Connect with us

Sách hay

Học thích nghi trong một thế giới bất định

Được phát hành

,

Với “Thích nghi toàn diện để khác biệt”, Keith Ferrazzi tác giả cuốn sách “Đừng bao giờ đi ăn một mình” hướng dẫn những người đứng đầu, chủ doanh nghiệp cách chiến thắng.

Với Thích nghi toàn diện để khác biệt, Keith Ferrazzi – tác giả của cuốn sách bán chạy Đừng bao giờ đi ăn một mình hướng dẫn những người đứng đầu, những chủ doanh nghiệp cách thích nghi toàn diện để chiến thắng trong một thế giới liên tục thay đổi.

Chương 1: Thích nghi toàn diện cho thấy việc gián đoạn trong ngành kinh doanh luôn xuất hiện vào lúc các nhà lãnh đạo không kịp điều chỉnh chiến lược cũng như cách thức vận hành không được đổi mới. Từ đó bằng những kinh nghiệm và đúc kết riêng, tác giả đưa ra mẫu hình nhất quán đại diện cho năng lực lãnh đạo và tổng hợp thành phương pháp lãnh đạo mới cho tương lai chứa nhiều bất ổn và luôn thay đổi.

Chương 2: Phối hợp bằng hòa nhập trình bày các xu hướng mới thời hậu đại dịch, như chào đón cơ hội từ sự đa dạng của cách làm việc nhóm trên không gian ảo, làm việc từ xa và làm việc kết hợp nhiều phương thức… từ đó thúc đẩy đột phá nhanh và xa hơn về phía trước.

Có 5 bước để bắt đầu sự chuyển dịch từ năng lực lãnh đạo truyền thống sang năng lực lãnh đạo đội ngũ cộng hưởng. Đầu tiên là thực hành đồng sáng tạo bằng phương pháp cộng hưởng. Theo đó các nhóm thành viên không dừng lại ở mức phối hợp mà phải tạo ra sự tương tác liên tục, cộng hưởng, không giới hạn. Các thành viên lệ thuộc vào nhau chịu trách nhiệm cho kết quả của nhau, hỗ trợ lẫn nhau khi có người cần được giúp đỡ, và cùng gánh trách nhiệm để cùng vượt qua vạch đích.

Tiếp theo là phải phá vỡ lô cốt cá nhân bằng cách thu nhận đa dạng thành viên. Người lãnh đạo và người đứng đầu theo đó phải quan tâm đến những thành viên trong nhóm dựa trên ba yếu tố trong lãnh đạo là phục vụ, quan tâm và chia sẻ. Từ đó tiếp tục kết hợp làm việc nhóm trực tuyến và ngoại tuyến vì mục đích hòa nhập và nguồn lực đám đông. Điều này sẽ cải thiện tăng trưởng cho hoạt động kinh doanh, tăng tính gắn kết và sự cân đối cho nguồn lực.

Tiếp theo là củng cố được mối quan hệ với đối tác bên ngoài. Bằng các công cụ trực tuyến hỗ trợ tốc độ và quy mô cho những mối quan hệ phối hợp, doanh nghiệp ngày nay có thể tiếp cận những nguồn thông tin mà từ trước đến nay họ chưa từng nghĩ đến việc khai thác. Từ đó mở rộng các nhà tham vấn cá nhân trực tuyến, tạo ra môi trường có sẵn để người sử dụng tìm kiếm tư vấn từ đồng nghiệp và đồng môn bên trong cũng như bên ngoài công ty, góp phần giảm xuống áp lực tâm lý và tăng thêm tính kết nối giữa các thành viên riêng lẻ.

Chương 3: Lãnh đạo bằng linh hoạt chuyên nghiệp cho thấy cách làm việc đặc trưng trong phương pháp linh hoạt trước khủng hoảng. Theo đó, các nhóm nhỏ có thể tự vận hành các mục tiêu đo lường cụ thể bằng cách gặp nhau thường xuyên để phối hợp vượt qua các rào cản.

Đây là cách làm khuyến khích các đột phá táo bạo, vì nó tạo áp lực cho tất cả thành viên trong nhóm liên tục đặt những câu hỏi: Chúng ta cần có thêm người nào trong nhóm? Làm thế nào chúng ta tạo thêm giá trị? Làm thế nào để dự án tốt hơn? Nó mở ra khả năng thích nghi toàn diện và hoàn toàn mới trong hoạch định và thực thi công việc xuyên suốt trong tổ chức, từ tuyến đầu đến ban lãnh đạo cấp cao.

Với phương pháp này, trong một thế giới kinh doanh ngày càng lệ thuộc vào công nghệ kỹ thuật số, thứ đầu tiên cần loại bỏ là các quy trình cũ, đi theo đường thẳng và đầy quan liêu. Thay vào đó, cách tối ưu là tiến hành các cuộc họp nhanh, với khung làm việc hai tuần một lần để phối hợp, phản hồi một cách có hiệu quả từ đó đem lại hiệu quả tốt nhất cho khách hàng, mở rộng quy mô để duy trì đột phá.

Để làm được điều này, nhà lãnh đạo cần phải lùi lại, rút khỏi các hoạt động kiểm soát tận tay cũng như tránh xa cách vận hành quản lý vi mô… từ đó dành nhiều thời gian hơn để xác định sứ mệnh chiến lược để tạo ra các động lực thúc đẩy cho nhóm. Sau đó gia cố cho công việc thông qua phản hồi trong nhóm, cũng như mở rộng quy mô để duy trì đột phá.

Chương 4: Thúc đẩy tính kiên cường tập thể. Trong thế giới việc làm mới, mặc dù người dẫn dắt đội ngũ phải quan tâm theo dõi tính kiên cường của nhóm, bản thân từng thành viên trong nhóm phải là người chịu trách nhiệm chính trong việc duy trì tính kiên cường tập thể. Toàn thể đội ngũ phải chấp nhận hỗ trợ lẫn nhau, thúc đẩy, lôi kéo nhau trong trường hợp có thành viên nào gặp khó khăn khi đối mặt với khủng hoảng.

Có 4 bước để hiện thực hóa điều này. Đó là chẩn đoán tính kiên cường tập thể bằng các chỉ báo đáng tin cậy như: kết quả, sự thẳng thắn, tài xoay sở, đồng cảm, khiêm nhường, kiên trì tích cực, biết ơn, hào sảng và cởi mở định kiến tích cực. Từ đó áp dụng cách làm hữu hiệu để xây dựng tính kiên cường tập thể. Một trong những biện pháp đó là theo dõi mức năng lượng của nhau. Nhà lãnh đạo cần đánh giá được thực trạng trong nhóm, từ đó xác định điểm yếu và phát triển chiến lược giúp cho các thành viên phá được rào cản và xây dựng niềm tin minh bạch và tự nhận thức.

Sau đó đồng thiết kế giải pháp để xử lý các yếu tố gây áp lực bằng cách kêu gọi các thành viên tìm kiếm ý tưởng để xử lý các yếu tố gây áp lực khác nhau, như mệt mỏi vì áp lực kết quả công việc, mệt mỏi vì giãn cách và thiếu gắn kết nhóm, thiếu các thói quen lành mạnh… Cuối cùng là hỗ trợ chăm lo sức khỏe tâm thần để duy trì bền vững tính tăng cường bằng các biện pháp hỗ trợ như thiền và tỉnh thức, tham vấn và trị liệu…

Chương 5: Chủ động phát triển tầm nhìn. Nhìn thấu tương lai là điều bất khả, nhưng nếu muốn được tồn tại, nhóm thúc đẩy toàn diện phải có khả năng hoạch định cho tương lai, ngay cả những điều chưa biết. Họ làm được vì đã phát triển năng lực nhìn thấu những dấu hiệu thay đổi từ sớm và nhanh chóng có phản ứng phù hợp.

Các cách làm hữu hiệu để nhìn thấy trước những kịch bản này có thể kể ra như phát hiện nguy cơ và cơ hội. Theo đó người lãnh đạo phải đặt ra những giả định cho hoạt động kinh doanh và môi trường kinh doanh trong thời gian tới. Phải nhận thức rằng phát hiện là “môn thể thao tập thể”, với việc sử dụng phương pháp phân tích STEEP gồm xã hội học (S), công nghệ (T), kinh tế (E), môi trường (E) và chính trị (P) để đưa ra những phán đoán của mình.

Sau đó đánh giá và xếp hạng ưu tiên các chỉ báo bằng cách thành lập ma trận đánh giá dựa trên khả năng xuất hiện và tác động của nó đối với hoạt động kinh doanh. Tiếp theo là phải phản ứng và hoạch định kịch bản phù hợp. Bởi kịch bản là những câu chuyện hợp lý để tạo ra hành động chủ động.

Cuối cùng là nuôi dưỡng văn hóa không ngừng học tập để thông qua các bài tập về phát hiện, đánh giá và hoạch định kịch bản, doanh nghiệp có thể gia tăng khả năng thích nghi toàn diện cho một đội ngũ. Tất cả những cách làm này là cần thiết để cạnh tranh trong cấu trúc tổ chức việc làm mới chứa đầy những bất ổn và đầy biến số.

Chương 6: Củng cố mô hình kinh doanh cho tương lai. Khi là một nhà lãnh đạo thích nghi toàn diện, chúng ta cần phải luôn tự hỏi rằng: chúng ta đang thực sự hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh nào? và Tại sao là nó? Để giải đáp được câu hỏi này, 4 bước tiến đến tương lai đã được đưa ra. Bao gồm lùi lại để hình dung về ngành kinh doanh trong 10 năm tới, từ đó xác định công nghệ có tiềm năng tăng theo cấp số nhân. Chỉ cần vài bước nhảy vọt là công nghệ bỗng đột nhiên trở nên phổ biến và gây ra gián đoạn, do đó đây là hành động vô cùng cần thiết.

Từ đó tiến tới bằng cách thử nghiệm nhanh chóng theo phương pháp linh hoạt. Để tăng cường khả năng soi chiếu tương lai và tận dụng công nghệ mang lại cơ hội nắm bắt làn sóng tăng trưởng theo cấp số nhân, thì ta cần phải tìm ra dự án thử nghiệm có tác động tương ứng. Cuối cùng là phải kiến tạo cộng đồng khách hàng say mê. Điều quan trọng là phải nuôi dưỡng cộng đồng để hỗ trợ công nghệ, chống lại những kẻ sao chép và giúp cho mô hình kinh doanh luôn kiên cường đứng vững theo thời gian và vượt qua những giai đoạn bất ổn.

Chương 7: Xây dựng đội ngũ lao động như những khối Lego. Việc tái cấu trúc dòng chảy công việc của các thành viên trong đội ngũ theo hướng việc cần phải làm chính là chìa khóa để tái thiết lập một đội ngũ nhân sự hiệu quả, linh hoạt và tăng cường. Bằng việc xây dựng đội ngũ, quyết định điểm trọng tâm, chia nhỏ và hình dung lại công việc bằng các câu hỏi như Cái này là cái gì? Cái nào thì hiệu quả?… Từ đó những khối Lego sẽ đúng vị trí và phát huy tốt nhất.

Để lắp ghép đúng nhiều mẫu Lego, doanh nghiệp sẽ phải tìm ra “nút vặn quyết định”. Đó là lựa chọn “nút một tăng cường” – con người hay thuật toán, “nút hai tuyển dụng” – truyền thống hay thời vụ, và “nút ba hệ sinh thái” – nội bộ hay bên ngoài. Từ đó các nút tiếp theo cũng sẽ đưa ra, như “cách làm việc” – trực tiếp hay từ xa, “địa điểm” – trong nước hay ngoài nước, và “môi trường làm việc” – mở hay đóng. Từ đó triển khai quá trình chuyển đổi theo những hướng đã vạch ra.

Chương 8: Nhấn mạnh mục đích. Xuất phát từ chính mong muốn huy động toàn lực từ các bên liên quan cả trong và ngoài tổ chức, nên các mục đích cần phải được thấm nhuần và thúc đẩy như một phong trào của quần chúng trong công ty đó. Các bước hữu hiệu trong quá trình này bao gồm thúc đẩy tinh thần làm chủ mục đích, khi các nhà lãnh đạo phải tìm ra cách để làm thế nào để đào tạo được cho nhân viên ở cấp thấp nhất tiếp cận cùng với khách hàng và chuyển đi được thông điệp này.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Zing News

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Zing News mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://zingnews.vn/hoc-thich-nghi-trong-mot-the-gioi-bat-dinh-post1445789.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng