Connect with us

Sách hay

Thế giới đa tầng trong thơ Nguyễn Quang Thiều

Được phát hành

,

Trong tập thơ mới nhất, Nguyễn Quang Thiều chủ trương mở rộng đề tài, biên giới hiện thực và biên độ cảm xúc của thơ, đổi mới phương thức sáng tạo thơ.

Nguyen Quang Thieu anh 1
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ.

Đã có rất nhiều bài viết về Nguyễn Quang Thiều chủ yếu là nói về những đặc điểm về nội dung tác phẩm của ông, chúng tôi nghĩ một điều cần chú ý có thể nói là trước tiên và rất quan trọng đó là tìm hiểu quan điểm sáng tác của ông để từ đó có thể rút ra những vấn đề riêng lẻ khác về thi pháp trong các tác phẩm thuộc các thể loại mà ông tham gia.

Lẻ tẻ trong các phát biểu, bài viết đặc biệt trong các diễn ngôn xoay quanh tập thơ mới xuất bản Nhật ký người xem đồng hồ thì ông nói khá rõ về các quan điểm này. Những ý kiến xoay quanh các vấn đề: sáng tác là khôi phục lại ký ức, sáng tạo có quan hệ đến các giấc mơ, thơ có thể viết về bất cứ cái gì ở khắp nơi trong cuộc đời, hiện thực trong thơ khác với thông tấn của báo chí, nghệ thuật hướng đến cái đẹp…

Trong cảm nhận của chúng tôi, ông chủ trương mở rộng đề tài, biên giới hiện thực và biên độ cảm xúc của thơ. Hiện thực trong thơ có tính đặc thù. Đổi mới phương thức sáng tạo thơ. Chúng tôi thấy Nguyễn Quang Thiều có đổi mới trên các bình diện quan trọng của công việc sáng tạo nghệ thuật, từ đấy toát lên những điều chính yếu mà ít nhiều có khác với những quan niệm của một số người về thực trạng của việc viết lách bấy nay, những người mà ông cho rằng “Chính quan niệm đó làm nhà văn trở nên nghèo nàn và hạn chế”. Thơ ông khá mới, nền thơ nào muốn phát triển cũng cần những nhà thơ tiên phong đi trước dẫn đường cho đội ngũ và nâng cao trình độ nhận thức thẩm mỹ cho công chúng.

Phương thức sáng tạo của Nguyễn Quang Thiều khá đa dạng, chỉ riêng trên bình diện thi ca và cũng chỉ trong tập thơ mới này ta cũng không thể xếp tất cả vào cái khung có sẵn, chúng ta thấy ông cũng đã có gợi ý khi chia tập thơ thành hai: các bài viết về hiện thực gia đình, quê hương, thế sự thuộc phần 1- Nhật ký người xem đồng hồ; các bài giải trí ngẫu hứng thuộc phần 2- Hồ sơ tự khai của đồ vật có trong phòng. Ông chú ý nhiều đến chức năng thẩm mỹ của văn chương.

Có ý kiến cho rằng “Nguyễn Quang Thiều luôn đứng giữ những tranh cãi”. Không ít người cho rằng, nhiều bài thơ của ông chênh vênh giữa hai chức năng “nhận thức” và “giải trí”, những bài thơ nặng về hình ảnh kỳ lạ hơn là chiều sâu tâm lý, đa phần khó hiểu, ít xúc cảm. Bài viết này chúng tôi muốn góp thêm một vài cảm nhận về thơ ông nhân tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ mới ra đời trong bối cảnh nền thơ Việt đang cố tạo một bước chuyển và không phải không có những phân vân trước thực tiễn mới.

Vấn đề nổi bật trước tiên là hiện thực trong thơ. Hiện thực thơ là hiện thực tâm trạng, nó khác văn xuôi nói chung đặc biệt là báo chí nói riêng, người ta thường ví như thế này: đời sống là gạo, văn là cơm, còn thơ là rượu, có nghĩa thơ là cái gì mơ hồ còn lại trên sự bay lên từ những cái vật chất cụ thể; có người thì nói cụ thể hơn, báo chí ghi lại đời sống hàng ngày, văn thì những sự kiện tiêu biểu, còn thơ thì ghi lại những dấu ấn trong tim.

Nói như vậy cũng có ý nghĩa tương đối toát lên một cái chung đó là thơ cũng phản ảnh hiện thực, phản ánh thế sự nhưng cái cách phản ánh của thơ nó khác văn ở chỗ một bên phản ánh hiện thực bằng cái hình hài cụ thể còn một bên phản ảnh bằng cái dấu ấn mà nó để lại trong tâm trạng, trong suy nghĩ.

Chỉ mấy câu thơ tâm trạng nhưng Chế Lan Viên đã khái quát được đầy đủ một thời kỳ, một xã hội mà nhà thơ đang sống: Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả / Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn! / Trái cây rơi vào áo người ngắm quả / Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn / Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ / Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn. (Tổ Quốc có bao giờ đẹp thế này chăng?), cũng chỉ một câu thơ Ngoài thềm rơi chiếc lá đa / Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng (Cây) của Trần Đăng Khoa, thể hiện cái vẻ đẹp của làng quê Việt, tình yêu con người với thiên nhiên đặc biệt từ cái linh hồn tạo vật qua xúc cảm tinh tế của tác giả đã thể cuộc sống ung dung thanh thản của con người Việt Nam trong chiến tranh… Hiện thực trong thơ là hiện thực tâm trạng, là cái bóng của hiện thực ngoài đời là vậy!

Thơ của Nguyễn Quang Thiều xoay quanh các chủ đề chính mà ý nghĩa hiện thực, màu sắc thế sự cũng như thái độ tích cực của ông bộc lộ rất rõ. Đó là những hiện thực tâm trạng được thể hiện qua tình yêu quê hương xứ sở, là tình yêu gia đình, tình yêu đối với cái đẹp, sự phê phán cái ác, cái xấu… Những nội dung được thể hiện bằng một lối nói mới mẻ, ông thường sử dụng lối kết cấu phi tuyến tính cùng cách xây dựng hình tượng giàu yếu tố siêu thực cho đến nhạc điệu tự do, ngôn ngữ tạo sinh…, luôn tạo một dấu ấn khác lạ trong tiếp nhận của bạn đọc.

Nhà thơ của Xứ Chùa cổ kính mang nặng những nỗi niềm về cảnh và người nơi mình sinh ra. Quê hương là một cảm xúc lớn thường xuyên trong các tập thơ ông. Bài thơ Lễ tạ (Châu thổ), một bài thơ triết lý sâu xa về quê hương, tứ bài thơ xoay quanh hai biểu tượng hồ nước và con đường. Con đường từ đất quê ra đi, để mong tìm được những giải đáp nhân sinh, tìm được con đường mơ ước, nhưng để rồi câu giải đáp lại ở chính nơi đất quê, nơi “hồ nước cũ” từ đó anh ra đi! Chính cái triết lý giản dị mà sâu sắc này bao nhiêu thế hệ suy tư, xúc cảm. Cám ơn đất quê đã dạy ta bao điều trong cuộc sống để ta trưởng thành. Lễ tạ là lời tạ ơn của con người đối với quê hương, với cha ông.

Cảm nhận về quê hương trong tập thơ mới có khi gián tiếp xa xôi nhưng nồng nàn sâu lắng: Bầu trời rộng lớn / Đang nở mùa pháo hoa / Muôn màu rực rỡ /… Có những người lặng lẽ / Đi dưới cánh đồng pháo hoa / Trong lòng họ cũng đang nở / Một mùa hoa.. (Âm bản).

Và lan tỏa trong tình yêu quê hương là Mẹ – hình ảnh tiêu biểu thân thương nhất Áo xưa mẹ vẫn còn đây / Đêm đêm con mặc vào ký ức (Thư gửi mẹ), là Cha: Cha đã qua tuổi sáu mươi mỗi ngày con lại thấy / Cha gần hơn với chân trời… và lại thấy xa con hơn một chút / Trong không gian số phận những con đường (Cha về trong áng mây bay), là tình yêu đứa cháu nhỏ: Siêu nhân, tàu hỏa, khủng long… / Những đồ chơi của cháu không bao giờ có tuổi / Chỉ có một đồ chơi của cháu / Mỗi ngày một già / Và thi thoảng tỉnh giấc / Nằm nhớ chủ nhân của mình / Đang ngủ ở tầng trên (Đồ chơi của cháu nội). Cùng với một tình cảm đồng loại chân thành tha thiết: Dưới tán cây chiều nay hai người im lặng / Những hạt cây xếp bên nhau chuẩn bị khai mùa / Và bầy chim mỏ ngà từ trời xanh đậu xuống / Tán cây vàng / Nhặt họ / Bay đi (Những hạt cây).

Cảm xúc lớn về sự đa dạng đời sống nổi lên khá đậm trong thơ ông cũng như trong quan niệm thẩm mỹ về thi ca mà nhiều lần ông nói đến. Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều trình bày cho ta nhiều mảng màu đời sống. Ông viết về những người thân trong gia đình ông bà, cha mẹ, các con cháu, ông viết về bạn bè, những người quen trong làng xóm, những người chồng, người vợ đã mất con, người điên chạy trong đêm tối, ông viết về cố hương và cả những miền đất lạ, ông viết về những cánh đồng và mùa màng ở nông thôn thời đổi mới, ông viết về cuộc sống thường nhật và cả trong những giấc mơ…

Những hình tượng đan xen nói nhiều đến đời sống cộng đồng trong tập thơ này, từ những ô cửa sổ, những dòng sông, những con cá, những con chim, những đám mây, chuyến đò ngang, những cánh đồng, phiên chợ chiều… đến các em bé, các bà mẹ, Tất cả đều là những biểu hiện của sự sống, họ sống hết mình trong cuộc sống với nhiều va đập nhưng tràn đầy nhân ái, lạc quan, kể cả trước chết chóc, mất mát.… Và một người mở cửa / Cười trong hoa góc vườn / Ngôi nhà vừa nhóm lửa / Mùa đã về reo vang” (Người mở cửa buổi sáng).

Những bài thơ như những bức tranh minh họa rõ nét cho chủ đề Cái đẹp – một cảm xúc nhân văn đa dạng trong một thế giới đa chiều – không phải ở những hội hè, những thành tựu mà chính ở những vất vả, gian truân mà con người âm thầm vượt qua số phận để tồn tại. Tất cả là một tập đại thành về cái thế giới hiện hữu vận động và tồn tại… Đó là cái đẹp của thế giới trong cảm quan nhân văn Nguyễn Quang Thiều mà ông nhiều lần nhắc đến.

Về hình thức nghệ thuật, khuynh hướng nổi bật cách tân ở thơ Nguyễn Quang Thiều tạo một đổi mới đập vào cảm quan người đọc, thoáng qua là cách nói, là sự biểu cảm ngôn ngữ một cách mới lạ trên phương diện cú pháp cũng như từ vựng các nhà nghiên cứu đã nhắc đến.

Nhưng chiều sâu căn bản, theo chúng tôi, trầm tích bên dưới những hình ảnh khác lạ, ngôn ngữ tân kỳ là thủ pháp sáng tạo có sắc màu hư ảo siêu thực tạo sự khác lạ đầy tinh thần duy mỹ, trong chừng mực đã có một sự găp gỡ về lối “cảm nhận huyền ảo” giữa văn học truyền thống dân tộc và phương Tây hiện đại.

Ta bắt gặp các hình ảnh thật lạ trong các câu thơ: …Hai cánh tay đưa lên / Hai cành cây đang mọc…/ Gương mặt thì mở ra / Hoa đang nở trái mùa / Trên cánh đồng đầy tóc (Phạm Long Quận….) hay: Thịt da như là quả / Ngọt dần trong tiếng người /…Chăn gối tan như sương / Người đàn bà ngủ muộn…(Dậy muộn), hoặc là:

Khi đôi mắt Kya mở ra / Bầu trời ngập tràn ánh sáng / Khi giọng Kya vang lên / Trong các vòm cây chim hót / Khi tay Kya xòe ra / Những cánh đồng hoa bùng nở / Và khi Kya ngậm bầu bú mẹ / Có những dòng sông ngủ quên trong đất / Gió thức dậy và tuôn chảy…” (Ngày Kya ra đời).

Nguyễn Quang Thiều, theo chúng tôi, ở một phương diện nào đó đã dung hợp những yếu tố hư huyễn có sẵn trong truyền thống thẩm mỹ dân tộc, điều mà chúng ta cảm nhận rõ là cái quan niệm “vạn vật hữu cảm”, “vạn vật hữu linh” trầm tích ở các tranh khắc, ở các phù điêu nơi đình chùa cũng như trong thơ ca dân gian với các thủ pháp nghệ thuật lạ hóa siêu thực khá phổ biến của nghệ thuật phương Tây hiện đại! Nó tô đậm vóc dáng hình tượng trong thơ cũng như tranh của ông.

Thơ ông khá mới, nền thơ nào muốn phát triển cũng cần những nhà thơ tiên phong đi trước dẫn đường cho đội ngũ và nâng cao trình độ nhận thức thẩm mỹ cho công chúng. Tuy nhiên cái mới, cái đẹp nó khác cái xa lạ với thị hiếu thẩm mỹ công chúng! Cái mới chỉ thực sự có giá trị khi được công chúng tiếp nhận, rung động được trái tim công chúng.

Đúng là trên mặt đất nơi nào cũng có thơ “đại địa văn chương tùy xứ kiến”, cụ Nguyễn Du đã nói thế, nhưng không phải một cảm hứng bất chợt nào cũng là thơ, như câu thơ ông viết …Và trên một đám mây ngũ sắc / Làm bằng quần áo và khăn / Một người đàn ông và một người đàn bà / Làm tình cả khi đã chết (Mây ngũ sắc), có thể mải mê với cái lạ mà tác giả quên cái “gu” thẩm mỹ của công chúng, hay như lời mở của tập thơ: Những bài thơ tôi viết trong tập thơ này để xác lập tôi trong thời khắc ở không gian của tôi và chỉ vừa chứa đủ tôi mà không có khả năng thêm một ai vào đó nữa. Cùng lúc đó bạn xác lập bạn ở một không gian khác trong cùng một thời khắc với tôi. Chúng ta luôn bình đẳng và luôn khác biệt. Chỉ với tinh thần ấy chúng ta mới có thể xác lập được nền độc lập của mình”.

Tác giả nghĩ đề cao “sự độc lập” trong sáng tạo “xác lập tôi trong thời khắc ở không gian của tôi và chỉ vừa chứa đủ tôi” sẽ tạo giá trị của tác phẩm nhưng liệu có thể có sự độc lập trong các sản phẩm tinh thần nhất là văn chương đặc biệt như trong một không gian xã hội dân chủ đầy tính cộng đồng như văn hóa chúng ta hay chỉ tự cô lập hóa thơ mình! Thơ phải tìm đến tâm hồn đồng điệu, tìm đến với công chúng mới có sức sống! Các thi bá xưa nay đều mong thơ mình đến các hang cùng ngõ tối, người ta chỉ cần biết thơ mà có thể quên tên tác giả.

Tiếp cận nghệ thuật Nguyễn Quang Thiều, ta như vừa trải nghiệm một thế giới đa tầng đa phương, một vũ trụ nhân sinh chứa đựng nhiều phức điệu của cuộc đời và con người, xen lẫn những nghịch lý và phi lý. Trên cái nền hiện thực đời sống nhà thơ gửi gắm đức tin vào cái đẹp của cuộc đời.

Đó cũng chính là nét triết lý nhân sinh trầm tích bên dưới các tác phẩm của ông, cái điều mà thế kỷ trước trong sự nhiễu nhương của cuộc sống nhà văn nổi tiếng F. Dostoyevsky (1821- 1881) đã nói “Cái đẹp cứu rỗi thế giới”. Đó chính là giá trị hiện thực và cách tân của thơ ông.

Nguồn: https://znews.vn/the-gioi-da-tang-trong-tho-nguyen-quang-thieu-post1447115.html

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng