Connect with us

Sách hay

Những bố già châu Á

Được phát hành

,

Sách xoay quanh một nhóm khoảng vài chục ông trùm – hay đại gia – ở Đông Nam Á mà tác giả gọi là các “bố già”. Cuốn sách được đánh giá cao vì những nghiên cứu về nền kinh tế Á châu.

Những bố già là người được hưởng lợi nhiều hơn những kẻ xúi giục tăng trưởng.

Tỷ phú Ananda Krishnan (trái) cùng với Dato’ Sri Mahamad Fathil (thuộc hội đồng quản trị của Quỹ Yu Cai) tại buổi ra mắt quỹ ở Kuala Lumpur năm 2015. Ảnh: The Star.

Những bố già châu Á thường chủ tâm khai thác sự không hiệu quả về chính trị để thu lợi. Điều này sẽ sớm được làm rõ. Nhưng việc thiết lập thước đo chính xác về những đóng góp của họ cho sự phát triển của khu vực cũng rất quan trọng. Câu trả lời ngắn gọn là điều này khác xa với niềm tin mà công chúng đã tin tưởng.

Những bố già là người được hưởng lợi nhiều hơn những kẻ xúi giục tăng trưởng. Một chỉ báo cho điều này là việc làm ăn của những công ty mà họ đang vận hành có sự tụt hậu ghê gớm về năng suất so với nền kinh tế nói chung. Và chẳng có triển vọng gì đối với việc phát triển một nền kinh tế bền vững nếu năng suất lao động vẫn cứ như vậy.

Ví dụ, một nghiên cứu gần đây ở Thái Lan cho thấy năng suất tăng thêm trong 20 năm qua đã cao hơn đáng kể trong lĩnh vực nông nghiệp và sản xuất so với những ngành dịch vụ mà những đại gia chiếm ưu thế. Tương tự, lợi nhuận trong những công ty niêm yết do các bố già kiểm soát khó có thể gây được ấn tượng, làm cho Đông Nam Á – trái với hình ảnh phổ biến về “những con hổ” – lâm vào tình trạng giao dịch tồi tệ nhất trên thị trường chứng khoán ở bất kỳ quốc gia nào đang nổi lên trong hai thập niên vừa qua.

Như vậy, nếu không phải là vật trang trí cho bìa những cuốn tạp chí kinh doanh châu Á, thì điều gì là đầu tàu kinh tế của khu vực này? Lý lẽ của cuốn sách này – tuy không phải là một sự phân tích kinh tế chính thống – là các doanh nghiệp địa phương có quy mô nhỏ hơn làm việc chăm chỉ, tính tằn tiện của người Đông Nam Á đã điều khiển sự phát triển.

Điều này đúng một cách gián tiếp – thông qua sự tiết kiệm của công chúng – với những hệ quả có liên quan với nhau, đôi khi tiêu cực không có chủ ý, và theo một cách thức trực tiếp tích cực hơn nhiều, thông qua các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Một cách gián tiếp, nhiều dự án tăng trưởng được cấp vốn đầu tư đã làm cho chúng trở nên phù hợp với xu hướng của người công nhân là tiết kiệm thu nhập của họ – được gọi bằng thuật ngữ thường sử dụng trong khu vực là “tỉ lệ tiết kiệm” hoặc tỉ lệ của thu nhập hộ gia đình có thể sử dụng mà không tích trữ trong ngân hàng và các công cụ tiết kiệm khác.

Tỉ lệ tiết kiệm của vùng Đông Nam Á là cao nhất thế giới, lên đỉnh điểm trước cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, tới gần 40%. Có vẻ thật đáng khâm phục, nhưng nó ngày càng làm cho đồng tiền mất giá quá nhiều, thông qua hệ thống tài chính nằm trong tay những chính khách và các đại gia cũng như đối tác của họ.

Chúng ta sẽ xem xét làm thế nào mà, trong những trường hợp quá cực đoan ở các nước như Indonesia và Philippines, những bố già đã biến những ngân hàng thương mại thành những ngân hàng cá nhân tựa con lợn bỏ ống của họ. Trong giai đoạn chạy lấy đà đến cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, cách đầu tư như vậy làm chệch hướng sang những dự án không hề mang tính thương mại chút nào. Do vậy, sự sụp đổ là điều không thể tránh khỏi.

Một cách trực tiếp, những doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn – như những nhà cung cấp và các chủ cửa hàng – và những người bình thường điều khiển sự phát triển của khu vực Đông Nam Á vì họ là tâm điểm của sự thành công rực rỡ về xuất khẩu của cả vùng. Trong 45 năm qua, không có gì tạo nên một đóng góp có thể so sánh được như vậy đối với sự tăng trưởng bền vững. Trong khi những chính sách công nghiệp hóa và thay thế nhập khẩu – thường thu hút những công ty của các bố già – đưa lại kết quả nghèo nàn, thì sự thúc đẩy sản xuất hàng xuất khẩu đã luôn luôn thành công.

Thật không may, mô hình phụ thuộc xuất khẩu – vừa mới đây được Trung Quốc áp dụng – có những mặt hạn chế của nó. Ở nơi có quá nhiều hàng xuất khẩu được sản xuất bởi các công ty nước ngoài, thì những người mua có thể là những bạn hàng đỏng đảnh.

Vào những năm 1990, các nước Đông Nam Á khám phá ra điều này khi những nhà sản xuất nước ngoài bắt đầu định vị lại hoạt động của họ, hướng tới những nơi có chi phí thấp hơn, rõ ràng nhất là ở Trung Quốc, và ở các nước như Việt Nam và Bangladesh cũng thế.

Quá trình này bắt đầu tốt đẹp trước cơn khủng hoảng tài chính nhưng lại làm trầm trọng thêm những hiệu ứng của nó. Không phải sự trùng hợp ngẫu nhiên là năm 1996, năm trước khủng hoảng, chứng kiến một sự giảm tốc đột ngột trong tăng trưởng xuất khẩu khắp khu vực. Tại Thái Lan, nơi cơn khủng hoảng bắt đầu, hàng xuất khẩu đều được ký hợp đồng.

Trong những năm kế tiếp, sự phục hồi về hàng xuất khẩu ở Đông Nam Á được thể hiện qua vận đơn của những mặt hàng như gỗ tấm, cao su, dầu cọ và một số mặt hàng chuyên dụng, nhưng khuynh hướng hàng xuất khẩu cho giá trị gia tăng thấp hơn là quá trình mở rộng quy mô của những cơ sở sản xuất có đầu tư nước ngoài.

Khi cỗ máy xuất khẩu dừng hoạt động mạnh ở Đông Nam Á, hiệu ứng này lại tập trung sự chú ý vào những gì mà các nền kinh tế trong khu vực đang đặt ra. Câu trả lời hiện nay là không đầy đủ.

Các doanh nghiệp nội địa do các bố già châu Á vận hành lớn lên làm cho các thị trường được bảo hộ chán ngấy với những cartel và các gói thầu không có sự cạnh tranh cho việc xây dựng công trình phúc lợi công cộng. Kết quả là, gần như không có ngoại lệ – từ các ngân hàng Singapore đến những siêu thị ở Hong Kong cho tới những nhà sản xuất mì ăn liền ở Indonesia – khu vực Đông Nam Á thiếu vắng các công ty có sức cạnh tranh toàn cầu.

Hơn nữa, không giống như ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan phụ thuộc nhiều vào những nhà cung cấp nước ngoài về công nghệ và quản lý dự án, các bố già tập trung nhiều vào các thương vụ dùng mưu mẹo trong những thị trường có sự điều chỉnh quá mức và họ dành sự vận hành kỹ thuật cho những người ngoài.

Điều này đã dẫn tới những gì mà học giả người Nhật là Yoshihara Kunio, một trong những nhà phê bình sớm nhất về những nền kinh tế của các bố già, gọi là “công nghiệp hóa không công nghệ”.

Khu vực Đông Nam Á có tất cả các diện mạo của một nền kinh tế hiện đại – những nhà máy công nghệ cao, những tòa nhà chọc trời, hệ thống vận chuyển hiện đại và những nhà cung cấp tiện ích – nhưng không có những công ty lớn của người bản xứ sản xuất ra những sản phẩm và dịch vụ tầm cỡ thế giới, do vậy, không có các thương hiệu toàn cầu.

Tính cạnh tranh thực sự bị hạn chế đối với các doanh nghiệp có quy mô tương đối nhỏ vì những đại gia đã chộp giật hết thành quả kinh tế béo bở cho riêng mình. Thật đáng nhớ lại những gì Yoshihara đã nói trong công trình còn thai nghén của ông hai thập kỷ trước đây: “Mục đích thực sự của tôi… là kêu gọi mọi người chú ý tới sự nổi lên của một hiện tượng bề mặt kém hiệu quả và không sáng rõ của nền kinh tế, để mọi người suy nghĩ về những vấn đề đặt ra cho sự phát triển kinh tế trong tương lai”.

Được viết mười năm trước cơn khủng hoảng tài chính châu Á, những lời đó là một cảnh báo mang tính tiên tri, như là những lời của nhà kinh tế học Paul Krugman người Mỹ hồi đầu những năm 1990. Do hậu quả của cơn khủng hoảng, hình như có một thời gian các cấu trúc kinh tế và chính trị tạo ra “lớp áo” của nền kinh tế Đông Nam Á, sẽ được quét bỏ.

Có nhiều cuộc trò chuyện và thậm chí là hành động nào đó liên quan đến cải cách và bãi bỏ quy định. Ở Indonesia có những cuộc bầu cử dân chủ và ở Thái Lan (tuy thế cũng) có Hiến pháp mới. Nhưng sự mong đợi về một đường phân cách đã bị đặt không đúng chỗ.

Ngày nay, một phần lý do để thực hiện một cuộc hành trình khác vào những nền kinh tế do các bố già thống trị là tìm hiểu xem những nhóm tinh hoa kinh tế và chính trị của Đông Nam Á quản lý thế nào để bảo vệ những điền trang, thái ấp của họ.

Tuy vậy, không cần phải quá bi quan về tương lai. Ở châu Âu, Mỹ và Nhật Bản cuối quan thế kỷ XIX, đó là một thách thức phổ biến chậm chạp nhưng có phối hợp từ dưới lên trên, thúc đẩy đời sống chính trị và các doanh nghiệp lớn tiến lên phía trước. Liệu có thể hy vọng về một động lực như vậy sẽ được tạo ra ở Đông Nam Á?

Nguồn: https://zingnews.vn/nhung-bo-gia-chau-a-thu-loi-tu-dau-post1441875.html

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng