Connect with us

Sách hay

Thế giới đa tầng trong thơ Nguyễn Quang Thiều

Được phát hành

,

Trong tập thơ mới nhất, Nguyễn Quang Thiều chủ trương mở rộng đề tài, biên giới hiện thực và biên độ cảm xúc của thơ, đổi mới phương thức sáng tạo thơ.

Nguyen Quang Thieu anh 1

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ.

Đã có rất nhiều bài viết về Nguyễn Quang Thiều chủ yếu là nói về những đặc điểm về nội dung tác phẩm của ông, chúng tôi nghĩ một điều cần chú ý có thể nói là trước tiên và rất quan trọng đó là tìm hiểu quan điểm sáng tác của ông để từ đó có thể rút ra những vấn đề riêng lẻ khác về thi pháp trong các tác phẩm thuộc các thể loại mà ông tham gia.

Lẻ tẻ trong các phát biểu, bài viết đặc biệt trong các diễn ngôn xoay quanh tập thơ mới xuất bản Nhật ký người xem đồng hồ thì ông nói khá rõ về các quan điểm này. Những ý kiến xoay quanh các vấn đề: sáng tác là khôi phục lại ký ức, sáng tạo có quan hệ đến các giấc mơ, thơ có thể viết về bất cứ cái gì ở khắp nơi trong cuộc đời, hiện thực trong thơ khác với thông tấn của báo chí, nghệ thuật hướng đến cái đẹp…

Trong cảm nhận của chúng tôi, ông chủ trương mở rộng đề tài, biên giới hiện thực và biên độ cảm xúc của thơ. Hiện thực trong thơ có tính đặc thù. Đổi mới phương thức sáng tạo thơ. Chúng tôi thấy Nguyễn Quang Thiều có đổi mới trên các bình diện quan trọng của công việc sáng tạo nghệ thuật, từ đấy toát lên những điều chính yếu mà ít nhiều có khác với những quan niệm của một số người về thực trạng của việc viết lách bấy nay, những người mà ông cho rằng “Chính quan niệm đó làm nhà văn trở nên nghèo nàn và hạn chế”. Thơ ông khá mới, nền thơ nào muốn phát triển cũng cần những nhà thơ tiên phong đi trước dẫn đường cho đội ngũ và nâng cao trình độ nhận thức thẩm mỹ cho công chúng.

Advertisement

Phương thức sáng tạo của Nguyễn Quang Thiều khá đa dạng, chỉ riêng trên bình diện thi ca và cũng chỉ trong tập thơ mới này ta cũng không thể xếp tất cả vào cái khung có sẵn, chúng ta thấy ông cũng đã có gợi ý khi chia tập thơ thành hai: các bài viết về hiện thực gia đình, quê hương, thế sự thuộc phần 1- Nhật ký người xem đồng hồ; các bài giải trí ngẫu hứng thuộc phần 2- Hồ sơ tự khai của đồ vật có trong phòng. Ông chú ý nhiều đến chức năng thẩm mỹ của văn chương.

Có ý kiến cho rằng “Nguyễn Quang Thiều luôn đứng giữ những tranh cãi”. Không ít người cho rằng, nhiều bài thơ của ông chênh vênh giữa hai chức năng “nhận thức” và “giải trí”, những bài thơ nặng về hình ảnh kỳ lạ hơn là chiều sâu tâm lý, đa phần khó hiểu, ít xúc cảm. Bài viết này chúng tôi muốn góp thêm một vài cảm nhận về thơ ông nhân tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ mới ra đời trong bối cảnh nền thơ Việt đang cố tạo một bước chuyển và không phải không có những phân vân trước thực tiễn mới.

Vấn đề nổi bật trước tiên là hiện thực trong thơ. Hiện thực thơ là hiện thực tâm trạng, nó khác văn xuôi nói chung đặc biệt là báo chí nói riêng, người ta thường ví như thế này: đời sống là gạo, văn là cơm, còn thơ là rượu, có nghĩa thơ là cái gì mơ hồ còn lại trên sự bay lên từ những cái vật chất cụ thể; có người thì nói cụ thể hơn, báo chí ghi lại đời sống hàng ngày, văn thì những sự kiện tiêu biểu, còn thơ thì ghi lại những dấu ấn trong tim.

Nói như vậy cũng có ý nghĩa tương đối toát lên một cái chung đó là thơ cũng phản ảnh hiện thực, phản ánh thế sự nhưng cái cách phản ánh của thơ nó khác văn ở chỗ một bên phản ánh hiện thực bằng cái hình hài cụ thể còn một bên phản ảnh bằng cái dấu ấn mà nó để lại trong tâm trạng, trong suy nghĩ.

Chỉ mấy câu thơ tâm trạng nhưng Chế Lan Viên đã khái quát được đầy đủ một thời kỳ, một xã hội mà nhà thơ đang sống: Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả / Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn! / Trái cây rơi vào áo người ngắm quả / Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn / Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ / Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn. (Tổ Quốc có bao giờ đẹp thế này chăng?), cũng chỉ một câu thơ Ngoài thềm rơi chiếc lá đa / Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng (Cây) của Trần Đăng Khoa, thể hiện cái vẻ đẹp của làng quê Việt, tình yêu con người với thiên nhiên đặc biệt từ cái linh hồn tạo vật qua xúc cảm tinh tế của tác giả đã thể cuộc sống ung dung thanh thản của con người Việt Nam trong chiến tranh… Hiện thực trong thơ là hiện thực tâm trạng, là cái bóng của hiện thực ngoài đời là vậy!

Advertisement

Thơ của Nguyễn Quang Thiều xoay quanh các chủ đề chính mà ý nghĩa hiện thực, màu sắc thế sự cũng như thái độ tích cực của ông bộc lộ rất rõ. Đó là những hiện thực tâm trạng được thể hiện qua tình yêu quê hương xứ sở, là tình yêu gia đình, tình yêu đối với cái đẹp, sự phê phán cái ác, cái xấu… Những nội dung được thể hiện bằng một lối nói mới mẻ, ông thường sử dụng lối kết cấu phi tuyến tính cùng cách xây dựng hình tượng giàu yếu tố siêu thực cho đến nhạc điệu tự do, ngôn ngữ tạo sinh…, luôn tạo một dấu ấn khác lạ trong tiếp nhận của bạn đọc.

Nhà thơ của Xứ Chùa cổ kính mang nặng những nỗi niềm về cảnh và người nơi mình sinh ra. Quê hương là một cảm xúc lớn thường xuyên trong các tập thơ ông. Bài thơ Lễ tạ (Châu thổ), một bài thơ triết lý sâu xa về quê hương, tứ bài thơ xoay quanh hai biểu tượng hồ nước và con đường. Con đường từ đất quê ra đi, để mong tìm được những giải đáp nhân sinh, tìm được con đường mơ ước, nhưng để rồi câu giải đáp lại ở chính nơi đất quê, nơi “hồ nước cũ” từ đó anh ra đi! Chính cái triết lý giản dị mà sâu sắc này bao nhiêu thế hệ suy tư, xúc cảm. Cám ơn đất quê đã dạy ta bao điều trong cuộc sống để ta trưởng thành. Lễ tạ là lời tạ ơn của con người đối với quê hương, với cha ông.

Cảm nhận về quê hương trong tập thơ mới có khi gián tiếp xa xôi nhưng nồng nàn sâu lắng: Bầu trời rộng lớn / Đang nở mùa pháo hoa / Muôn màu rực rỡ /… Có những người lặng lẽ / Đi dưới cánh đồng pháo hoa / Trong lòng họ cũng đang nở / Một mùa hoa.. (Âm bản).

Và lan tỏa trong tình yêu quê hương là Mẹ – hình ảnh tiêu biểu thân thương nhất Áo xưa mẹ vẫn còn đây / Đêm đêm con mặc vào ký ức (Thư gửi mẹ), là Cha: Cha đã qua tuổi sáu mươi mỗi ngày con lại thấy / Cha gần hơn với chân trời… và lại thấy xa con hơn một chút / Trong không gian số phận những con đường (Cha về trong áng mây bay), là tình yêu đứa cháu nhỏ: Siêu nhân, tàu hỏa, khủng long… / Những đồ chơi của cháu không bao giờ có tuổi / Chỉ có một đồ chơi của cháu / Mỗi ngày một già / Và thi thoảng tỉnh giấc / Nằm nhớ chủ nhân của mình / Đang ngủ ở tầng trên (Đồ chơi của cháu nội). Cùng với một tình cảm đồng loại chân thành tha thiết: Dưới tán cây chiều nay hai người im lặng / Những hạt cây xếp bên nhau chuẩn bị khai mùa / Và bầy chim mỏ ngà từ trời xanh đậu xuống / Tán cây vàng / Nhặt họ / Bay đi (Những hạt cây).

Cảm xúc lớn về sự đa dạng đời sống nổi lên khá đậm trong thơ ông cũng như trong quan niệm thẩm mỹ về thi ca mà nhiều lần ông nói đến. Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều trình bày cho ta nhiều mảng màu đời sống. Ông viết về những người thân trong gia đình ông bà, cha mẹ, các con cháu, ông viết về bạn bè, những người quen trong làng xóm, những người chồng, người vợ đã mất con, người điên chạy trong đêm tối, ông viết về cố hương và cả những miền đất lạ, ông viết về những cánh đồng và mùa màng ở nông thôn thời đổi mới, ông viết về cuộc sống thường nhật và cả trong những giấc mơ…

Advertisement

Những hình tượng đan xen nói nhiều đến đời sống cộng đồng trong tập thơ này, từ những ô cửa sổ, những dòng sông, những con cá, những con chim, những đám mây, chuyến đò ngang, những cánh đồng, phiên chợ chiều… đến các em bé, các bà mẹ, Tất cả đều là những biểu hiện của sự sống, họ sống hết mình trong cuộc sống với nhiều va đập nhưng tràn đầy nhân ái, lạc quan, kể cả trước chết chóc, mất mát.… Và một người mở cửa / Cười trong hoa góc vườn / Ngôi nhà vừa nhóm lửa / Mùa đã về reo vang” (Người mở cửa buổi sáng).

Những bài thơ như những bức tranh minh họa rõ nét cho chủ đề Cái đẹp – một cảm xúc nhân văn đa dạng trong một thế giới đa chiều – không phải ở những hội hè, những thành tựu mà chính ở những vất vả, gian truân mà con người âm thầm vượt qua số phận để tồn tại. Tất cả là một tập đại thành về cái thế giới hiện hữu vận động và tồn tại… Đó là cái đẹp của thế giới trong cảm quan nhân văn Nguyễn Quang Thiều mà ông nhiều lần nhắc đến.

Về hình thức nghệ thuật, khuynh hướng nổi bật cách tân ở thơ Nguyễn Quang Thiều tạo một đổi mới đập vào cảm quan người đọc, thoáng qua là cách nói, là sự biểu cảm ngôn ngữ một cách mới lạ trên phương diện cú pháp cũng như từ vựng các nhà nghiên cứu đã nhắc đến.

Nhưng chiều sâu căn bản, theo chúng tôi, trầm tích bên dưới những hình ảnh khác lạ, ngôn ngữ tân kỳ là thủ pháp sáng tạo có sắc màu hư ảo siêu thực tạo sự khác lạ đầy tinh thần duy mỹ, trong chừng mực đã có một sự găp gỡ về lối “cảm nhận huyền ảo” giữa văn học truyền thống dân tộc và phương Tây hiện đại.

Ta bắt gặp các hình ảnh thật lạ trong các câu thơ: …Hai cánh tay đưa lên / Hai cành cây đang mọc…/ Gương mặt thì mở ra / Hoa đang nở trái mùa / Trên cánh đồng đầy tóc (Phạm Long Quận….) hay: Thịt da như là quả / Ngọt dần trong tiếng người /…Chăn gối tan như sương / Người đàn bà ngủ muộn…(Dậy muộn), hoặc là:

Advertisement

Khi đôi mắt Kya mở ra / Bầu trời ngập tràn ánh sáng / Khi giọng Kya vang lên / Trong các vòm cây chim hót / Khi tay Kya xòe ra / Những cánh đồng hoa bùng nở / Và khi Kya ngậm bầu bú mẹ / Có những dòng sông ngủ quên trong đất / Gió thức dậy và tuôn chảy…” (Ngày Kya ra đời).

Nguyễn Quang Thiều, theo chúng tôi, ở một phương diện nào đó đã dung hợp những yếu tố hư huyễn có sẵn trong truyền thống thẩm mỹ dân tộc, điều mà chúng ta cảm nhận rõ là cái quan niệm “vạn vật hữu cảm”, “vạn vật hữu linh” trầm tích ở các tranh khắc, ở các phù điêu nơi đình chùa cũng như trong thơ ca dân gian với các thủ pháp nghệ thuật lạ hóa siêu thực khá phổ biến của nghệ thuật phương Tây hiện đại! Nó tô đậm vóc dáng hình tượng trong thơ cũng như tranh của ông.

Thơ ông khá mới, nền thơ nào muốn phát triển cũng cần những nhà thơ tiên phong đi trước dẫn đường cho đội ngũ và nâng cao trình độ nhận thức thẩm mỹ cho công chúng. Tuy nhiên cái mới, cái đẹp nó khác cái xa lạ với thị hiếu thẩm mỹ công chúng! Cái mới chỉ thực sự có giá trị khi được công chúng tiếp nhận, rung động được trái tim công chúng.

Đúng là trên mặt đất nơi nào cũng có thơ “đại địa văn chương tùy xứ kiến”, cụ Nguyễn Du đã nói thế, nhưng không phải một cảm hứng bất chợt nào cũng là thơ, như câu thơ ông viết …Và trên một đám mây ngũ sắc / Làm bằng quần áo và khăn / Một người đàn ông và một người đàn bà / Làm tình cả khi đã chết (Mây ngũ sắc), có thể mải mê với cái lạ mà tác giả quên cái “gu” thẩm mỹ của công chúng, hay như lời mở của tập thơ: Những bài thơ tôi viết trong tập thơ này để xác lập tôi trong thời khắc ở không gian của tôi và chỉ vừa chứa đủ tôi mà không có khả năng thêm một ai vào đó nữa. Cùng lúc đó bạn xác lập bạn ở một không gian khác trong cùng một thời khắc với tôi. Chúng ta luôn bình đẳng và luôn khác biệt. Chỉ với tinh thần ấy chúng ta mới có thể xác lập được nền độc lập của mình”.

Tác giả nghĩ đề cao “sự độc lập” trong sáng tạo “xác lập tôi trong thời khắc ở không gian của tôi và chỉ vừa chứa đủ tôi” sẽ tạo giá trị của tác phẩm nhưng liệu có thể có sự độc lập trong các sản phẩm tinh thần nhất là văn chương đặc biệt như trong một không gian xã hội dân chủ đầy tính cộng đồng như văn hóa chúng ta hay chỉ tự cô lập hóa thơ mình! Thơ phải tìm đến tâm hồn đồng điệu, tìm đến với công chúng mới có sức sống! Các thi bá xưa nay đều mong thơ mình đến các hang cùng ngõ tối, người ta chỉ cần biết thơ mà có thể quên tên tác giả.

Advertisement

Tiếp cận nghệ thuật Nguyễn Quang Thiều, ta như vừa trải nghiệm một thế giới đa tầng đa phương, một vũ trụ nhân sinh chứa đựng nhiều phức điệu của cuộc đời và con người, xen lẫn những nghịch lý và phi lý. Trên cái nền hiện thực đời sống nhà thơ gửi gắm đức tin vào cái đẹp của cuộc đời.

Đó cũng chính là nét triết lý nhân sinh trầm tích bên dưới các tác phẩm của ông, cái điều mà thế kỷ trước trong sự nhiễu nhương của cuộc sống nhà văn nổi tiếng F. Dostoyevsky (1821- 1881) đã nói “Cái đẹp cứu rỗi thế giới”. Đó chính là giá trị hiện thực và cách tân của thơ ông.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho ZNews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. ZNews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Advertisement

Nguồn: https://znews.vn/the-gioi-da-tang-trong-tho-nguyen-quang-thieu-post1447115.html

Tiếp tục đọc
Quảng cáo
Nhấn vào đây để bình luận

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sách hay

Lịch sử chưa kể về ramen

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một khảo cứu thú vị về lịch sử món mì ramen ở Nhật Bản thông qua lăng kính phân tích và mối liên hệ chặt chẽ của món ăn với địa lý, chính trị, quan hệ đối ngoại, khoa học dinh dưỡng, truyền thông và bản sắc dân tộc.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 cho thấy Zhu Shun Shui đã chỉ cho Mitsukuni (cận vệ của Tokugawa Mitsukuni) cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa.

Mì ramen được giới thiệu lần đầu đến Nhật Bản vào năm 1665, năm 1884 hay năm 1910? Tiền thân của nó liệu có phải là món ăn được gọi với cái tên ūshin udon, Nankin soba hay Shina soba? Tùy thuộc vào câu trả lời mà chúng ta sẽ nghiệm suy về từng món ăn khác nhau với một giai thoại nguồn cội riêng, cùng một quỹ đạo lịch sử đặc thù mang đến các góc nhìn cụ thể về đất nước Nhật Bản. […]

Mi ra men anh 1

Bìa cuốn sách

Giai thoại đầu tiên, và cũng sống động nhất, đã xuất hiện ban đầu trong công trình nghiên cứu mang tính tiên phong về lịch sử của mì ramen (được xuất bản năm 1987) của nhà sử học về ẩm thực Kosuge Keiko, trong đó ấn định thời điểm món ăn này được trình làng là vào những năm 1660, đồng thời cho rằng Tokugawa Mitsukuni (tên khác là Mito Kōmon, 1628 − 1701) – vị lãnh chúa huyền thoại thời phong kiến (daimyō) nắm hàng thứ hai sau Mạc chủ (shōgun) (1) – là người đầu tiên thưởng thức món mì ramen ở Nhật Bản.

Là nhân vật lịch sử nổi tiếng ở Nhật và từng được một bộ phim truyền hình dài tập mô tả như một vị hảo hán, ở gần cuối mỗi tập phim, Tokugawa Mitsukuni thường tiết lộ danh tính của mình cho những kẻ xấu bằng cách để lộ ra hình ảnh chiếc inrō (hộp đựng trang trí sơn mài kích cỡ nhỏ) có khắc gia huy của dòng họ ông, cho thấy ông là vị daimyō trong vùng.

Advertisement

Câu thoại “Ngươi không nhận ra gia huy này sao?” (Kono mondokoro ga me ni hairanuka?) được Kaku-san (cận vệ của Mitsukuni) nhắc lại trong đoạn cao trào của mỗi tập phim nhằm khôi phục lại trật tự và cấp bậc, và khiến những kẻ bất lương ngang ngược phải lập tức cầu xin sự khoan hồng.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 về các hoạt động của Mitsukuni cho thấy rằng Zhu Shun Shui – một người Trung Quốc tị nạn khỏi chính quyền nhà Minh sống ở Mito vào thời điểm đó (2) – đã chỉ cho Mitsukuni cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa nhiều khả năng chính là món mì ramen ngày nay (3).

Mặc dù Mitsukuni được biết đến nhiều nhất trong lịch sử Nhật Bản khi đã khởi xướng kế hoạch kỳ vĩ biên soạn nên Dai Nihon Shi – hay Lịch sử vĩ đại của Nhật Bản – một cuốn sách mất gần 250 năm và mười thế hệ để hoàn thành, ông cũng là một người ca tụng triết học Lý học (Neo- Confucianism) (4) và đã tìm đến Trung Quốc để được soi đường chỉ lối cách trị nước.

Ông do vậy đã tham vấn và kết giao với Zhu, người trước đó từng nắm chức thượng quan ở Trung Quốc dưới thời nhà Minh nhưng quyết định đến Nhật Bản vào năm 1665 do phải lưu vong khỏi chế độ cai trị của Mãn Châu.

Mi ra men anh 2

Lãnh chúa Tokugawa Mitsukuni. Nguồn: wikipedia.

Zhu trở thành một trong những cố vấn quan trọng nhất của Mitsukuni, và làm việc trong chính quyền cai trị của ông này trong 17 năm tiếp theo cho đến khi qua đời vào năm 1682. Vai trò quan trọng của Zhu trong đội ngũ cố vấn của vị daimyō đã giúp ông có được một cuộc sống thoải mái, cùng một bia mộ nổi bật còn tồn tại cho đến ngày nay trong khu nghĩa trang của gia tộc Tokugawa nhánh Mito (5).

Advertisement

Trong thời gian hầu cận daimyō, Zhu biết được rằng Mitsukuni là một người rất thích ăn udon – loại mì nước hiện vẫn phổ biến ở Nhật Bản – với sợi mì làm từ bột mì sử dụng với nước dùng dashi (làm từ cá ngừ khô và tảo bẹ).

Vào thế kỷ 17, người Nhật thường ăn mì udon với quả mơ ngâm (umeboshi) và vừng. Thấy vậy, Zhu đã gợi ý về năm thành phần thường được sử dụng trong món mì nước Trung Quốc để vị daimyō vùng Mito có thể thêm vào nhằm cải thiện hương vị của món ăn. Năm thành phần (ūshin) mà ông chủ ý đề xuất gồm: rễ kiệu (rakkyō), tỏi, hẹ tỏi (nira), hành lá và gừng (6).

Từ những dữ kiện này, nhà sử học về ẩm thực Kosuge phỏng đoán rằng Tokugawa Mitsukuni chính là cha đẻ của tập tục ăn mì nước Trung Quốc ở Nhật Bản. Sau này Bảo tàng Ramen ở Shin-Yokohama đã phổ biến rộng rãi câu chuyện trên, và kết quả là vào năm 2003, Tập đoàn Thực phẩm Nissin của Nhật Bản nhà sản xuất mì ramen ăn liền lớn nhất thế giới – trong một thời gian ngắn đã cho ra – mắt nhãn hiệu mì ăn liền U-shin có in hình gia huy của gia tộc Tokugawa, được điểm tô bằng giai thoại về Mitsukuni và Zhu.

Mặc dù khó xác định liệu món ăn từng được ưa chuộng bởi vị lãnh chúa nổi tiếng của vùng Mito kia tương thích ra sao với món ăn ngày nay được gọi với cái tên “mì ramen”, cần ghi nhớ rằng câu chuyện được lưu truyền rộng rãi ở trên về sự xuất hiện tại Nhật Bản của món mì nước kiểu người Hoa đã thiết lập nên một giai thoại nguồn cội trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên hiện đại – một thời đại được đánh dấu bằng việc người Nhật có xu hướng học hỏi người Trung Quốc.

Mặc dù câu chuyện trên được coi như một phiên bản bao trùm đầy lôi cuốn về nguồn gốc của món ăn, với đầy đủ các nhân vật ngoài đời thực cùng những tương tác tưởng tượng dựa trên các cách diễn giải không thành kiến đối với những ghi chép lịch sử, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhấn mạnh sự ngưỡng mộ của người Nhật đối với một nước Trung Quốc thời tiền Thanh.

Advertisement

—————-

1. Một tước hiệu đặc biệt dành cho những vị tướng quân có chức vụ cao nhất trong thời kỳ phong kiến của Nhật Bản. (ND)

2. Khi triều đại nhà Thanh củng cố quyền lực của mình lên miền nam Trung Quốc, một số học giả Nho giáo làm việc cho chính quyền nhà Minh đã trốn sang Đại Hàn và Nhật Bản để làm cố vấn.

3. Kosuge Keiko, Nippon Rāmen Monogatari: Chūka soba wa itsu doko de umareta ka (Tokyo: Shinshindō, 1987), tr.45-59.

4. Tư tưởng triết lý Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Lý học có thể được xem là nỗ lực hợp lý hóa cũng như thế tục hóa Nho giáo bằng cách loại bỏ các yếu tố mê tín, huyền bí của Đạo giáo và Phật giáo, vốn từng được đưa vào Nho giáo trong và sau đời nhà Hán. (ND)

Advertisement

5. Sĩ quan hải quân người Mỹ. (ND)

6. Cho đến năm 1854, khi Hiệp ước Perry đầu tiên có hiệu lực, triều đại Tokugawa ở Nhật Bản đã duy trì chính sách tránh tiếp xúc với các cường quốc phương Tây (ngoài Hà Lan) trong hơn hai thế kỷ để hạn chế tình trạng hỗn loạn do những nỗ lực cải đạo của các nhà truyền giáo Cơ đốc ở Nhật Bản. Riêng Hà Lan đã đồng ý giới hạn mối quan hệ giữa hai nước chỉ trong lĩnh vực thương mại, kết quả là Hà Lan trở thành quốc gia châu Âu duy nhất duy trì quan hệ thương mại và ngoại giao với Nhật Bản từ năm 1639 đến năm 1854.

Nguồn: https://znews.vn/giai-thoai-ve-su-xuat-hien-cua-mi-ramen-mon-an-quoc-dan-nhat-ban-post1455469.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Nóng giận là bản năng tĩnh lặng là bản lĩnh

Được phát hành

,

Bởi

Trong cuốn sách, tác giả Tống Mặc đã trò chuyện với độc giả về cách kiềm chế cơn nóng giận, học cách bao dung, kiểm soát cảm xúc của mình trước những tác động của cuộc sống.

Ai chẳng có lúc giận dữ, nóng giận là hạt mầm được gieo vào tâm ta từ lúc mới chào đời. Nhưng kìm chế cơn giận là bản lĩnh cần rèn luyện mỗi ngày.

Kim che con gian anh 1

Thái độ điềm tĩnh sẽ giúp con người dễ dàng vượt qua nghịch cảnh, đón nhận thử thách. Ảnh: P.G.

Điềm đạm là sự điềm tĩnh xuất phát từ nội tâm. Cổ nhân cho rằng: “Điềm tĩnh dưỡng thần, phật dịch ô vật.” Ý muốn nói, điềm tĩnh có thể dưỡng tâm, giúp con người không phụ thuộc vào thứ bên ngoài. Điềm tĩnh nói đến một thái độ sống “lùi”, vạn sự thuận theo tự nhiên, người giữ được tinh thần như vậy, chắc chắn có thể làm tốt việc dưỡng tâm.

Hiện giờ, ngày càng có nhiều người theo đuổi việc “dưỡng sinh”. Dưỡng sinh gồm có dưỡng tâm, dưỡng tính và dưỡng thân. Nhưng rất nhiều người chỉ quan tâm đến việc dưỡng thân, cho rằng chỉ cần chăm sóc cơ thể cho thật đẹp đẽ, khỏe mạnh, thì có thể hưởng thụ cuộc sống lâu dài. Cho nên, số người có thể kiên trì hàng ngày tập luyện thể thao, ăn uống lành mạnh thì nhiều, nhưng số người có thể kiên trì dưỡng tâm hàng ngày lại rất ít.

Advertisement

Có một bà mẹ cực kỳ chú trọng việc dưỡng sinh. Gặp ai cô ấy cũng thao thao bất tuyệt về đạo lý dưỡng sinh, về việc mỗi ngày phải ăn cái gì, ăn bao nhiêu, ăn thế nào, vận động bao lâu… Cô ấy nói hết lần này đến lần khác: Chỉ có làm như vậy, mới không bị bệnh! Nhưng mỗi lần nghe những điều này, tôi đều thấy rất lạ. Một người ngày nào cũng bận rộn chuẩn bị đồ ăn lành mạnh cho bản thân từ sáng đến tối, sợ mình ăn phải đồ ăn không tốt sẽ sinh bệnh, không thể sống thọ, ngày nào cũng lo lắng như vậy, liệu có vui vẻ được không?

Nếu như chúng ta dư ỡng sinh mà không bắt đầu từ việc dưỡng tâm dưỡng tính, trong lòng sẽ có nhiều phiền não, có nhiều ham muốn. Như vậy, “hạnh phúc” mà chúng ta được hưởng chỉ dừng ở mức ăn ngon mặc đẹp và cơ thể khỏe mạnh, đó không phải cuộc sống thăng hoa chân chính.

Đại sư Hoằng Nhất cho rằng điềm đạm là “điều đầu tiên của việc dưỡng tâm”. Điềm đạm mà ngài nói tới suy cho cùng là cần con người phải tĩnh tâm. Thế gian này bao chuyện phiền não, dễ ảnh hưởng đến tâm lý của con người.

Kim che con gian anh 2

Cuốn sách Nóng giận là bản năng, tĩnh lặng là bản lĩnh mang đến cho người đọc nhiều lời khuyên hữu ích. Ảnh: Chi.

Cho nên, nhiều người nghĩ rằng tâm mình không tĩnh là vì đang bị quá nhiều chuyện quấy nhiễu. Thật ra, ta bị quấy rầy không phải vì những chuyện phiền nhiễu trên đời, mà vì tâm không tĩnh. Khi chúng ta có thể tách khỏi tất cả sự vật bên ngoài, cho dù ở trong hoàn cảnh nào, ta cũng có thể hưởng thụ cuộc sống an nhàn thực sự.

Trong xã hội hiện thực này, rất nhiều chuyện sẽ làm cho chúng ta “dao động”.

Advertisement

Khi một người mỗi ngày kiếm được 10 đồng, chỉ đủ để ăn no, anh ta cảm thấy rất thoải mái, nhưng lại mơ mỗi ngày kiếm được 100 đồng; khi kiếm được 100 đồng mỗi ngày, anh ta lại cảm thấy mệt hơn trước rất nhiều, và không thấy hài lòng lắm, bởi vì có người mỗi ngày kiếm được 1.000 đồng.

Anh ta làm việc chăm chỉ hơn, cuối cùng cũng có thể kiếm 1.000 đồng mỗi ngày, anh ta bắt đầu mua xe, mua nhà, sống cuộc sống tốt đẹp mà anh ta từng ao ước, nhưng anh ta lại bắt đầu hướng về cuộc sống mỗi ngày kiếm được 10.000 đồng…

Chúng ta luôn rơi vào một vòng tròn kỳ lạ như vậy. Chúng ta luôn cho rằng khi đạt được điều gì mình mong đợi đã lâu, trong lòng sẽ cảm thấy yên tâm, hài lòng, từ đó có thể hạnh phúc. Nhưng sau khi đạt được điều mình muốn, ta lại có cảm giác cũng chỉ thế mà thôi. Những ham muốn lớn hơn nối tiếp nhau, mục tiêu ngày càng cao, và chúng ta càng ngày càng mệt hơn.

Do đó, một người sau khi có biệt thự, xe hơi, anh ta càng không hạnh phúc, bởi anh ta lo sợ một ngày nào đó sẽ mất đi cuộc sống như vậy, do đó đành phải dốc sức làm việc nhiều hơn, ép bản thân phải kiếm được 100.000 mỗi ngày, nếu chỉ kiếm được 80.000 thì thở dài ngao ngán.

Ngày nào cũng sống trong nỗi sợ mất đi danh lợi, gánh áp lực khủng khiếp, làm sao mà không sinh bệnh cho được? Dĩ nhiên, không phải con người không thể sống như vậy, danh lợi vốn là sự theo đuổi lớn nhất cuộc đời đối với một người bình thường.

Advertisement

Nhưng ý ở đây muốn nói, nếu như cuộc sống như vậy làm cho chúng ta cảm thấy thêm áp lực, thêm phiền muộn, không hề có cảm giác hạnh phúc, thì bạn hoàn toàn có thể suy nghĩ theo hướng khác.

Không nhất thiết phải từ bỏ những thứ như biệt thự, xe hơi, chỉ cần từ bỏ việc cố chấp gắn bó với những thứ này, dù kiếm được 1.000.000 mỗi ngày cũng không ngạo mạn, mà mỗi ngày kiếm được 10 đồng cũng không chán chường, muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, không cần gượng ép bản thân, bạn có thể cảm nhận được sự hạnh phúc ngay lập tức.

Người có nội tâm điềm đạm là người ngay cả khi mặc một chiếc áo vải, ăn một bữa cơm đạm bạc, vẫn có thể an nhàn thoải mái, không có chút cảm giác khó chịu hay không vui nào. Cho dù đối mặt với phiền não và sinh tử, họ cũng có thể thản nhiên đối diện, trong lòng không một chút gợn sóng đau khổ, không cần ăn ngon mặc đẹp vẫn cảm thấy yên bình và hạnh phúc.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/kim-che-con-gian-la-ban-linh-can-co-cua-nguoi-truong-thanh-post1455101.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tuổi ấy mình yêu

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn tản văn “Tuổi ấy mình yêu” ghi lại nhiều ký ức về Hà Nội của thế hệ 6X, 7X. Khi ấy thành phố tuy còn nhiều gian khó nhưng đầy lãng mạn với những biệt thự cổ rêu phong, cùng những thanh niên tha thiết yêu đời!

Dòng thời gian miên man đưa ta về những kỷ niệm ấu thơ không thể nào quên. Mùa hè nóng như đổ lửa, chẳng có điều hòa lẫn quạt điện, chỉ đành phe phẩy quạt nan xua đi cái nóng.

Tuoi ay minh yeu anh 1

Cảnh mấy đứa trẻ ngồi ở bể nước công cộng để mẹ tắm rửa là hình ảnh quen thuộc thời bao cấp. Ảnh: Fclikr.

Ở miền ôn đới mà nhiệt độ lên tới 40 thì không thể không coi là sự kiện. Vì thế mà ai chưa kịp trẻ lại, gầy đi, chết vì nóng thì cứ, rất nhiều người thích, tranh thủ cởi gần hết cho da có màu suy nghĩ. Cái màu này, Tây và ngay cả ta chưa từng trải đời này dăm chục năm tha hồ suy nghĩ cũng chả biết là màu gì.

[…]

Advertisement

Thành phố uể oải trong hơi nóng làm người cứ lơ mơ, thương chả ra thương nhớ chẳng ra nhớ, cứ dằng dai lừng khừng. Chẳng biết có phải dân ở những xứ nóng động cái là sùng sục hừng hực lên là vì một năm mấy mùa đã tha hồ uể oải rồi không?

Chiều qua thứ bảy, chỉ còn mấy tiếng nữa cửa hàng cửa họ đóng, đóng cửa luôn ngày chủ nhật là ngày đến Chúa cũng không làm gì (mà còn làm làm gì, sửa sai thế nào được nữa sau khi đã tạo ra con người) nhưng nắng vẫn còn chấp chới trên bờ tường, ngọn cây, mái nhà. Say nắng trưa rồi, không dám đi xa, chỉ lếch thếch ra đầu phố xem có quả dưa hấu nào nhẹ hơn một yến để tha về ăn giải nhiệt chờ mưa.

Mưa thì chưa, dưa thì không nhẹ, chẳng mua bán gì nữa, đi về. Ngang qua cái quán nhỏ đầu phố thấy bàn nào cũng có người ngồi lơ mơ. Có ông lẩn mẩn lúc quờ cốc cà phê đưa lên môi lúc sờ cây bút bi chơi đố chữ.

Có mẹ nạ dòng cháu sớm phom dáng cực kì hùng tráng vẫn chẳng ngần ngại gọi cốc kem to cho xứng người, ăn thi với cháu. Có bà già lim dim mắt xếp tà váy rồi ngồi vắt chân đầy vẻ quý phái khiêu khích kiểu Marlene Dietrich, thay vì điếu thuốc trên tay lại thấy phảy một cái quạt giấy thật là xinh.

Kỷ vật của những ngày nắng hạ Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Tuynidi gì đó đây, không biết cụ mua hay cụ trai nào tặng, mùa hạ vừa đi qua hay từ đời thăm thẳm nỗi niềm nào.

Advertisement

Bất chợt thấy mình chậm bước. Bất chợt hình dung lại, ngày xưa, cũng quạt giấy như này. Bà tóc bạc vấn lẳn trong vành khăn trắng để “trở” ai trong họ chẳng biết. Bà đứng chờ tàu điện chỗ Ô Cầu Dền. Bà luôn luôn có cái quạt trong tay phe phảy cho cháu bám quẩn bên chân.

Bà ngồi chân co chân duỗi đầu tấm phản sau này hạ xuống che cái hầm trú ẩn đào ngay dưới gậm giường rồi cúi người vuốt ngay ngắn ống quần, mở âu giầu, tỉ mẩn tiện miếng vỏ quạch, xé mảnh lá giầu không, bổ nhỏ miếng cau đã bổ sáu từ trước, quết chút vôi trắng, nhúm chút thuốc lào rồi đưa lên miệng, rồi bận bịu dọi lại vành cái quạt nan, xếp lại cái quạt giấy, lầm thầm không biết là mắng đứa cháu nào dùng đồ xong buông quăng bỏ vãi, vô ý vô tứ chẳng biết của bền tại người.

Chao ôi những buổi chiều Hà Nội hết chiến tranh, đã khó nghèo càng thêm khó nghèo vì mẹ mất, nhưng bà còn đó cho chị em mình nương dựa, bà còn đó, giữ lại cho chị em mình những gì còn có thể giữ được, là sự ngây ngô quý giá nhất của tuổi ấu thơ.

Tuoi ay minh yeu anh 2

Cuốn tản văn Tuổi ấy mình yêu của nhà văn Lê Minh Hà. Ảnh: NXB Trẻ.

Cũng cái quạt giấy này, trong bàn tay con gái những ngày cuối cùng đến lớp, giấy trang kim màu tím, nan tre, thằng bạn ngồi bên giằng lấy hỏng luôn chỗ tay cầm, những cái nan rời nhau ra, thế mà nó ra sức khoát tay quạt cho cả mình với nó. Tức mà nghĩ tới những ngày sắp xa đi, gặp lại không biết có đủ tự tin như giờ vẫn hay gây sự với nhau, nghĩ tới cái compa dở hơi nó vẫn nhường mình trong giờ hình học, thôi im vậy.

Bà già váy hoa vẫn đang lơ mơ bên cốc kem phe phẩy cái quạt giấy rõ là xinh. Uể oải thì mình đang uể oải lắm rồi, nhưng có mơ đâu, mà cảm như từ đâu xưa hơi gió từ cái quạt giấy muôn đời. Chỉ phảy nhẹ phảng phất thôi đã đủ làm xao động hơi nóng ngày tháng hạ vì cái mùi hơi thum thủm của những nan quạt vót từ tre ngâm ao bùn.

Advertisement

Ở Hà Nội giờ hay gặp các bà đi tập dưỡng sinh. Khi biểu diễn dưỡng sinh, các bà mặc cả bộ sa tanh đỏ, cứ từng lúc lại khuỵu đầu gối trong tư thế cảm tử lao về phía trước, trong tay là cái quạt hình thù như cái quạt giấy mình quen pạch một cái đồng loạt xòe ra.

Chưa tới gần nên không biết nan quạt bằng tre bằng gỗ hay bằng nhựa, nhưng cái quạt cũng màu đỏ rực, lại có tua rua, xòe ra đều còn hơn các diễn viên hội đoàn tập múa, chỉ còn thiếu hai bím tóc ngắn vểnh ngang tai và trẻ đi dăm chục tuổi là gần bằng diễn viên kinh kịch Bắc Kinh nhảy một cái, xoạc chân một cái, cao giọng á a a trên sân khấu Hà Nội một thời.

Về với Hà Nội, cứ lần nào nhìn thấy những mảnh tam giác đỏ rực ấy chói lọi trong nắng sớm cũng giật mình.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/mua-he-da-xa-post1455038.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Xu hướng