Connect with us

Sách hay

Giải nhì Văn học tuổi 20 lần thứ bảy: Lặn vào thế giới ngôn ngữ và ký ức

Được phát hành

,

Giải Văn học tuổi 20 lần thứ bảy vừa khép lại với hai tác phẩm cùng đoạt giải nhì (không có giải nhất) trao cho tập truyện ngắn Nửa lời chưa nói của Duy Ân và truyện dài Vụn ký ức của Yang Phan.

Giải nhì Văn học tuổi 20 lần thứ bảy: Lặn vào thế giới ngôn ngữ và ký ức - Ảnh 1.

Duy Ân: Viết về ngôn ngữ cũng là viết về con người

Duy Ân hiện đang theo học tiến sĩ tại Đại học Johns Hopkins, Mỹ. Chọn Văn học tuổi 20 như điểm xuất phát, Nửa lời chưa nói là tập truyện ngắn đầu tay của cô gái sinh năm 1995 sau vài tác phẩm đăng báo.

Chuyên ngành học của Duy Ân nghiên cứu tập trung về mối liên hệ giữa ngôn ngữ và ý thức. Những truyện ngắn trong Nửa lời chưa nói phần nào thể hiện được sự quan tâm của chị với chủ đề này.

Giải nhì Văn học tuổi 20 lần thứ bảy: Lặn vào thế giới ngôn ngữ và ký ức - Ảnh 2.

Tác giả Duy Ân – Ảnh: NVCC

“Ý tưởng ban đầu của tôi đơn giản là muốn viết những mẩu kiến thức thú vị trong nghiên cứu thành truyện ngắn để mọi người hiểu hơn về ngành học của mình, vì đây là một ngành mới và chưa phổ biến lắm. Nhưng viết được một thời gian, tôi thấy rằng viết về ngôn ngữ cũng chính là viết về con người, vì đây là cách chúng ta bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc.

Vì thế một số truyện trong Nửa lời chưa nói tập trung về chủ đề ngôn ngữ, một số truyện lại thử khai thác những khía cạnh như mối quan hệ giữa người với người, mối quan hệ giữa người và xã hội” – tác giả chia sẻ.

Khi được hỏi có bao giờ nghĩ đến việc sáng tác văn học bằng một ngôn ngữ khác ngoài tiếng Việt, Duy Ân cho biết chị có viết truyện bằng tiếng Anh, tuy không nhiều.

Có những câu chuyện khi vừa có những ý tưởng đầu tiên tác giả đã biết nó sẽ được viết bằng tiếng Anh, nhưng có những câu chuyện chỉ có thể viết bằng tiếng Việt.

Duy Ân lý giải: “Điều này một phần là do những đặc trưng trong ngôn ngữ, ví dụ như hệ thống đại từ nhân xưng trong tiếng Việt. Một phần khác, sự thay đổi từ một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác không đơn giản là sự thay đổi của những con chữ, ngữ pháp, cách phát âm; mà còn là sự thay đổi của văn hóa và thân phận.

Có khá nhiều nghiên cứu tâm lý – ngôn ngữ học chỉ ra rằng cách chúng ta nhìn nhận cuộc sống, bày tỏ cảm xúc, thậm chí chuẩn mực đạo đức của chúng ta sẽ thay đổi phụ thuộc vào việc chúng ta đang dùng ngôn ngữ mẹ đẻ hay ngôn ngữ thứ hai.

Với cá nhân tôi, việc chuyển sang một ngôn ngữ khác nhiều lúc như là một tấm màng lọc cảm xúc – ví dụ như khi mình muốn viết những câu chuyện mang sắc thái “tỉnh” và nghiêng về lý trí hơn thì mình sẽ viết bằng tiếng Anh”.

Duy Ân vẫn đang viết văn dù viết khá chậm và hiện tại đang thử viết truyện dài. Theo chị, việc đọc và viết phải đi liền với nhau, nhưng vì ở nước ngoài nên chị ít có cơ hội đọc được những tác phẩm “nội địa” hay gần đây.

“Một người ít đọc thì khó mà viết hay được. Hy vọng trong tương lai tôi sẽ có thể tiếp xúc với văn học Việt Nam đương đại cách dễ dàng hơn” – Duy Ân bày tỏ chân thành.

Yang Phan: Tôi thấy mình như đứa trẻ khi viết

Đồng giải nhì với Duy Ân, cùng thế hệ 9X, tác giả Yang Phan hiện đang sống và làm việc ở TP.HCM. Dù cách nhau nửa vòng trái đất, thế giới trong tác phẩm của cả hai dường như là một thế giới phẳng, nơi các nhân vật gắn kết với nhau trong một không gian mở.

Đối với cây bút trẻ sinh năm 1994, nếu được chọn từ khóa để miêu tả Vụn ký ức, anh sẽ chọn từ “Tự nhận thức”. “Mỗi nhân vật trong Vụn ký ức đều thực hiện cuộc hành hương về cõi sâu trong mình. Thông qua nhân vật chính, mỗi cá nhân liên đới đều có sự tự chiêm nghiệm trở lại thông qua những điều mà họ đã trải qua”.

Giải nhì Văn học tuổi 20 lần thứ bảy: Lặn vào thế giới ngôn ngữ và ký ức - Ảnh 3.

Yang Phan với tập truyện dài Vụn ký ức – Ảnh: LÊ ĐỨC TRUNG

Trước Vụn ký ức, Yang Phan từng viết và xuất bản hai tác phẩm thể loại trinh thám là Đánh đổi và Bẫy dưới tên Phạm Anh Tuấn. Anh đổi sang bút danh Yang Phan để mở ra hướng mới trong hành trình văn chương, “hành trình từ một Phạm Anh Tuấn đầy nông nổi, đến một Yang Phan bình tĩnh hơn từ hình thức đến nội dung”.

Với Yang Phan, Vụn ký ức mang tính thử nghiệm và bộc lộ cá tính hơn so với các tác phẩm trước. “Nó như trò chơi lắp ghép bằng chữ nghĩa vậy. Tôi được phép tháo tung những kết cấu và biến tấu nó, trở thành một bản thảo mà tôi chưa từng nghĩ mình sẽ viết trước đó. Đôi lúc, tôi thấy mình như đứa trẻ khi viết Vụn ký ức.

Mọi thứ mới mẻ, thú vị. Cá tính cá nhân cũng là điều khác biệt hơn cả. Tôi trở về nguyên bản của mình hơn, lắng nghe bản thân và cả những người trẻ đương đại. Đây có lẽ là tác phẩm hướng nội nhất tôi từng viết”.

Chia sẻ về dự định sau giải thưởng vừa gặt hái, Yang Phan kỳ vọng có thể đem đến cho độc giả nhiều khía cạnh mới trong văn chương của mình.

Anh cho thấy sự hứng khởi ở một người viết trẻ với mục tiêu cụ thể: “Trước hết, tôi nghĩ mình nên bước khỏi vùng an toàn văn chương và học hỏi. Có lẽ tôi sẽ hoàn thành cuốn sách nào đó với những thể nghiệm mới. Đồng thời, tôi vẫn muốn viết những tác phẩm mà bất cứ ai cũng có thể tìm thấy mình trong đó”.

Nửa lời chưa nói Vụn ký ức tuy thuộc hai thể loại khác nhau nhưng có điểm chung là dung lượng ít, một phần vì chưa đi đến cùng những điều muốn diễn đạt. Nhưng chính trong sự lấp lửng, dở dang ấy cũng đã có nhiều hứa hẹn, đáng để người đọc chờ đón những tác phẩm kế tiếp của hai cây bút trẻ.

Tĩnh tâm để thấy sóng ngầm

* “Rồi một ngày, mọi kẻ xung quanh em sẽ thay đổi, khác hoàn toàn với điều em biết về họ”. Anh đã viết như thế trong Vụn ký ức. Có thể còn quá sớm để hỏi, nhưng giờ đọc lại tác phẩm này anh có muốn thay đổi gì không? Văn chương của anh đã thay đổi thế nào qua thời gian?

– Yang Phan: Có nhiều điều tôi nghĩ thấy tiếc khi đọc lại cuốn sách. Đôi khi, tôi mong mình có thể trở lại và thêm thắt chút gì đó cho Vụn ký ức. Một chút vấn đề xã hội chẳng hạn. Hoặc đào sâu vào nhân vật nào đó.

Nhưng tôi biết, nếu được quay lại quá khứ thật, chắc tôi chẳng thay đổi điều gì. Mỗi cuốn sách sẽ luôn kém hoàn hảo một chút, để sản phẩm sau, ta có dịp lấp đầy.

Khi trẻ, tôi thích những thứ giật gân và hồi trẻ, tôi rất dễ quá khích. Hiện tại, tôi nhận ra văn chương mình bình lặng hơn. Tôi nghĩ câu chữ và con người nên tĩnh tâm chút, khi đó ta mới thấy sóng ngầm trong từng vấn đề cuộc sống, và cả chính mình.

Làm sao để chạm vào nhau qua ngôn từ?

* Trong truyện ngắn Trò đùa của ngôn từ, chị kết lại bằng câu “tất cả chúng ta đều nằm dưới sự nhân từ của ngôn ngữ mà thôi”, chị có thể giải thích thêm về ý này?

– Duy Ân: Đầu tiên phải nói rằng đây không phải là kết luận của tôi với tư cách một tác giả, mà là kết luận của nhân vật “tôi” trong truyện. Trong bối cảnh câu chuyện, nhân vật này rất tin tưởng vào giả thuyết về tính tương đối của ngôn ngữ, tức là việc ngôn ngữ mà chúng ta nói ảnh hưởng đến việc chúng ta nhìn nhận/cảm nhận mọi việc.

Trong truyện có chi tiết nhân vật “tôi” tin rằng Homer diễn tả bầu trời hay biển là “màu đồng” và “màu rượu”, vì tiếng Hy Lạp cổ không có từ nào cho màu xanh và điều này ảnh hưởng đến cách các tác giả Hy Lạp cổ đại nhìn nhận màu sắc.

Ở một phương diện khác, câu này ám chỉ về vấn đề giao tiếp. Sự bất lực trong mối tương giao giữa người với người cũng là một chủ đề chính của tập truyện Nửa lời chưa nói.

Ngôn ngữ, xét cho cùng cũng chỉ là những quy tắc trừu tượng được con người đặt ra để đến gần nhau hơn. Làm sao để chúng ta chạm vào nhau qua ngôn từ? Sự thiếu hụt một số từ ngữ để diễn đạt những ý nhất định hoặc sự mơ hồ trong ngôn ngữ liệu có là những bức tường ngăn cách khiến chúng ta hiểu lầm nhau?

Nguồn: https://tuoitre.vn/giai-nhi-van-hoc-tuoi-20-lan-thu-bay-lan-vao-the-gioi-ngon-ngu-va-ky-uc-20220526090455344.htm

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng