Connect with us

Sách hay

Sẽ liên lạc được với nền văn minh ngoài Trái Đất trước 2025?

Được phát hành

,

Phương trình Drake cho thấy có hơn 20 tỷ hành tinh giống Trái Đất trong thiên hà. Do đó, nhiều nhà khoa học vẫn tin là ta sẽ sớm liên lạc được với dạng sống ngoài hành tinh.

Được sự đồng ý của alphabooks, Zing trích đăng cuốn sách “Tương lai nhân loại” của tác giả Michio Kaku.

Ngày nọ, người ngoài hành tinh xuất hiện. Họ đến từ vùng đất xa xôi chưa ai từng nghe tới, trên những con tàu kỳ vĩ, lạ lùng và sử dụng công nghệ chỉ có trong mơ. Áo giáp và khiên chắn của họ vững bền chưa từng thấy. Họ nói thứ ngôn ngữ dị thường và mang theo các loài thú kỳ quái.

Mọi người tự hỏi: Họ là ai? Từ đâu đến? Một số người nói họ là sứ giả từ các vì sao. Số khác thì thầm rằng trông họ giống các vị thần từ thiên đường. Nhưng thật không may, tất cả đều nhầm lẫn.

Đó là năm định mệnh 1519, khi Montezuma gặp Hernán Cortés, và người Aztec đối đầu với đế chế Tây Ban Nha. Cortés và các chinh tướng dưới quyền chẳng phải sứ giả từ các vị thần, mà chỉ là những kẻ chuyên cắt cổ người khác để lấy vàng và bất cứ thứ gì có thể cướp được.

Phải mất hàng nghìn năm, nền văn minh Aztec mới có thể trỗi dậy từ rừng thẳm, nhưng do chỉ sở hữu công nghệ đồ đồng, họ thất thế và bị quân lính Tây Ban Nha tiêu diệt chỉ sau vài tháng.

tuong lai nhan loai anh 1

Thận trọng nếu gặp các nền văn minh khác

Khi du hành vào không gian, bài học ta rút ra từ thảm kịch trên là hãy thận trọng. Nói cho cùng, xét về trình độ công nghệ, người Aztec chỉ đi sau Tây Ban Nha khoảng vài thế kỷ. Nếu chúng ta gặp gỡ các nền văn minh khác trong vũ trụ, họ có thể đã đi trước ta rất nhiều và sở hữu những quyền năng mà ta chỉ có thể mơ thấy. Nếu giao chiến cùng họ, có lẽ ta sẽ giống như King Kong chạm trán Sóc Chuột Alvin vậy.

Nhà vật lý Stephen Hawking từng cảnh bảo: “Chỉ cần nhìn lại chính mình, ta sẽ thấy dạng sống trí tuệ có thể phát triển thành những thứ ta không hề muốn bắt gặp”. Nhắc đến việc Christopher Columbus gặp thổ dân châu Mỹ, ông kết luận: “Kết cục không hay ho lắm.” Hay như nhà sinh học thiên văn David Grinspoon nói: “Nếu sống trong khu rừng toàn sư tử đói, liệu bạn có dám nhảy từ trên cây xuống, miệng hô: ‘Tao đây’ không?”

Tuy nhiên, phim ảnh Hollywood đã tẩy não chúng ta, khiến ta nghĩ mình có thể đánh bại những kẻ xâm lăng ngoài hành tinh trong khi công nghệ của họ đi trước chúng ta vài thập kỷ hoặc vài thế kỷ. Hollywood cho rằng ta có thể chiến thắng bằng một mưu mẹo thô sơ nhưng tài tình nào đó.

Trong phim Independence Day (Ngày độc lập), con người chỉ việc cài một loại virus máy tính đơn giản vào hệ điều hành là có thể khiến quân địch thua trận, cứ như thể người ngoài hành tinh sử dụng hệ điều hành Windows của Microsoft vậy.

Thậm chí, các nhà khoa học cũng phạm sai lầm. Họ thường giễu cợt ý kiến cho rằng một nền văn minh xa lạ ở cách đây nhiều năm ánh sáng lại có thể đến thăm chúng ta. Nhưng đó là họ giả định các nền văn minh ngoài hành tinh chỉ đi trước ta vài thế kỷ về mặt công nghệ.

Nếu như họ đi trước hàng triệu năm thì sao? Một triệu năm chỉ là cái chớp mắt đối với vũ trụ. Nhưng trong khoảng thời gian đó, biết bao định luật vật lý và công nghệ mới đã ra đời.

Cá nhân tôi tin rằng bất kỳ nền văn minh nào đạt đến trình độ siêu việt đều sẽ hiền hòa. Họ đi trước chúng ta rất lâu, đủ thời gian để giải quyết các xung đột lâu đời về phe phái, sắc tộc, tôn giáo. Tuy vậy, chúng ta vẫn phải chuẩn bị sẵn sàng trước khả năng họ “không hiền”. Thay vì gửi tín hiệu vô tuyến ra không gian để thông báo cho các nền văn minh ngoài hành tinh về sự tồn tại của mình, ta nên cẩn trọng, tìm hiểu về họ trước.

Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ bắt liên lạc được với nền văn minh ngoài Trái Đất ngay trong thế kỷ 21. Họ sẽ không phải những nhà chinh phạt nhẫn tâm, mà rất nhân từ và sẵn sàng chia sẻ công nghệ với chúng ta. Đó sẽ là một trong những bước ngoặt quan trọng bậc nhất của lịch sử, sánh ngang với việc tìm ra lửa, có thể quyết định hướng phát triển của văn minh nhân loại trong nhiều thế kỷ sau.

tuong lai nhan loai anh 2
Nhiều nước lắp đặt kính viễn vọng vô tuyến tìm kiếm tín hiệu từ nền văn minh ngoài vũ trụ.

Tìm kiếm trí tuệ ngoài hành tinh

Một số nhà vật lý đã và đang tích cực dùng các phương tiện hiện đại để quét khắp bầu trời, tìm kiếm những dấu hiệu của văn minh tiên tiến ngoài Trái Đất. Công cuộc tìm kiếm này có tên gọi SETI (tìm kiếm trí tuệ ngoài hành tinh). Các kính viễn vọng vô tuyến mạnh nhất sẽ dò quét bầu trời để lắng nghe những tín hiệu từ nền văn minh ngoài vũ trụ.

Hiện tại, nhờ sự đóng góp hào phóng của nhà đồng sáng lập Microsoft Paul Allen cùng nhiều người khác, Viện SETI đang xây dựng 42 kính viễn vọng vô tuyến tối tân tại Hat Creek, California, cách phía đông bắc của San Francisco khoảng gần 500 km, để dò quét cả triệu ngôi sao. Theo dự kiến, cơ sở Hat Creek sẽ có 350 kính, dò tìm tần số vô tuyến trong khoảng từ 1 đến 10 gigahertz.

Nhưng dự án SETI thường chẳng được ai mang ơn và đang phải xin kinh phí từ những nhà tài trợ giàu có nhưng vẫn còn hoài nghi. Quốc hội Hoa Kỳ không quan tâm nhiều đến chương trình, họ đã cắt sạch mọi trợ cấp vào năm 1993 và nói rằng việc này chỉ phí tiền thuế của dân.

Thất vọng vì thiếu kinh phí, một số nhà khoa học kêu gọi công chúng trực tiếp tham gia để mở rộng việc tìm kiếm. Tại Đại học California, Berkeley, các nhà thiên văn thiết kế phần mềm SETI@home, cho phép hàng triệu người nghiệp dư tham gia dò tìm trực tuyến. Bất cứ ai cũng có thể tham gia. Bạn chỉ cần tải phần mềm từ trang web của họ. Mười giờ đêm, khi bạn ngủ, máy tính sẽ tìm kiếm trong hàng núi dữ liệu mà SETI thu thập được, cố gắng tìm ra “chiếc kim” dưới “đáy biển”.

Tôi từng có vài dịp phỏng vấn tiến sĩ Seth Shostak, người đang làm việc cho Viện SETI ở Mountain View, California. Ông tin rằng ta sẽ bắt liên lạc được với một nền văn minh ngoài Trái Đất trước năm 2025. Tôi hỏi vì sao ông có thể khẳng định như vậy. Sau bao thập niên dò tìm miệt mài, ta vẫn chưa từng thấy dấu hiệu chắc chắn nào của văn minh ngoài hành tinh.

Hơn thế nữa, dùng kính viễn vọng vô tuyến để nghe các cuộc trò chuyện ngoài hành tinh cũng có phần giống như trò may rủi, bởi có thể người ngoài hành tinh không sử dụng sóng radio. Có thể họ dùng những tần số hoàn toàn khác hoặc dùng chùm tia laser, hay một cách thức liên lạc hoàn toàn xa lạ mà ta chưa hề biết tới.

Ông thừa nhận tất cả những khả năng đó đều có thể xảy ra. Nhưng ông vẫn tin là ta sẽ sớm liên lạc được với dạng sống ngoài hành tinh. Ông có phương trình Drake đứng về phía mình.

Năm 1961, bất mãn trước những suy đoán vô căn cứ về sự sống trong vũ trụ, nhà thiên văn Frank Drake cố gắng tính toán xác suất tìm thấy một nền văn minh ngoài Trái Đất. Theo đó, ta bắt đầu với số ngôi sao thuộc Dải Ngân Hà (khoảng 100 tỷ), sau đó giảm đi bằng cách nhân số đó với tỷ lệ các ngôi sao có hành tinh xung quanh, rồi với tỷ lệ các hành tinh có sự sống, rồi đến tỷ lệ các hành tinh có dạng sống thông minh, cứ thế tiếp tục. Tích của các tỷ lệ này cho ta con số gần đúng về số nền văn minh tiên tiến có thể tồn tại trong thiên hà.

Khi Frank Drake lần đầu đưa ra công thức, vẫn còn quá nhiều điều chúng ta chưa biết nên kết quả khi ấy hoàn toàn chỉ là phỏng đoán. Ước đoán số nền văn minh trong thiên hà dao động từ hàng chục nghìn cho đến hàng triệu.

Ngày nay, với cơn lũ thông tin về các ngoại hành tinh tìm thấy trong không gian, ta có thể ước tính chính xác hơn nhiều. Tin vui là qua mỗi năm, các nhà thiên văn lại càng thu hẹp được các yếu tố của phương trình Drake. Giờ ta biết trong Dải Ngân Hà, cứ 5 ngôi sao giống Mặt Trời thì có ít nhất một sao có các hành tinh giống Trái Đất quay quanh. Như vậy, theo phương trình, có hơn 20 tỷ hành tinh giống Trái Đất trong thiên hà của chúng ta.

tuong lai nhan loai anh 3
Các kính viễn vọng vô tuyến đặt ở Hat Creek.

Phương trình Drake hiện đã được chỉnh sửa khá nhiều. Phương trình ban đầu quá đơn giản. Bạn đọc hắn còn nhớ, những hành tinh giống Trái Đất muốn tồn tại phải có các hành tinh cỡ Sao Mộc di chuyển theo quỹ đạo tròn để đánh bật các tiểu hành tinh và mảnh vụn có khả năng hủy diệt sự sống.

Như vậy, ta chỉ tính số hành tinh giống Trái Đất nhưng có hàng xóm là các hành tinh cỡ Sao Mộc. Các hành tinh giống Trái Đất còn cần có các vệ tinh cỡ lớn để giúp bình ổn độ xoay, nếu không chúng sẽ lắc lư và bị lật sau hàng triệu năm.

Nếu Mặt Trăng có kích thước nhỏ, như một tiểu hành tinh chẳng hạn, thì những nhiễu loạn nhỏ trong độ xoay của Trái Đất sẽ dần tích tụ và sau một thời gian rất dài, theo định luật Newton, Trái Đất sẽ bị lật. Sự sống trên Trái Đất sẽ gặp thảm họa, do sẽ xảy ra động đất, sóng thần dữ dội và núi lửa phun trào khủng khiếp khi vỏ Trái Đất bị nứt. Mặt Trăng của chúng ta đủ lớn để những nhiễu loạn đó khỏng tích tụ. Nhưng Sao Hỏa có những vệ tinh rất nhỏ và có lẽ đã từng bị lật trong quá khứ xa xưa.

Khoa học hiện đại đã cung cấp cho ta cả một đại dương dữ liệu cụ thể về số hành tinh đủ điều kiện nuôi dưỡng sự sống, nhưng chúng cũng cho thấy sự sống có thể bị hủy diệt bởi đủ loại thảm họa và tai nạn thiên nhiên. Trong lịch sử Trái Đất, đã nhiều lần các thảm họa thiên nhiên (như các vụ va chạm thiên thạch, kỷ băng hà trên toàn hành tinh, núi lửa phun trào) suýt tận diệt dạng sống thông minh.

Một câu hỏi căn bản là có bao nhiêu phần trăm trong số các hành tinh đáp ứng tiêu chí nuôi dưỡng sự sống thật sự có sự sống; và bao nhiêu phẩn trăm trong số các hành tinh thật sự có sự sống thoát khỏi những thảm họa cấp hành tinh rồi cho phép dạng sống thông minh tồn tại? Chúng ta vẫn còn chặng đường dài để ước tính được chính xác số nền văn minh tiên tiến trong Dải Ngân Hà.

Nguồn: https://zingnews.vn/se-lien-lac-duoc-voi-nen-van-minh-ngoai-trai-dat-truoc-2025-post1097373.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng