Connect with us

Sách hay

Hiểu về Hiệp định Paris qua những cuốn sách

Được phát hành

,

Các cuốn sách là nguồn tư liệu phong phú và quý giá về một trong những cuộc đấu tranh ngoại giao cam go, lâu dài nhất trong lịch sử của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam.

Hiep dinh Paris anh 1

Quang cảnh lễ ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973, tại Trung tâm Hội nghị quốc tế ở thủ đô Paris (Pháp). Ảnh tư liệu: Văn Lượng/TTXVN.

Ngày 27/1/1973 tại Paris, “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”, gọi tắt là Hiệp định Paris về Việt Nam, đã được ký kết. Hiệp định đã buộc Mỹ phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân đội Mỹ và các quân đội liên quan khỏi miền Nam Việt Nam.

Việc Mỹ phải ký Hiệp định Paris là một thắng lợi to lớn, tạo ra cục diện có lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Kỷ niệm 50 năm ngày ký kết hiệp định, nhiều tác phẩm đã được xuất bản hoặc tái bản để độc giả có cái nhìn sâu sắc hơn về một trong những cuộc đấu tranh ngoại giao cam go nhất, lâu dài nhất trong lịch sử của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam.

Cuộc đàm phán Pari về Việt Nam (1968-1973)

Hiep dinh Paris anh 2

“Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, hoạt động ngoại giao của ta phong phú, đa dạng. Nhà nước ta đã cử đại biểu dự nhiều hội nghị quốc tế. Hình như chưa một hội nghị nào kể trên được thuật lại từ đầu chí cuối và in thành sách. Những người quan tâm đến hoạt động đối ngoại cho đó là một thiệt thòi lớn”, tác giả Nguyễn Thành Lê, viết trong Lời nói đầu của tác phẩm Cuộc đàm phán Pari về Việt Nam (1968-1973).

Tác giả Nguyễn Thành Lê là người đã có vinh dự là nhân chứng lịch sử, thành viên kiêm phát ngôn báo chí của Đoàn đàm phán đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris. Cuốn sách giúp người đọc hiểu rõ hơn về các sự kiện, diễn biến xoay quanh cuộc đàm phán Paris về Việt Nam.

Nội dung cuốn sách gồm 2 phần. Phần 1 trình bày bối cảnh và cuộc đàm phán chính thức đòi Mỹ chấm dứt ném bom và các hành động chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (từ ngày 10/5/1968 đến ngày 31/10/1968). Phần 2 nói về hội nghị bốn bên và Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (từ ngày 18/1/1969 đến ngày 27/1/1973). Trong lần tái bản kỷ niệm 50 năm ký kết hiệp định, tác phẩm được bổ sung thêm hai bài của tác giả viết về cuộc đàm phán Paris, đăng trên báo Nhân dân.

Hiệp định Paris 1973 – Bước ngoặt tiến tới hòa bình

Hiep dinh Paris anh 3

Cũng trong dịp kỷ niệm 50 năm Ngày ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam phối hợp với Bộ Ngoại giao xuất bản cuốn sách ảnh Hiệp định Paris 1973 – Bước ngoặt tiến tới hòa bình nhằm ôn lại một sự kiện quan trọng trong lịch sử ngoại giao Việt Nam.

Được biên soạn và xuất bản vào những ngày đầu tiên của năm mới 2023, Hiệp định Paris 1973 – Bước ngoặt tiến tới hòa bình kể lại bằng hình ảnh cuộc đàm phán và ký kết Hiệp định Paris năm 1973.

Cuốn sách có bài viết của nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, 1 trong 4 trưởng đoàn đã tham dự đàm phán và đặt bút ký bản Hiệp định lịch sử. Với những tư liệu lịch sử quý, sách dày 196 trang in trên giấy chất lượng cao, được trình bày song ngữ Việt – Anh. Tác phẩm nhằm giúp độc giả Việt Nam và cả độc giả trên thế giới hiểu thêm về bối cảnh cũng như những cảm xúc của người trong cuộc về cuộc đấu trí đầy cam go, cân não trong quá trình đàm phán với đoàn Chính phủ Mỹ.

Hội nghị Pari – Cánh cửa đến hòa bình

Hiep dinh Paris anh 4

Được ra mắt vào dịp kỷ niệm 45 năm ký Hiệp định Paris, cuốn sách Hội nghị Pari – Cánh cửa đến hòa bình là một tập hợp từ những tài liệu được lưu trữ của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và các cơ quan trung ương thuộc chính quyền Sài Gòn trước năm 1975.

Cuốn sách được biên soạn theo trình tự thời gian, được chia thành ba phần kéo dài từ sau Hiệp định Geneve năm 1954 đến kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất diễn ra vào tháng 7/1976, tương ứng với ba giai đoạn: Đường đến Hội nghị Paris, Hội nghị Paris – cánh cửa đến hòa bình và Từ Hội nghị Paris đến Đại thắng mùa xuân năm 1975.

Ngoài ra, tác phẩm còn bao gồm nhiều hình ảnh gốc chụp lại các tài liệu về Hội nghị Paris của các bên tham gia – những thông tin ghi dấu một chương vẻ vang trong lịch sử cách mạng Việt Nam.

Tiếp xúc bí mật Việt Nam – Hoa Kỳ trước Hội nghị Pari

Hiep dinh Paris anh 5

Tác phẩm Tiếp xúc bí mật Việt Nam – Hoa Kỳ trước Hội nghị Paris do các tác giả Lưu Văn Lợi (Nguyên trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao) và Nguyễn Anh Vũ (Nguyên Đại sứ tại Italy) biên soạn, được xuất bản nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày Hiệp định Paris được ký kết.

Cả hai tác giả đều là những cán bộ ngoại giao lâu năm, từng tham gia theo dõi, nghiên cứu các chủ trương và hoạt động đối ngoại của Mỹ đối với Việt Nam trong thời gian nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước. Đồng chủ biên Lưu Văn Lợi còn là một chuyên viên trong đoàn đàm phán của Lê Đức Thọ và Xuân Thủy với đoàn của Mỹ do Henry Kissinger dẫn đầu tại Paris.

Tác phẩm giới thiệu những cuộc vận động ngoại giao của Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson, nêu lên những sự kiện chính liên quan tới những cái được gọi là “sáng kiến hòa bình” của Johnson trong những năm 1964-1967, trước Hội nghị Paris.

Bên cạnh đó, cuốn sách chứa đựng nhiều tư liệu phong phú và quý giá, lần đầu tiên được công bố về các cuộc tiếp xúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cùng nhiều cán bộ ngoại giao nước ta với các chính khách và nhà ngoại giao nhiều nước khác nhau.

Hiệp định Pari – 40 năm nhìn lại

Hiep dinh Paris anh 6

Cuốn sách Hiệp định Pari – 40 năm nhìn lại được xuất bản trên cơ sở chọn lọc những tham luận của các nhà khoa học trong và ngoài nước tại Hội thảo khoa học cùng tên do Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức.

Các tác giả đã đi sâu phân tích bối cảnh lịch sử, diễn biến của quá trình đàm phán, vai trò và những tác động của cuộc hội đàm hòa bình đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta cũng như đối với dư luận tiến bộ trên thế giới.

Xuyên suốt nội dung cuốn sách là sự khẳng định: thắng lợi của Hiệp định Paris là thắng lợi của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, là cuộc đấu trí thể hiện bản lĩnh kiên cường, thông minh, sáng tạo của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam.

Nguồn: https://zingnews.vn/hieu-ve-hiep-dinh-paris-qua-nhung-cuon-sach-post1396444.html

Sách hay

Chuyện gì thực sự đã xảy ra tại thảm kịch Everest 1996?

Được phát hành

,

Bởi

Gần 30 năm trôi qua, vẫn còn nhiều tranh cãi xoay quanh nguyên nhân dẫn đến thảm kịch Everest khiến 8 nhà leo núi bỏ mạng hồi tháng 5/1996.

tham kich everest anh 1

Cảnh từ bộ phim Everest (2015). Ảnh: Trail to peak.

Tháng 5/1996, 43 nhà leo núi đi thành nhiều đoàn thám hiểm, bao gồm hai đoàn thương mại lớn do Rob Hall (Adventure Consultants) và Scott Fischer (Mountain Madness) dẫn đầu, đang trên đường chinh phục Everest.

Ngày 10/5, thời tiết ban đầu có vẻ thuận lợi, nhưng một số yếu tố như lịch trình chậm trễ, sai lầm trong quản lý thời gian đã dẫn đến tình trạng tắc nghẽn trên tuyến đường lên đỉnh, nhiều nhà leo núi mắc kẹt ở độ cao nguy hiểm.

Về chiều, cơn bão tuyết dữ dội bất ngờ ập đến khiến tầm nhìn giảm mạnh và nhiệt độ hạ xuống cực thấp. Nhiều nhà leo núi bị lạc hoặc kiệt sức trong nỗ lực quay trở về trại. Rob Hall và Scott Fischer đều thiệt mạng trên núi. Kết cục, số người thiệt mạng lên đến tám.

tham kich everest anh 2

“Thánh kinh” của giới leo núi Into thin air.

Thảm kịch đã dấy lên tranh cãi về ngành leo núi thương mại trên Everest. Nhiều quy định an toàn đã được siết chặt sau sự kiện này.

Vụ việc cũng trở thành đề tài cho nhiều tác phẩm như các sách Into Thin Air (1997; tạm dịch: Vào thinh không; cùng năm được dựng phim truyền hình) của Jon Krakauer – một nhà báo tham gia chuyến thám hiểm, The Climb (tạm dịch: Chuyến leo núi) của Anatoli Boukreev – hướng dẫn viên sống sót trong vụ tai nạn và phim điện ảnh Everest (2015) tái hiện lại sự kiện này một cách chân thực.

Trong số đó, Into Thin Air là nổi tiếng hơn cả, được xem như “thánh kinh” của giới leo núi. Hướng dẫn viên Anatoli Boukreev viết The Climb để phản bác Into Thin Air mà ông cho là đã miêu tả bất công về ông.

Theo Slate, gần đây, luật sư Michael Tracy phát động chiến dịch YouTube công kích Krakauer, cho rằng ông đã bóp méo sự thật. Tracy cáo buộc Krakauer đổ lỗi cho những người leo nghiệp dư như Sandy Hill Pittman thay vì các hướng dẫn viên thiếu trách nhiệm. Tuy nhiên, Krakauer đã phản bác mạnh mẽ, thừa nhận một số sai sót nhỏ nhưng khẳng định phần lớn nội dung Into Thin Air vẫn chính xác.

Theo Tracy, vì cuốn sách của Krakauer mà Pittman chịu chỉ trích lớn từ cộng đồng, những hành động đầy tính kỳ thị phụ nữ. Tuy nhiên, tờ Slate cho rằng ác cảm với nhân vật này đến từ những nguồn khác, đặc biệt là một số tờ báo như Vanity Fair.

Ngoài ra, một số cáo buộc nặng nề nhất của Tracy, như việc Krakauer bỏ mặc Yasuko Namba sắp chết, đã bị cộng đồng kịch liệt phản đối, buộc ông phải gỡ bỏ video.

Đến nay, gần 30 năm trôi qua nhưng cuộc tranh cãi về nguyên nhân thảm kịch vẫn kéo dài. Nhiều chi tiết quan trọng không thể xác minh, vì những người chứng kiến đã bỏ mạng trên núi.

Con người luôn muốn tìm một thủ phạm rõ ràng để giải thích những bi kịch phức tạp, nhưng như Krakauer nhấn mạnh, thảm kịch trên là hậu quả của nhiều yếu tố đan xen: tắc trách, tham vọng, thời tiết khắc nghiệt, thể chất suy yếu và số phận xui rủi.

Nguồn: https://znews.vn/chuyen-gi-thuc-su-da-xay-ra-tai-tham-kich-everest-1996-post1532757.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Nghệ thuật binh pháp kinh điển của người Nhật Bản

Được phát hành

,

Bởi

“Binh pháp gia truyền thư” là cuốn sách kinh điển về nghệ thuật chiến đấu của người Nhật Bản do Yagyū Munenori viết từ thế kỷ 17.

Cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, trong đó có tiếng Anh, tiếng Trung…. Bản dịch tiếng Việt (Nguyễn Mạnh Sơn dịch) Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM vừa mới phát hành dịch theo bản Binh pháp gia truyền thư được in trong tập thứ hai của bộ Hiyaki Daimyo Bunko, do Fukui Kyūzo biên tập, Koseikaku xuất bản, Tokyo, 1937.

Binh phap gia truyen thu anh 1
Sách Binh pháp gia truyền thư bản tiếng Việt. Ảnh: QM.

“Kiếm giết người” và “Kiếm cứu người”

Yagyū Munenori (1571-1646) sinh ra trong một gia đình có truyền thống quân sự. Gia tộc Yagyū vốn được nhiều người gọi là gia tộc tình báo. Cha ông là Yagyū Muneyoshi, là một trong những kiếm sĩ nổi tiếng thời ấy. Sau này Munenori trở thành người sáng lập phái Shinkage. Ông là thầy dạy binh pháp, quân sự cho tướng quân Tokugawa Iemitsu. Sau đó ông trở thành daimyo, và lãnh chúa đầu tiên của vùng Yamoto Yagyu. Ông qua đời vì bệnh tật tại Azabu, Edo.

Yagyū Muneyoshi được đánh giá là kiếm sĩ xuất sắc nhất trong số các kiếm sĩ thời đó. Ông có rất nhiều đệ tử đảm nhiệm nhiều chức trách khác nhau, từ tướng quân cho đến các daimyo. Munenori coi kiếm cứu người là lý tưởng của binh pháp, ngay từ đầu không sử dụng vũ lực thì tốt hơn, nhưng nếu phải sử dụng vũ khí để loại bỏ một người mà cứu được cho cả vạn người thì cũng đáng.

Binh pháp gia truyền thư có dung lượng khoảng 100 trang, gồm 4 quyển: Cầu dâng giày (cây cầu để dẫn các môn đệ đến với đạo binh pháp); Sát nhân đao (Hiểu trực nghĩa là đao / kiếm dùng để sát nhân); Hoạt nhân kiếm (Kiếm cứu người); Vô đao (Không dùng đến dao kiếm).

Nói về việc đặt tên các quyển này, Yagyū Munenori viết: “Ta đặt tên cho quyển thượng và quyển hạ là “Kiếm giết người” và “Kiếm cứu người” với ý nghĩa rằng, thanh kiếm các kiếm thủ có thể giết người nhưng cũng có thể mang lại sự sống cho con người. Ở trong thời thế loạn lạc này, nhiều người bị giết một cách vô cớ. Có thể dùng “kiếm giết người để kiểm soát thời loạn lạc, còn vào thời thịnh trị, lẽ nào “kiếm giết người” không trở thành “kiếm cứu người được sao?”.

Binh pháp gia truyền thư không chỉ bàn về kỹ thuật chiến đấu tay đôi giữa kiếm sĩ mà còn đề cập nhiều khía cạnh khác trong khi tác chiến như chiến thuật, chiến lược, tâm lý, và đạo đức.

Thậm chí, người đời nay còn học được từ đó nhiều bài học hữu ích, đó là sự tập trung và kiên trì trong rèn luyện; là việc tìm hiểu và ứng biến trước mọi biến cố đối thủ có thể đưa đến; là đạo đức và tinh thần của chiến binh thực thụ; là năng lực kiểm soát cảm xúc và tâm lý trong quá trình tham chiến; là kỹ năng giải quyết vấn đề khi gặp trường hợp bất trắc; và hơn hết là hiểu và tôn trọng chính mình lẫn đối thủ.

Binh phap gia truyen thu anh 2
Tượng Yagyū Munenori (1571-1646). Nguồn: tokumeikan.

Kiếm thuật còn là nghệ thuật quản trị hòa bình

Theo dịch giả Nguyễn Mạnh Sơn, cùng Ngũ luân thư của Miyamoto Musashi, Binh pháp gia truyền thư của Yagyū Munenori là trước tác binh pháp kinh điển của người Nhật Bản. Trước tác này có ảnh hưởng sâu rộng, không chỉ trong lĩnh vực binh pháp, kiếm thuật mà còn đến nhiều lĩnh vực và trước tác khác ở đời sau, điển hình là Võ sĩ đạo của Inazo Nitobe.

Trước khi hai binh thư nổi tiếng này ra đời, Yagyū Munenori, là một kiếm sĩ, cũng thường được mọi người so sánh với Miyamoto Musashi, bởi hai người sống cùng thời. Thế nhưng dường như quan điểm về kiếm thuật của họ lại hoàn toàn khác nhau.

Thanh kiếm của Musashi thể hiện triết lý của một chiến binh thực thụ với kỹ năng thần diệu trong việc chém đối thủ. Trong khi đó, Munenori lại khao khát tạo ra kiếm pháp có thể lợi dụng con người để thống trị thế giới, có khả năng trấn áp đối thủ ngay cả khi bản thân không có vũ khí. Bởi ông hiểu rằng mục đích luyện kiếm của một vị tướng không phải để trở thành kiếm sĩ mạnh nhất thế giới mà để có được kiến thức và kỹ năng cai trị đất nước.

Trong lịch sử Nhật Bản, Yagyū Munenori là nhân vật hiếm hoi xuất thân tầm thường rồi lên đến daimyo, sau đó trở thành binh pháp gia và chính trị gia nổi danh. Ông luôn tâm niệm rằng, kiếm thuật không chỉ là kiếm thuật mà còn là nghệ thuật quản trị hòa bình, môn khoa học thống trị thế giới, cai trị xã hội samurai hòa bình mà không cần chiến đấu. Có lẽ đây là điểm khác biệt lớn nhất giữa phái Shinkage với các trường phái khác sử dụng kiếm giết người để giành chiến thắng.

Bên cạnh nội dung chính 4 quyển, để bản dịch tiếng Việt cuốn sách thêm phần trực quan và sinh động, dịch giả còn bổ sung phần mục lục tranh hướng dẫn các thế kiếm của phái Shingake và phụ lục phần dịch trước tác của Takuan Soho, một thiền tăng, mang tên “Bất động trí thần diệu lục”.

Đây là bài giảng của thiền sư Takuan dành cho Munenori về tư tưởng kiếm và thiền là một. Trong bài giảng này Takuan chỉ dẫn cách thức để Munenori có thể phát huy toàn bộ kiếm thuật của bản thân khi phải đối mặt với nhiều đối thủ và khi lãnh đạo nhiều thuộc cấp trong vai trò một chính trị gia.

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-binh-phap-kinh-dien-cua-nguoi-nhat-ban-post1532001.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Phần tiếp theo – con dao hai lưỡi

Được phát hành

,

Bởi

Một số tiểu thuyết nổi tiếng đã được tác giả viết phần tiếp theo sau nhiều năm. Nhiều tác phẩm tiếp tục được đón nhận nhưng có cuốn bị phản đối gay gắt vì không đạt được kỳ vọng.

Tranh minh họa “Chuyện người tùy nữ”. Nguồn: massolit.

Những phần tiếp theo của tác phẩm văn học được phát hành sau nhiều thập kỷ so với phần trước thường tạo ra sự phấn khích, hoài niệm nhưng cũng kèm theo cả sự hoài nghi. Những phần tiếp theo được mong đợi từ lâu này hứa hẹn sẽ tái hiện lại các nhân vật được yêu thích, mở rộng thế giới được trân trọng và trả lời câu hỏi còn bỏ ngỏ.

Tuy nhiên, ngược lại thì câu chuyện tiếp diễn cũng có nguy cơ không đáp ứng được kỳ vọng, làm hoen ố “di sản” để lại của tác phẩm gốc. Vậy, liệu có hiệu quả khi các tác giả tái hiện lại những sáng tạo của họ sau nhiều thập kỷ?

Yếu tố hoài niệm

Một trong những lý do lớn nhất khiến các tác giả quay lại với một câu chuyện được yêu thích là tình cảm bền bỉ mà độc giả dành cho nó. Hoài niệm có thể là sức hút mạnh mẽ, khơi dậy sự quan tâm đến cuốn sách gốc và thế giới của nó. Những phần tiếp theo như Go Set a Watchman (Hãy đi đặt người canh gác) của Harper Lee, được phát hành 55 năm sau To Kill a Mockingbird (Giết con chim nhại), đã khai thác nỗi nhớ này.

Tuy nhiên, mối liên hệ cảm xúc này có thể là con dao hai lưỡi. Người hâm mộ thường mang đến kỳ vọng rất cao, hy vọng phần tiếp theo sẽ mang lại chiều sâu cảm xúc giống bản gốc. Vì vậy, khi tác phẩm không làm được như vậy, độc giả chắc chắn có phản ứng dữ dội và gay gắt.

Bên cạnh đó, các tác giả thường phát triển và thay đổi theo năm tháng, và tác phẩm của họ phản ánh sự tiến hóa này. Khi Margaret Atwood viết The Testaments (tạm dịch: Di chúc) nhiều thập kỷ sau The Handmaid’s Tale (Chuyện người tùy nữ), phần tiếp theo của bà đã thể hiện một tông điệu đương đại hơn, đề cập đến các vấn đề hiện đại về giới tính và quyền lực.

Đối với nhiều người, sự tiến hóa này là bản cập nhật đáng hoan nghênh, chứng minh rằng phần tiếp theo có thể tạo được tiếng vang với khán giả mới trong khi vẫn tôn vinh tác phẩm gốc.

Tuy nhiên, điều này cũng khiến tác phẩm có nguy cơ mất kết nối. Người đọc có thể thấy phong cách hoặc góc nhìn mới của tác giả xung đột với giọng điệu của tác phẩm gốc, khiến họ cảm thấy xa lạ.

Tieu thuyet phan tiep theo anh 1
The Testaments của Margaret Atwood được đón nhận sau thành công nhiều thập kỷ của The Handmaid’s Tale. Ảnh: Thebookerprize.

Nguy cơ của việc viết lại

Phần tiếp theo được viết sau nhiều thập kỷ thường liên quan đến việc diễn giải lại hoặc mở rộng câu chuyện gốc. Điều này đôi khi có thể dẫn đến việc viết lại, trong đó các chi tiết mới mâu thuẫn hoặc diễn giải lại các sự kiện trong quá khứ.

Ví dụ, Go Set a Watchman gây tranh cãi khi mô tả Atticus Finch theo hướng ít anh hùng hơn, thay đổi cách độc giả cảm nhận nhân vật mang tính biểu tượng này.

Trong khi thay đổi tình tiết gốc có thể làm tăng thêm sự phức tạp cho một câu chuyện, nhưng cũng khiến người hâm mộ cảm thấy bị phản bội bởi những thay đổi đối với các nhân vật hoặc thế giới mà họ yêu thích. Việc cân bằng những ý tưởng mới với các quy tắc đã được thiết lập là một nghệ thuật tinh tế có thể tạo nên hoặc phá vỡ phần tiếp theo.

Kỳ vọng hiện đại so với ý định ban đầu

Khi phần tiếp theo được phát hành sau nhiều thập kỷ, tác giả chắc chắn phải đối mặt với những nhạy cảm và bối cảnh văn hóa hiện đại. Những gì hiệu quả trong quá khứ có thể không còn được độc giả đương đại đồng tình nữa.

Trong một số trường hợp, các tác giả giải quyết vấn đề này trực tiếp, kết hợp chủ đề hiện đại vào tác phẩm của họ, như Atwood đã làm với The Testaments. Tuy nhiên, điều này cũng có thể dẫn đến căng thẳng. Người hâm mộ bản gốc sẽ cảm thấy phần tiếp theo đi quá xa so với ý định ban đầu của câu chuyện, trong khi độc giả mới có thể không đánh giá đầy đủ bối cảnh của cuốn sách đầu tiên.

Tieu thuyet phan tiep theo anh 2
Harper Lee đã không thành công khi viết Go Set A Watchman, phần tiếp theo của To Kill A Mockingbird, khi miêu tả nhân vật chính khác lạ. Ảnh: Bookbed.

Thành công và sai lầm

Một số phần tiếp theo được mong đợi từ lâu đã được chào đón nồng nhiệt. The Silmarillion của J.R.R Tolkien, được xuất bản sau khi ông mất nhiều thập kỷ với The Lord of the Rings, đã mở rộng thế giới thần thoại theo cách làm sâu sắc thêm sự trân trọng của người hâm mộ đối với lịch sử Trung Địa. Tương tự, The Testaments của Atwood đã nhận được sự hoan nghênh của giới phê bình, giành giải Booker danh giá.

Mặt khác, một số phần tiếp theo đã gặp phải những phản ứng trái chiều. Go Set a Watchman, mặc dù ban đầu được ca ngợi khi ra mắt, lại gây ra tranh cãi vì miêu tả Atticus Finch khác lạ. Doctor Sleep của Stephen King, phần tiếp theo của The Shining (Thị kiến), đã nhận được lời khen ngợi nhưng cũng phải đối mặt với sự chỉ trích vì đi chệch hướng về tông điệu so với phần trước.

Vậy nó có hiệu quả không?

Khi được thực hiện tốt, phần tiếp theo được phát hành sau nhiều thập kỷ có thể làm phong phú thêm câu chuyện gốc, cung cấp góc nhìn mới mẻ và giới thiệu lại các nhân vật được yêu thích cho thế hệ mới. Chúng có thể khơi dậy tình yêu dành cho bản gốc và mở rộng di sản của nó.

Tuy nhiên, rủi ro cũng đáng kể không kém. Những phần tiếp theo không tôn trọng tông điệu, chủ đề hoặc nhân vật của bản gốc có thể khiến độc giả xa lánh và làm hoen ố danh tiếng của câu chuyện.

Cuối cùng, liệu phần tiếp theo của tác phẩm ra mắt sau nhiều thập kỷ có thành công hay không phụ thuộc vào khả năng cân bằng giữa sự hoài niệm với đổi mới, tôn vinh tác phẩm gốc trong khi mang đến điều gì đó mới mẻ của tác giả.

Nguồn: https://znews.vn/phan-tiep-theo-con-dao-hai-luoi-post1531192.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng