹ và thi pháp thơ đương đại, truyền đạt những ưu tư, suy tưởng đương đại bằng một ngôn ngữ thơ bác học và dụng điển. Tập thơ cũng mang nhiều yếu tố trung đại, đan cài nhiều điển cố, phảng phất khí vị cổ phong và khuynh hướng cổ điển với lối gieo vần tự do, bằng trắc không quá chặt.

Viết là một hành trình lao động khổ sai và tự lưu đày. Viết song hành cùng cô đơn. Viết thơ lại càng “loay hoay chữ nghĩa neo đơn” (Vãn-ca của những vì sao). Nỗi cô đơn trong In illo tempore hiển hiện rõ nét trong từng câu từ, từng dòng, từng trang thơ, kể cả những trang trống. Điều nhận thấy rõ nhất trong tập thơ là cảm thức về thời gian, trong đó hàm chứa nỗi buồn cố hữu về đổi thay biến dịch, sự hoang mang giữa những va đập giữa quá khứ và hiện tại. Cảm thức thời gian thể hiện qua những từ ngữ như: “xa xăm”, “thẳm thẳm”, “bụi mù ký vãng”, “ngày tháng nhuốm chiều”, “chuỗi hạt đời hữu hạn”, “tịch mịch dấu chân”…

giữa nồng ẩm đêm hè houston.

đôi khi. tôi tự nhủ. cố hương ở đâu.

nếu không phải là nẻo bụi mù ký-vãng.

(Tam-liên-họa houston)

In illo tempore là một thế giới của những ấn tượng và suy tưởng, của suy tư nội tâm, niềm tin và trực giác cùng những hoang mang, đổ vỡ và hoài nghi. Vẻ đẹp trong thơ của Nguyễn Thụy Đan là vẻ đẹp về sự nhiệm màu của tình yêu, sự sống, đức tin…, bao hàm trong đó cả sự cô đơn và nỗi ám ảnh siêu hình về sự sống và cái chết, đời người và hư vô:

níu bút. bằng níu sự sống.

níu bút. bằng níu tàn-dư lý trí.

(đối mặt dáng vẻ vô-biên

có rùng mình trước cuộc trần truồng không đàng viễn-ly?)

níu bút. bằng níu nhau. ôi. những khối thịt

cô-đơn trong ý-thức.

ăn mày hơi người. tuyệt mù thuở đêm đông.

(Tự-khúc vào đông)

Nỗi cô đơn trong thơ Nguyễn Thụy Đan là nỗi cô đơn của một người “ý thức sâu sắc về sự già nua của chính mình ở giữa thời đại”, “chỉ biết lang thang miền chữ nghĩa”, “tồn tại theo đêm” và “tuyệt dạng trưa ngày”.

Càng không phải là nỗi cô đơn được thi vị hóa theo mô thức “tả cảnh ngụ tình” một cách khuôn sáo kiểu như “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, mà là nỗi cô đơn cùng cực, cô đơn đến mức “thịt da nên một cùng bóng cô liêu”, cô đơn đến mức “quạnh quẽ dở chân tay”.

Nói như vậy không có nghĩa là thơ của Nguyễn Thụy Đan không dùng thi cảnh để biểu lộ tâm cảnh, bởi đây là một trong những bút pháp nghệ thuật tiêu biểu của thơ ca trung đại – một điển phạm văn chương mà tác giả am hiểu sâu sắc và chịu nhiều ảnh hưởng. Ở chừng mực nào đó, mối quan hệ cảnh – tình trong thơ Nguyễn Thụy Đan là một mối quan hệ tương hợp được tạo dựng theo cấu trúc song tuyến, ở đó cảnh và tình nương vào nhau, đôi khi trở nên một, không thể phân định.

Thi ca anh 2

Tâm cảnh trong thơ của Nguyễn Thụy Đan có thể dung chứa cả vũ trụ, còn thi cảnh được phóng chiếu qua tâm tưởng của tác giả và mang những ý nghĩa hàm ẩn, phóng dụ. Tập thơ dung chứa cả vực sâu và chân trời, cả bóng tối và ánh sáng… Trong khi tự soi mình trong cái toàn thể, cái hư vô để thấy mình nhỏ bé trong đời sống hữu hạn, nhưng ở chiều kích khác, tác giả lại thấy “tôi một bữa già cùng vũ trụ”. Cái khả năng ôm trọn vũ trụ trong tâm tưởng, thấy vũ trụ trong những điều nhỏ bé, thấy đời người “thẳm thẳm xưa” chỉ có thể có ở những người thấu đạt kinh sách, văn chương và triết học.

Không thời gian trong In illo tempore được miêu tả bằng những nét phác họa tưởng như rời rạc, đứt nối, nhưng kỳ thực lại là chuỗi liên kết bất tận. Sự liên kết này được định hình bởi cảm thức thời gian, ý niệm hư vô và ý thức về thân phận con người cùng nỗi cô đơn cố hữu:

năm giờ sáng.

bừng tỉnh. cõi đơn màu

mộng dõi đường hôm hồi vãng-nhật

chuông rền mây sớm nẻo tàn-thu

xóm kế. tiếng kinh cầu

đừng dậy vội

chúa đã gọi người đâu

sự sống là đây. từng khoảnh-khắc

im nằm nghe tịch-mịch ngày sau.

đời bất-tận xa nhau.

(Ad matutinas)

Thủ pháp nghệ thuật thường thấy trong thơ của Nguyễn Thụy Đan là cấu trúc đồng hiện “trong – ngoài”, nghĩa là sự gắn kết giữa thi cảnh và tâm cảnh, giữa thực tại ngổn ngang hình hài và những khoảng lặng, khoảng trống tâm tưởng. Cấu trúc này góp phần tạo nên kết cấu phức điệu của tập thơ, trong đó quá khứ luôn là điểm quy chiếu với hiện tại, khiến tác giả vừa muốn làm hòa với quá khứ, lại vừa muốn thỏa hiệp với thực tại. Vì không muốn thỏa hiệp, không thể thỏa hiệp nên “chỉ có im lặng là không thoả hiệp”.

Thi ca anh 3
Trích đoạn tranh của Michael Parkes.

Tập thơ được trình bày với nhiều trang trống, giống như những khoảng thở, khoảng trống. Khoảng trống của nỗi tuyệt vọng? Của sự im lặng không thỏa hiệp? Hay đơn giản chỉ là khoảng dừng để suy niệm trong những đêm “ngồi nhẵn”?

Phong cách làm thơ theo lối bác học, dụng điển của Nguyễn Thụy Đan khiến người đọc cũng phải có chút dụng công tìm hiểu và sự hiểu biết tối thiểu để có thể hình dung được bối cảnh ngữ nghĩa của các thành ngữ, điển cố, trích dẫn. Bên cạnh những điển cố, điển tích, tập thơ cũng trích dẫn nhiều tác giả, tác phẩm đương đại, tạo nên sự giao thoa, chồng lấn của những không gian cách biệt và khác biệt: Đông – Tây, kim – cổ, dương thế – địa phủ, tâm tưởng – thực tại, quá khứ – hiện tại…, mở rộng chiều kích lịch sử – văn hoá và chiều sâu tư tưởng của tác phẩm.

Sự dịch chuyển không thời gian trong thơ Nguyễn Thụy Đan là sự dịch chuyển của một người ngược xuôi giữa hai không gian sống, luôn phải “vượt biên thời gian” để tìm “một chốn quay về”. Chính sự dịch chuyển không thời gian bất tận này đã tạo nên những hồi quang và vang bóng lịch sử, những cấu trúc nghịch lý trong thơ của Nguyễn Thụy Đan:

trong những ngày ấy. người nói về lê-văn-trung.

đỗ-phủ. swinburne. nguyễn-xuân-thiệp.

những lời phế-phủ. tiêu-vong theo dòng

nốt cuối của bi-khúc granados. nửa đêm tương-phùng.

nơi đó. mưa bụi vẫn thấm ướt thời-gian

như trong thơ phùng-chánh-trung

song. tôi đã thôi viết. về nơi đó

về mưa bụi. về thời gian.

(Tam-liên-họa Houston)

Đỗ Phủ, Swinburne, Nguyễn Xuân Thiệp, Lê Văn Trung đứng bên nhau. Thẩm Tà Dương, Lý Thương Ẩn đứng cùng Eugene Rose; Du Tử Lê bên cạnh Mục Đán, Lý Hạ… Giai điệu Stardust len lỏi vào không gian thu quyến rũ của Đoàn Chuẩn; “đâu đó quanh đây”, Tô Thùy Yên có thể thấy “mưa nhỏ thấm ướt ngày giờ trôi qua” của Phùng Chánh Trung… Sự đan cài, sắp đặt ca từ của những bản nhạc đương đại giữa các câu thơ cổ điển tạo nên một cấu trúc thơ-nhạc mang tính liên văn bản thú vị, dẫn dụ người đọc “vượt biên thời gian” tìm một lớp ngữ nghĩa khác.

Một vài bài thơ trong In illo tempore dùng thể ngâm, lối ai vãn song thất lục bát với dụng ý thể hiện giọng điệu tự sự. Thi pháp tự sự của tập thơ tạo nên những “cuộc đối ca chờ sáng”, “dạ thoại”, “vãn ca của những vì sao”, rồi từ đó kéo người đọc vào cuộc đối thoại với thơ. Đối thoại cùng thơ của Nguyễn Thuỵ Đan, nhận ra rằng có những điều chỉ có thể diễn đạt bằng thơ, có những thứ chỉ có thể gắn kết qua thơ.

In illo tempore là một cuộc đối thoại. Đối thoại với chính mình, đối thoại với những bóng ma, đối thoại với quá khứ… Trong cuộc đối thoại đó, cái chết, chính xác hơn là ý niệm về cái chết, ý nghĩ về cái chết hiển hiện rõ nét, thường trực:

song những bóng ma thường-trực

dường tỏ với tôi. một sự

nghịch đạo lớn. rằng. khỏi ghềnh u tối

chúng ta chẳng còn nơi hằng đỗ.

(ai giang-nam)

Thơ – như một phương thức nghệ thuật để biểu đạt cá nhân, giúp người ta vươn tới một thực tại cao đẹp và trọn vẹn hơn. Chính vì vậy, những điều vụn vặt của đời sống thường nhật qua ngôn ngữ thơ tiết chế và nhiều tính ẩn dụ trở nên khoáng đạt, sâu lắng, u trầm. Thi pháp và mỹ học trong thơ Nguyễn Thụy Đan đặt trên nền tảng của đức tin và ý chí vươn tới những giới hạn nằm ngoài phạm vi của thời đại và cá nhân. Điều này tạo ra điệu thức trữ tình trong thơ, dù cái chất trữ tình đó đôi khi bị khuất lấp bởi âm hưởng bi ca và nỗi tuyệt vọng.

In illo tempore truyền đạt những ưu tư và suy tưởng đương đại bằng một ngữ khí bi kịch và phong điệu thơ mộng.

Thơ của Nguyễn Thuỵ Đan là sự phân mảnh – phân mảnh của ký ức, thực tại, tâm thức. Sự phân mảnh hối thúc vươn tới cái chỉnh thể. Đồng thời lại có sự hòa trộn, đan xen. Hoà trộn sự sống và sự chết, niềm hy vọng và nỗi tuyệt vọng, sự hiện hữu và mất mát, sinh sôi và thiêu hủy…

Dylan Thomas nói rằng, một bài thơ hay giúp thay đổi hình dạng và ý nghĩa của vũ trụ, giúp mở rộng kiến ​​thức của người đọc về bản thân và thế giới xung quanh. In illo tempore với cá nhân tôi, giúp mở rộng kiến thức về những vấn đề liên quan đến siêu hình học, thần học và nhận thức luận.

Trước những biến cố của đời người, văn chương có khả năng làm thành lũy che chắn, giúp chúng ta trú ẩn trong khi tìm lại sức mạnh nội tâm. Trong những ngày này, tập thơ In illo tempore của Nguyễn Thụy Đan đã mang đến cho tôi một chốn nương náu tinh thần khi phải đối diện với cái chết và nỗi mất mát lớn trong đời mình.

Nguồn: https://znews.vn/ve-dep-nguyen-thuy-cua-thi-ca-post1498839.html

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng