Connect with us

Sách hay

Kinh tế học – Khái lược những tư tưởng lớn

Được phát hành

,

Mỗi người khi muốn đặt chân vào thị trường nhất định phải dành thời gian tìm hiểu, nắm được tiến trình phát triển, quy luật vận hành để có bước tiến phù hợp, phòng trừ rủi ro.

Kinh tế học – Khái lược những tư tưởng lớn là công trình của các học giả trên thế giới, đang làm việc hoặc giảng dạy ở một số trường đại học danh tiếng. Như cấu trúc của các quyển sách còn lại trong Bộ sách Khái lược những tư tưởng lớn (Big Idea Simply Explained)” do Đông A mua bản quyền và phát hành vào năm 2019, các tác giả đưa ra sơ đồ tóm lược và giới thiệu bối cảnh, cha đẻ học thuyết, người ảnh hưởng.

Sách gồm các phần chi tiết sau:

Phần 1: Bình minh của thương mại (400 TCN-1770) bắt đầu từ các quan niệm của Plato về nhà nước lý tưởng vào khoảng năm 380 TCN đến khi Quesnay đưa ra “biểu kinh tế” nằm trong hệ kinh tế vi mô. Các nhà Triết gia Hy Lạp đã góp phần vào định hình nền kinh tế vào giai đoạn sơ khai.

Các vấn đề đưa ra bàn luận xoay quanh quyền sở hữu tài sản hay tuần hoàn kinh tế cùng một số học thuyết nổi bật:

“Tài sản nên là tư hữu” từ góc nhìn Xã hội và nền kinh tế cho rằng ‘Không có khái niệm tư sản là không thể tư lợi – khi đó chẳng có lý do gì để gia nhập thị trường’. Các nước tư hữu rất coi trọng tài sản cá nhân. John Locke (1689) cho rằng “thứ mình tạo ra bằng sức lao động của bản thân đương nhiên là của mình”.

kinh te hoc anh 1

Bìa sách Kinh tế học – Khái lược những tư tưởng lớn.

Từ góc nhìn Kinh tế học vĩ mô, “Tiền gây ra lạm phát” chỉ ra rằng khối tài sản của quý tộc, vua chúa châu Âu không ngừng tăng lên vào thế kỷ 16. Lạm phát từ đó cũng được hình thành khi tiền tệ lưu thông không đổi, nhiều người không mua được nhiều hàng hóa trong khi tiền nhiều, làm cho giá cả sản phẩm leo thang. Jean Bodin (1530-1596) là người dành nhiều công sức để tìm hiểu quá trình chuyển đổi của tiền tệ. Vấn đề đặt ra: “Tại sao giá một cốc cà phê ở khu giàu lại cao hơn ở khu nghèo?”.

Các vấn đề cần được giải đáp: Thế nào là giá công bằng? Có tiền xu thì việc gì phải trao đổi hàng; Có thể đo lường nền kinh tế; Cá nhân chẳng phải trả tiền đèn đường… cùng với các câu hỏi khác.

Phần 2: Kỷ nguyên lý trí (1770-1820) mở ra cùng các quan niệm của Annee – Robert Jaceques Turgot gắn liền với việc miễn thuế cho thương mại và công nghiệp. Kết thúc kỷ nguyên lý trí là cuộc khủng hoảng tài chính do các bất ổn về văn hóa, chính trị, xã hội.

Góc nhìn Chính sách kinh tế đồng thời được quan tâm với suy nghĩ “Để thuế được công bằng và hiệu quả”, nhà nước cần làm những việc sau: “Phải đánh thuế chủ yếu vào những người có khả năng đóng thuế nhiều nhất/ Những người có điều kiện giống nhau phải chịu thuế như nhau/ Thuế phải đánh vào những người có khả năng được hưởng lợi từ thuế nhất…

Kỷ nguyên này còn xoay quanh nhiều vấn đề: Chia quy trình sản xuất đinh ghim thành nhiều công đoạn sẽ thu được nhiều đinh hơn; Mãi nghèo do gia tăng dân số; Có cung ắt có cầu…

Phần 3: Cách mạng công nghiệp và kinh tế (1820-1929) là bước ngoặt quan trọng của nền kinh tế thế giới với các quan niệm về kinh tế học như “hàm số và xác suất” của Antoine Cournot, “bong bóng kinh tế” của Charles Mackay, “kinh tế học tự do” của John Stuart Mill, “tuyên ngôn Đảng Cộng sản” của Karl Marx… Các học thuyết của Karl Marx chi phối tiến trình phát triển kinh tế từ đây về sau.

Léon Walras (1834 – 1910) nhìn từ góc nhìn Thị trường và doanh nghiệp thì “Hệ thống kinh tế gồm nhiều thị trường tự do thì ổn định cân bằng kinh tế” do thiếu hụt cung khi cầu quá nhiều: Thiếu hụt cung trong một khu vực kinh tế sẽ tạo ra dư cung ở nơi khác; Nơi nào bị thiếu hụt thì giá cả sẽ tăng; Nơi nào bị dư thừa giá cả sẽ giảm; Khi giá tăng, cầu sẽ giảm và cung sẽ tăng, loại bỏ sự thiếu hụt/ Khi giá giảm, cầu sẽ tăng và cung sẽ giảm, loại bỏ sự dư thừa; Về tổng thể, nền kinh tế có khuynh hướng cân bằng khi được tự do vận hành.

Các quan niệm: Sự điên cuồng của đám đông; Viên Chocolate cuối không ngon bằng viên đầu; Doanh nghiệp là bên chấp nhận giá chứ không phải bên định giá; Tiêu dùng để được chú ý… chỉ ra nhiều học thuyết ảnh hưởng đến quá trình đi lên của nền kinh tế.

Phần 4: Chiến tranh và suy thoái (1929-1945) mở ra một thời kỳ mới cho nền kinh tế thế giới. Bất ổn xã hội và chính trị đã làm cho nhiều nền kinh tế suy sụp, đồng thời tạo nên một thế hệ doanh nhân mới bắt kịp thời thế và xu hướng thị trường. Kinh tế học có thêm hướng tiếp cận mới.

Tiếp sau đó, từ góc nhìn thị trường và doanh nghiệp, các nhà kinh tế học đưa ra quan điểm về việc doanh nghiệp tìm cách bán sản phẩm cho mỗi người mỗi giá với cùng một sản phẩm, cụ thể như sau: doanh nghiệp muốn bán tối đa hóa lợi nhuận; họ thường giảm giá để thu hút người mua nhưng lại bỏ qua những người sẵn sàng chi một số tiền lớn để mua sản phẩm. Nổi bật với quan niệm này là nhà kinh tế học Jules Dupuit (Pháp), sau này có Joan Robinson (Anh), người được mệnh danh là nhà kinh tế học vĩ đại nhất thế kỷ 20.

Một số quan niệm nổi bật trong giai đoạn này có thể kể đến là: Thất nghiệp không phải là một lựa chọn; Kinh tế gắn liền với văn hóa; Chúng ta muốn duy trì một xã hội tự do…

Phần 5: Kinh tế học thời hậu chiến (1945-1970) là giai đoạn hồi phục kinh tế và bắt đầu xu hướng mới trên thị trường cùng các nhà kinh tế học nổi tiếng như Konrad Adenauer, Milton Friedman, Jonh Nash… và quá trình hợp tác phát triển kinh tế quốc tế. Kinh tế học giai đoạn này nằm trong tổng thể các lĩnh vực của đời sống để đánh giá an sinh quốc gia.

Từ góc nhìn Kinh tế học toàn cầu, các quốc gia hợp tác với nhau khi có nguy cơ suy thoái và chiến tranh. Bản vị vàng chi phối hệ thống quy đổi tiền tệ từ tiền giấy ra vàng bắt đầu được sử dụng ở Anh vào năm 1821, áp dụng trên thế giới vào năm 1871. Giai đoạn này gắn liền với Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) gây nhiều tranh cãi trên thế giới đến hiện nay.

“Người ta dàn trải chi tiêu cho cả đời” từ góc nhìn ra quyết định. Góc nhìn này gắn liền với nhà kinh tế học Franco Modigliani – “nhà kinh tế học vĩ mô vĩ đại nhất lúc sinh thời”. Phân tích cho thấy các hộ gia đình trích một phần thu nhập cho chi tiêu gia đình, sau đó tiết kiệm khi còn trẻ và sống an nhàn khi về nhà từ số tiền tiết kiệm đó.

Phần 6: Kinh tế học hiện đại (1970 đến hiện nay) là giai đoạn năng động của thị trường gắn liền với sự biến động của chính trị – xã hội. Những vấn đề được đưa ra bàn luận gắn liền lý thuyết hành vi. Đây cũng là giai đoạn Tâm lý học và Kinh tế học có vai trò mật thiết với nhau. Tâm lý học tập trung vào phân tích hành vi con người.

Những chủ đề bàn luận xoay quanh vấn đề sau: Có thể đầu tư mà không gặp rủi ro; Giá cả có nói lên tất cả; Kinh tế vẫn hỗn loạn kể cả khi cá nhân đang ổn định; Máy tính cũng tạo ra một cuộc cách mạng trong kinh tế cũng giống như động cơ hơi nước…

Không còn là nền kinh tế phục vụ các nước phương Tây, “Các nhà nước ở Đông Á dẫn dắt thị trường” trong một khoảng thời gian dài. Từ góc nhìn Tăng trưởng và phát triển, những ngành công nghiệp mới tập trung phát triển ở châu Á đồng thời nhận được sự ủng hộ phát triển kinh tế từ nhà nước, dần dà tạo nên bước phát triển mạnh mẽ trên thị trường.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Zing News

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Zing News mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://zingnews.vn/kinh-te-hoc-khai-luoc-nhung-tu-tuong-lon-post1443368.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng