Connect with us

Sách hay

Lối sống thực dụng của triệu phú Mỹ

Được phát hành

,

Thông qua việc phỏng vấn, khảo sát 733 triệu phú ở Mỹ, tiến sĩ Thomas J. Stanley đã đưa ra cái nhìn toàn diện về những người có tư duy triệu phú, đồng thời tiết

Hầu hết triệu phú đều nói rằng trải nghiệm ở trường phổ thông và đại học đã có ảnh hưởng nào đó đến họ trong việc trở nên thành đạt trong cuộc sống sau này.

Nhiều phụ huynh có con học trung học liên lạc với tôi để chia sẻ về các vấn đề học tập. Họ có thể rất tận tâm với con mình, nhưng họ thường khiến bản thân và lũ trẻ lo lắng đến mức hoảng sợ.

Một phụ nữ đang xem xét kiện trường học vì con cô ấy không được chọn tham gia chương trình TAG hay Tài năng và Năng khiếu (Talent and Gifted). Cô cảm thấy chắc chắn rằng con trai mình vừa có năng khiếu vừa tài năng. Chỉ khoảng 1/5 học sinh đủ tiêu chuẩn tham gia TAG, và việc được chọn, một phần dựa trên điểm các bài kiểm tra tiêu chuẩn. Các yếu tố khác bao gồm điểm nhận được trong các khóa học chính ở trường trung học.

Người mẹ đã có những viễn cảnh tồi tệ. Cô ấy lo về “vết nhơ” khi trở thành thành viên OTTAG – những người không có Tài năng và Năng khiếu (Other Than Talent and Gifted). Hãy xem, trong khối năm thứ hai gồm 433 học sinh, 20% là TAG và 80%, hay khoảng 346 học sinh, là OTTAG. Chỉ vì cậu bé của người phụ nữ này được gắn nhãn OTTAG không có nghĩa là cậu sẽ không lớn lên thành đạt. Tôi lo rằng nếu chúng ta “dán nhãn” cậu bé theo cách này, cậu có thể sẽ không bao giờ phát huy được hết tiềm năng của mình. Cậu có thể tin rằng mình không có tài năng hay năng khiếu, và nghĩ rằng chỉ những người có năng khiếu mới thành công trong đời.

“Nhãn dán” thường là nguyên nhân tạo ra các hành vi tương đồng với chỉ định. Trong trường hợp này, người mẹ hoàn toàn tin rằng tương lai con trai mình phụ thuộc vào một “nhãn dán”, nhưng điều đó chỉ đúng nếu mẹ tin như vậy. Và nếu cô ấy tin rằng con trai mình sẽ lớn lên thành kẻ thất bại, cậu có thể tiếp thu thông điệp và hành động theo như vậy.

Nhưng cuộc sống không phải là cuộc đua ngắn – nó là cuộc chạy đường dài. Nhãn dán chỉ là nhất thời. Nếu tin mình có thể thành công trong cuộc sống bất chấp những cái mác tồi tệ dự báo thất bại, bạn có khả năng giành chiến thắng cuộc đua đường dài. Đây là kinh nghiệm chung của các triệu phú. Đa số nói rằng tại một hay một số thời điểm nào đó trong đời họ bị dán mác kém cỏi, trung bình hay tầm thường, nhưng họ không cho phép những kẻ chỉ trích dự báo thành tựu tương lai của mình, và họ đã vượt qua cái mác gọi là kém cỏi. Đây là thông điệp mà tôi tặng cho người mẹ kia.

Tôi cũng đã nói với cô ấy một điều khác. Quá trình vượt qua nhãn mác như OTTAG khiến con người ta trở nên mạnh mẽ hơn. Giống như thêm titan vào thép sẽ khiến thép cứng hơn nhiều lần so với chỉ riêng nó. Chỉ một số ít các lãnh đạo doanh nghiệp, luật sư và bác sĩ hàng đầu của Mỹ cho biết rằng họ chưa từng bị cho là kém cỏi hay thậm chí tệ hơn. Không phải ai cũng có thể trở thành người đứng đầu lớp. Những người còn lại vẫn còn rất nhiều thời gian và vô số cơ hội đạt thành tích. Những ông bố bà mẹ thường xuyên nói với con rằng chúng có thể thành công thường tạo ra những người con thành đạt.

Trieu phu My anh 1

Một người đàn ông vẫy một lá cờ Mỹ có gắn một tờ đôla trên đó khi anh ta tốt nghiệp trường Kinh doanh Harvard. Ảnh: Reuters/Brian Snyder.

Vì vậy, tốt hơn hết người phụ nữ này nên thay đổi niềm tin. Cô có thể tiết kiệm tiền dành cho các chi phí pháp lý và dùng nó để thuê gia sư cho con trai. Hãy nói với cậu ấy rằng cậu có thể và sẽ thành công nếu cố gắng nỗ lực. Chấm dứt tương lai của một học sinh 16 tuổi chỉ vì một cái mác là một hành động vô lương tâm.

Tôi đã hỏi các triệu phú về những trải nghiệm ở trường trung học và đại học của họ. Có phải tất cả bọn họ đều thuộc top 1% sinh viên tốt nghiệp đại học không? Rất ít. Khoảng 2% triệu phú được khảo sát nằm trong top 1%. Thông thường không phải những sinh viên tốt nghiệp trong tốp đầu mới trở nên thành công về kinh tế, nhưng những sinh viên tốt nghiệp dưới đáy cũng không.

Các triệu phú cũng cho biết họ không phải là sinh viên hạng A ở trường đại học. Trên thực tế, chỉ có khoảng 3/10 người cho biết nhận được tỷ lệ điểm A lớn hơn B, C, D hay F. Khoảng 90% tốt nghiệp đại học. Nhìn chung, điểm trung bình GPA của họ là 2,9 – tốt nhưng không xuất sắc.

Hầu hết triệu phú đều nói rằng trải nghiệm ở trường phổ thông và đại học đã có ảnh hưởng nào đó đến họ trong việc trở nên thành đạt trong cuộc sống sau này (xem Bảng 3-1). Nhưng một số trải nghiệm quan trọng hơn các trải nghiệm khác, quan trọng hơn nhiều so với điểm số và nhãn mác. Với phần lớn, “xây dựng đạo đức làm việc cứng rắn” là một yếu tố ảnh hưởng. Gần như tất cả các triệu phú đều đánh giá trải nghiệm này ảnh hưởng đến việc họ trở nên giàu có.

Trieu phu My anh 2

Bảng 3-1.

Khi các triệu phú đánh giá vấn đề đạo đức làm việc, họ không chỉ đề cập đến khả năng học tập và sự chuyên cần. Nhiều người làm thêm khi đi học, và nhiều người cũng dành rất nhiều thời gian học cách đánh giá chính xác con người. Quá trình học tập này được nâng cao qua nhiều hoạt động và tương tác xã hội mà họ tham gia ở trong và ngoài khuôn viên trường học.

Một số người có thể coi việc giao tiếp xã hội như vậy là không hiệu quả trong môi trường học tập, nhưng nó dường như là yếu tố chính phân biệt người trở nên thành thạo và người không thể đánh giá người khác. Có tương quan tỷ lệ nghịch khá rõ giữa điểm cao ở trường đại học với khả năng đánh giá chính xác về con người mà các triệu phú tự nhận.

Vì vậy, có thể toàn bộ công việc khiến John trở nên buồn tẻ và cũng có gì đó liên quan tới việc John không thể hiểu chính xác người khác. Những người thành công nhất về kinh tế được thảo luận trong cuốn sách này làm tốt nhiều thứ. Những người khác có thể là thiên tài phân tích, nhưng họ thiếu kỹ năng con người, hay ngược lại. Nếu bạn muốn giàu có, tốt nhất bạn nên học hỏi nhiều kỹ năng và phẩm chất. Hãy làm việc chăm chỉ, hòa đồng, vui vẻ với mọi người.

Hãy xem xét những trải nghiệm ở trường phổ thông và đại học được liệt kê trong Bảng 3-1 mà nhiều triệu phú tin là nền tảng quan trọng tạo nên thành công của mình. Đó không chỉ là học một khóa học cụ thể trong trường phổ thông hay đại học, hay điểm số, xếp hạng và điểm SAT cao. Những ảnh hưởng thực sự lớn có “nhãn” chung như: đạo đức làm việc cứng rắn, phân bổ thời gian hay nguồn lực hiệu quả, khả năng phán đoán, sự bền bỉ và đồng cảm.

Nguồn: https://zingnews.vn/dieu-cac-trieu-phu-my-hoc-o-truong-post1361768.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng