Connect with us

Sách hay

Sự thật trần trụi về tiền

Được phát hành

,

Sách “Naked Money – Sự thật trần trụi về tiền” giúp người đọc có cái nhìn rõ ràng hơn về tiền, hệ thống tài chính và cách nền kinh tế hiện đại vận hành.

Trong cuốn Naked Money – Sự thật trần trụi về tiền, tác giả Charles Wheelan – hiện là giảng viên cao cấp và nghiên cứu chính sách tại Trung tâm Rockefeller – đã cung cấp cho độc giả một cái nhìn tổng quan về tiền (từ nguồn gốc, chức năng cơ bản của tiền tệ, đến chế độ bản vị vàng, đôla hóa, rồi đồng tiền chung khu vực như euro, tiền mã hóa, tiền kỹ thuật số như bitcoin, onecoin…).

Su that ve tien anh 1

Bên cạnh đó, bằng văn phong dí dỏm, nhẹ nhàng, và những ví dụ cụ thể, tác giả còn giải thích, làm rõ cách hệ thống tài chính hiện đại hoạt động và vai trò của các tổ chức tài chính khác nhau; ảnh hưởng của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế; ảnh hưởng của tiền tệ đối với chính trị và ngược lai; các cuộc khủng hoảng tài chính lớn trong lịch sử, bài học và cách phòng tránh / giải quyết các tình huống tương tự…

Bên cạnh đó, tác giả sách cũng đề cập đến tương lai của tiền tệ bao gồm sự phát triển của tiền điện tử và các xu hướng tài chính khác, và có những thách thức cần vượt qua để tạo ra một hệ thống tài chính ổn định và công bằng hơn.

Nền tảng của nền kinh tế hiện đại

Naked Money – Sự thật trần trụi về tiền gồm hai phần chính: Phần I “Bản chất của vấn đề”, tác giả tập trung vào việc mô tả các chế độ tiền tệ; vấn đề lạm phát và giảm phát; vai trò dẫn dắt của ngân hàng trung ương; tỷ giá hối đoái và hệ thống tài chính… Phần II “Tại sao nó lại quan trọng”, tác giả tập trung vào việc tìm hiểu lịch sử tiền tệ, tài chính và những cuộc khủng hoảng, từ đó phân tích, tìm nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm và đưa ra các khuyến nghị cho tương lai…

Su that ve tien anh 2

Sách Naked Money – Sự thật trần trụi về tiền. Ảnh: Alpha Books.

Charles Wheelan bắt đầu cuốn sách bằng việc trích dẫn câu nói của Carl Menger – nhà sáng lập Trường Kinh tế Áo, 1892 nói về bản chất của tiền: “Bản chất của những đồng tròn nhỏ hay những tờ giấy đó là gì, khi dường như bản thân chúng không phục vụ mục đích hữu ích nào nhưng lại được truyền tay từ người này sang người khác để trao đổi những thứ hàng hóa hữu ích nhất, và quả thực, mọi người đều rất háo hức giao nộp hàng hóa của mình”.

Tiếp đó, tác giả bàn về việc làm thế nào mà tờ giấy trong ví chúng ta hay những con số trong tài khoản ngân hàng của chúng ta lại có giá trị như vậy, và làm thế nào mà quy ước kỳ lạ – trao đổi những tờ giấy dường như vô dụng để lấy hàng hóa thật – lại trở thành nền tảng cho nền kinh tế hiện đại.

Theo tác giả, một đồng tiền có giá trị lưu hành phải phục vụ được ba mục đích. Đầu tiên, nó đóng vai trò là đơn vị đo lường. Có nghĩa là người ta đặt một đơn vị tiền tệ cụ thể để đặt mức giá trị lên đồ vật. Nói cách khác đó là đơn vị đo lường để định giá các đồ vật. Thứ hai, tiền là phương tiện lưu trữ giá trị. Nó cho chúng ta một cách thức để chấp nhận khoản thanh toán cho một thứ gì đó vào lúc này và sử dụng nó để mua trong tương lai. Thứ ba, tiền được sử dụng như một phương tiện trao đổi, nghĩa là nó được sử dụng để dễ bề thực hiện các giao dịch.

Tuy nhiên, tác giả lưu ý, tiền không đồng nghĩa với của cải / tài sản đơn thuần, mà nó là loại tài sản thường có thể sử dụng ngay lập tức để mua bán hàng hóa. Ví dụ tiền mặt, các khoản tiền gửi trong tài khoản thanh toán hoặc các tài khoản khác với đặc quyền viết séc, bạn có thể sử dụng chúng để mua hàng ngay.

Ngược lại, một chiếc ôtô sang trọng và ngôi nhà khang trang không được coi là tiền, dù cả hai có giá trị lớn nhưng chúng không được sử dụng thường xuyên để mua bán. Ngay cả cổ phiếu và trái phiếu cũng không được coi là tiền, chúng là những tài sản để người bán đổi lấy tiền, sau đó có thể sử dụng để mua sắm. Điều này cho thấy tất cả tiền đều là tài sản, nhưng không phải tất cả tài sản đều là tiền.

Tương tự tất cả tiền tệ đều là tiền bạc nhưng không phải tất cả tiền bạc đều là tiền tệ. Theo Charles Wheelan về cơ bản tiền tệ bao gồm tiền giấy và tiền xu lưu hành. Tiền bạc là một khái niệm rộng hơn bao gồm cả tiền tệ và các tài sản khác có thể sử dụng để mua hàng hoặc nhanh chóng có thể chuyển đổi sang tiền tệ, chẳng hạn như tiền gửi trong tài khoản ngân hàng.

Charles Wheelan cũng lưu ý tiền hiện đại còn phụ thuộc vào niềm tin và phong tục xã hội ở một vùng lãnh thổ hoặc một nhóm người nào đó. Ví dụ Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ coi mọi tờ tiền rupee dù có bẩn và rách vẫn được coi là hợp pháp, miễn là nó còn hai dãy số se-ri nguyên vẹn. Tuy nhiên, trên đường phố Mumbai bạn khó có thể tìm được một người chấp nhận một tờ tiền rupee rách và quá cũ, kể cả số se-ri nguyên vẹn.

Một ví dụ khác là ở Somali đầu những năm 2000 người ta vẫn lưu hành những tờ tiền shilling Somali được phát hành hai thập kỷ trước bởi một chính phủ không còn tồn tại. Theo tờ Economist: “Việc sử dụng tiền giấy thường được coi là biểu hiện niềm tin vào chính phủ phát hành nó”. Với trường hợp của Somali, thực tế nước này không có chính phủ trong suốt vài thập kỷ. Tuy nhiên, tiền tệ – mặc dù chỉ là những tờ giấy – vẫn tiếp tục phát triển ổn định. Lý do là vì tất cả đều chấp nhận nó.

Hệ thống tài chính hiện đại và vai trò của các tổ chức tài chính

Tiếp theo, Wheelan chuyển sang bàn về tín dụng. Theo ông, tiền không đơn thuần là những tờ tiền giấy trong ví của bạn. Toàn bộ hệ thống tài chính của chúng ta được xây dựng dựa trên một ý tưởng rất mạnh mẽ: tín dụng. Các ngân hàng và nhiều định chế hoạt động giống như ngân hàng đóng vai trò trung gian kết nối cho người đi vay và người vay (tất nhiên kèm theo một khoản phí).

Su that ve tien anh 3

Tác giả Charles Wheelan. Nguồn: Dartmouth.

Nói cách khác là ngành ngân hàng cho phép chúng ta tận dụng hiệu quả khoản vốn của người khác. Tất nhiên khoản vốn vay này vừa là nguồn sức mạnh kinh tế nhưng cũng vừa là nguồn của bất ổn kinh tế. Khi hệ thống hoạt động tốt, tiền và tín dụng sẽ là chất bôi trơn cho hệ thống, đồng thời tăng cường sự sáng tạo của con người. Khi hệ thống sụp đổ, giống như những gì đã từng xảy ra vào năm 2008, toàn bộ cơ cấu tài chính sẽ sụp đổ theo với tổn thất không lồ cho nhân loại.

Wheelan cũng đưa ra những giải thích về vai trò và cơ chế hoạt động của Ngân hàng trung ương trong việc duy trì giá trị của đồng tiền và bảo toàn sự ổn định của hệ thống tài chính. Cục Dự trữ Liên bang có trách nhiệm trong việc quản lý nguồn cung tiền, và là người cho vay cuối cùng. Cục này còn được trao những quyền lực đặc biệt, bao gồm đặc quyền in thêm tiền mới.

Trong cuốn sách, Wheelan còn bàn rất nhiều vấn đề khác nhau của tiền tệ như: việc các quốc gia sử dụng đồng tiền chung, việc các quốc gia sử dụng đồng tiền riêng; những xung đột nảy sinh khi các quốc gia khác nhau sử dụng các tờ giấy khác nhau làm tiền tệ… Ông thảo luận về sức mua tương đương, tác động của biến động tỷ giá hối đoái lên các doanh nghiệp và lợi ích cũng như chi phí của một loại tiền tệ “mạnh”, tác động của bản vị vàng đối với nền kinh tế…

Ông cũng đề cập các cuộc khủng hoảng tài chính bao gồm năm 1929 và 2008, sự ra đời của các đồng tiền mã hóa và đưa ra nhiều dự đoán về tương lai của tiền tệ, bao gồm sự phát triển của tiền điện tử và các xu hướng tài chính khác…

Tóm lại, với việc đưa ra cái nhìn tổng quan về tiền và trình bày rõ ràng về chính sách tiền tệ cũng như tác động của nó, Naked Money – Sự thật trần trụi về tiền là một tài liệu hướng dẫn toàn diện về tiền và hệ thống tài chính. Sách phù hợp với nhiều đối tượng độc giả, từ người mới bắt đầu tìm hiểu về tài chính đến các chuyên gia trong ngành.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/su-that-tran-trui-ve-tien-post1501782.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng