Connect with us

Sách hay

Để lại tuổi thơ đằng sau, người trẻ cần làm gì?

Được phát hành

,

Người trẻ cần làm gì để bước vào đời sống của người lớn và cần trang bị những kỹ năng gì? Ai được coi là người trưởng thành?

De lai tuoi tho dang sau, nguoi tre can lam gi? hinh anh 1 Cover_mobile_Ky_1.jpg

Để lại tuổi thơ đằng sau, người trẻ cần làm gì để bước vào đời sống của người lớn và được xem là trưởng thành?

Học một nghề, tập quản lý tài chính, trở nên “biết suy nghĩ” hơn, có lẽ là những câu trả lời phổ biến từ gia đình và xã hội mà người trẻ hay nhận được.

Nhưng với nhiều nhà tâm lý học phát triển, những bài tập kia chỉ là bề nổi. Vậy những điều gì mới thực sự quan trọng và vai trò hỗ trợ của gia đình nên như thế nào?

Xin giới thiệu với bạn đọc bài của tác giả Đặng Hoàng Giang, được trích từ cuốn sách Tìm mình trong thế giới hậu tuổi thơ, do Nhã Nam mới phát hành.

Mang tính nền tảng hơn những điều như có thu nhập riêng hay lập gia đình, trong quá trình trưởng thành, người trẻ cần giải quyết 3 vấn đề cơ bản:

Trưởng thành về cảm xúc, thông qua việc xây dựng cho mình năng lực cảm xúc; phát triển khả năng suy ngẫm về phải trái, đúng sai; xác định căn tính riêng của mình, trong đó việc tách rời khỏi cha mẹ, trở thành cá thể độc lập, là yếu tố cơ bản.

Nhưng những điều gì ẩn chứa đằng sau những khái niệm kia, và vai trò của gia đình ở đâu?

Năng lực cảm xúc

Có những người gặp khó khăn để diễn tả nội tâm của mình. Họ không biết mình đang bị căng thẳng vì lo lắng, tổn thương hay tức giận, hay vì cả ba điều này. Họ chỉ thấy mình đang “sắp phát điên”.

Ngược lại, những người tinh tế có thể ý thức được những cảm xúc chồng chéo bên trong mình, nhận ra thời điểm chúng tới và khoảnh khắc chúng ra đi.

Đây là đặc điểm đầu tiên của năng lực cảm xúc: Cá nhân có khả năng đi vào trong bản thân và nhận diện được quang cảnh tình cảm của mình.

“Tôi vui vì được ở với bố, nhưng buồn vì chỉ được gặp mẹ vào cuối tuần”, một đứa trẻ có năng lực cảm xúc phát triển có thể nắm bắt, gọi tên những mâu thuẫn trong mình như vậy.

Có nhiều nguồn tác động tới năng lực cảm xúc của người trẻ: Môi trường xã hội, trường học, bạn bè, gen, nhưng cha mẹ được cho là một trong những nguồn quan trọng nhất.

Đặc điểm quan trọng thứ hai của năng lực cảm xúc là khả năng đi vào người đối diện, dựa vào những biểu cảm của họ và bối cảnh mà nhận biết và diễn giải được cảm xúc của họ. Khuôn mặt kia, ngôn ngữ cơ thể đó đang toát ra những điều gì và nguyên do gì nằm sau chúng?

Mặt khác, hiểu được sự vận hành cảm xúc của người khác cũng giúp người ta ý thức được về tác động của mình tới người kia, qua đó điều chỉnh các biểu đạt của mình cho phù hợp.

Một thực khách có thể vẫn khen món ăn của chủ nhà dù mình không thực sự thích, để người kia không bị tổn thương một cách không cần thiết.

Ngược lại, người vô cảm thiếu khả năng đoán nhận được tác động của các hành vi hay lời nói của mình tới phong cảnh cảm xúc của người đối diện.

Năng lực cảm xúc là một phần của năng lực xã hội. Người có năng lực cảm xúc cao có khả năng hợp tác, nhận biết xung đột và giải quyết chúng một cách tích cực, qua đó xây dựng được các quan hệ giàu có và hài hòa cho mọi bên liên quan.

Cuối cùng, khía cạnh thứ ba của dạng năng lực này là khả năng điều hòa để ứng phó cảm xúc tiêu cực trong những tình huống khó khăn.

Điều này giúp người ta kiểm soát được các xung động của mình, qua đó có thể thích ứng trước áp lực, uyển chuyển ứng phó trước khó khăn của cuộc đời.

Một ví dụ là tình huống bị khước từ. Thay vì bị nhấn chìm bởi giận dữ hay đau buồn khi nhu cầu của mình không được đáp ứng, người ta ghi nhận cảm giác tệ hại đang trỗi dậy bên trong, không chối bỏ nó, nhưng vẫn giữ được bình tĩnh để đối thoại, suy nghĩ hay tự khích lệ, và qua đó phục hồi nhanh hơn.

Giống như mọi năng lực khác, năng lực cảm xúc được trau dồi qua thực hành, được xây dựng qua năm tháng. Có nhiều nguồn tác động tới năng lực cảm xúc của người trẻ: Môi trường xã hội, trường học, bạn bè, gen, nhưng cha mẹ được cho là một trong những nguồn quan trọng nhất.

Nếu được người lớn quan tâm tới đời sống, tình cảm của mình, trẻ sẽ cảm thấy được khích lệ để thể hiện cảm xúc, qua đó dần hiểu và diễn giải về chúng tốt hơn.

Đáng tiếc, trong nhiều gia đình, sự quan tâm của cha mẹ chỉ hướng tới phần xác của trẻ: Ăn uống, sức khỏe, học hành. Phần hồn của nó, những niềm vui, nỗi buồn, sự thấp thỏm, hồi hộp và hy vọng, không được chạm tới.

Vì hiểu biết lệch lạc về nghĩa vụ làm cha mẹ, vì bản thân có nhiều nhu cầu không được đáp ứng, vì chính họ có năng lực cảm xúc thấp, những cha mẹ không nhận biết và ứng xử phù hợp được với cảm xúc của con mình.

Những biểu hiện của tâm hồn đứa trẻ không được ghi nhận và phản hồi. Ở mức tệ hơn, những buồn bã, tổn thương, mong mỏi, khao khát của nó bị gạt đi, bị miệt thị là vớ vẩn hay cáo buộc là ích kỷ và gây phiền.

Do thiếu cơ hội rèn luyện, đứa trẻ lớn lên trong gia đình có bố mẹ xa cách, lạnh nhạt hay hung hãn, hằn học thường sẽ lóng ngóng trong việc thể hiện tình cảm và sau này gặp khó khăn để trình bày các trải nghiệm cảm xúc của mình, ví dụ cho bạn đời hay bác sĩ tâm lý.

Trẻ bị ngược đãi thường kém hơn trong khả năng hiểu được các tín hiệu biểu đạt trên khuôn mặt người khác, do đó vụng về hơn trong tương tác với bạn bè.

Khi bị xáo trộn, chúng cũng ít có khả năng tự điều hòa cảm xúc của mình hơn. Chúng chưa bao giờ quan sát được điều đó ở cha mẹ mình, những người thường hay bị cuốn theo xung động giận dữ hay tuyệt vọng một cách mất kiểm soát.

Ở cực ngược lại, người có năng lực cảm xúc vừa biết cách biểu đạt rõ ràng vừa biết cách lắng nghe. Họ có cảm giác làm chủ bản thân, bình an và tự tại.

De lai tuoi tho dang sau, nguoi tre can lam gi? hinh anh 2 tuoi_tho.jpg

Bìa sách “Tìm mình trong thế giới hậu tuổi thơ”.

Khả năng lập luận về đúng sai

Một quá trình quan trọng khác mà người trẻ phải đi qua là phát triển năng lực lập luận về đạo đức. Các nghiên cứu trong lĩnh vực này được bắt đầu bởi Lawrence Kohlberg, nhà tâm lý học người Mỹ, vào thập kỷ 1960.

Khi đề cập phát triển đạo đức, Kohlberg không có hàm ý là người trẻ cần tiếp nhận hệ giá trị đạo đức sẵn có nào đó, mà ông nói tới khả năng suy ngẫm liên quan công bằng và công lý.

Kohlberg theo dõi nhóm trẻ em từ 10 tới 16 tuổi qua nhiều năm, nhận ra rằng trong quá trình lớn lên, khả năng này của chúng phát triển từ thô sơ, đơn giản tới tinh tế và phức tạp.

Vợ của một người đàn ông đang ốm nặng mà ông ta không có đủ tiền để mua một loại thuốc đắt tiền (với giá đó, chủ hiệu thuốc sẽ thu được khoản lợi nhuận lớn).

Ông ta vật nài chủ hiệu thuốc để được giảm giá, nhưng bất thành. Liệu ông ta có nên đột nhập cửa hàng và lấy trộm thuốc? Vì sao nên, vì sao không nên?

Đây là tình huống có tên song đề của Heinz (tên của người đàn ông có vợ ốm nặng) mà Kohlberg hay dùng trong các phỏng vấn sâu của mình.

Theo Kohlberg, quá trình trưởng thành đạo đức có 3 mức mà các cá nhân phải lần lượt đi qua chứ không thể nhảy cóc. Mặt khác, khi đã đạt được mức nhất định, người ta sẽ không tụt xuống mức trước đó.

Mức đầu tiên được Kohlberg đặt tên là tiền quy ước (pre-convention). Các cá nhân ở mức phát triển này không dùng quy ước xã hội để định hướng cho ứng xử của mình.

Một hành vi được xem là sai nếu nó bị trừng phạt. Ăn bánh của bạn mà không có sự đồng ý được coi là sai, không phải vì cái bánh là tài sản của bạn hay điều đó làm bạn buồn, mà vì nó đem lại hậu quả là bị cô giáo mắng. Ngược lại, một hành vi được xem là ổn nếu nó không dẫn tới sự trừng phạt.

Cũng ở mức này, “tốt” là những gì đem lại lợi ích cho bản thân. “Tôi được cái gì?” là câu hỏi chủ đạo để định hướng hành vi cá nhân.

Một đứa trẻ đồng ý làm việc nhà vì được bố mẹ trả tiền (chứ không phải vì nó cho rằng nên giúp đỡ người lớn) là người nằm ở mức phát triển này. Nhu cầu và lợi ích của người khác chỉ được xem xét nếu nó đem lại lợi ích cho bản thân, theo phương châm hai bên cùng có lợi.

Mức này phổ biến ở trẻ em nhỏ, nhưng cũng có ở nhiều người lớn. Những cá nhân ở mức này có xu hướng tuân thủ máy móc để tránh bị phạt mà không đặt câu hỏi về tính hợp lý của quyền lực.

Ở mức phát triển thứ hai, mức quy ước (conventional), người ta có khả năng suy ngẫm vượt ra khỏi mối quan tâm trước mắt về lợi ích cá nhân. Người ở mức này coi những quy ước của cộng đồng là chuẩn mực của đạo đức.

Động cơ đằng sau của họ là mong muốn được người khác nhìn nhận mình như một “thành viên tốt,” để có một hình ảnh đẹp trong mắt người khác.

Cũng ở mức này, người ta cho rằng mình có nghĩa vụ giữ vững trật tự xã hội (được xây dựng qua các quy ước và quy định), vì nếu ai cũng bất tuân thì hệ thống sẽ sụp đổ.

Đạo đức được đánh đồng với tuân thủ các quy định, quy ước và do đó vẫn được áp đặt từ bên ngoài. Người ta không thách thức chúng và không đặt câu hỏi về tính công bằng hay hàm lượng công lý của chúng.

Phần lớn người trẻ, trong quá trình phát triển của mình, sẽ dừng lại ở mức này.

Mức ba, cao nhất của sự trưởng thành đạo đức, được Kohlberg gọi là hậu quy ước (post-conventional). Những người ở mức này coi luật lệ và quy định là cần thiết và hữu ích nhưng không đóng cứng. Chúng có thể và cần được thay đổi nếu đi ngược với quan điểm của họ về tự do và công lý.

Mục tiêu của giáo dục trong gia đình và trong nhà trường là hỗ trợ để trẻ em và người trẻ đạt được mức độ phát triển cao nhất.

Họ hành xử theo niềm tin cá nhân về thế nào là lẽ phải, niềm tin cá nhân này có thể xung đột những quy định hiện tại của xã hội. Với quan sát bên ngoài, người ở mức ba và mức một dường như giống nhau.

Nhưng sự khác nhau nằm ở chỗ người ở mức một hành xử để mình có lợi nhất và để không bị trừng phạt, còn những người ở mức ba hành xử theo nguyên tắc đạo đức của mình và để không bị lương tâm lên án.

Trong xã hội, chỉ một số nhỏ cá nhân đạt được tới mức độ phát triển này.

Với song đề của Heinz bên trên, các cá nhân ở mức phát triển khác nhau có thể có những câu trả lời như thế nào?

Lưu ý một lần nữa là mức phát triển của ai đó không được thể hiện qua việc tán thành hay phản đối hành vi ăn trộm thuốc, mà qua cách thức người đó lập luận để đi đến quan điểm của mình.

Những tính toán của một người ở mức phát triển tiền quy ước xoay quanh lợi ích của bản thân và khả năng bị trừng phạt, anh ta có thể sẽ cho rằng: “Heinz nên ăn cắp nhưng cần rất khéo léo để khỏi bị bắt”.

Hoặc: “Heinz không nên ăn cắp vì cuộc sống trong tù sẽ rất kinh khủng mà chưa chắc đã cứu được vợ”.

Khác với người ở mức một, người ở mức hai nhìn mình trong tổng thể của tập thể lớn hơn. Anh ta có xu hướng hành xử để được người khác chấp nhận và để giữ trật tự và sự ổn định của cộng đồng (không đặt câu hỏi về ý nghĩa và sự hợp lý của các quy ước mà cộng đồng đang sử dụng).

Một người ở mức này có thể sẽ trả lời: “Heinz nên ăn cắp, nếu không thì sẽ bị mang tiếng là không hết lòng vì người thân”.

Hoặc là: “Heinz không nên ăn cắp vì đó là vi phạm pháp luật”.

Ở mức ba, mức hậu quy ước, những quyết định đạo đức của một cá nhân thực sự độc lập. Chúng đến từ nhận thức và những nguyên tắc đạo đức của họ, mà không bị ô nhiễm bởi sự sợ hãi quyền lực hay ham muốn lợi lộc hay nhu cầu được tán thưởng và chấp thuận.

Vượt ra ngoài luật lệ hiện hành, họ đi tìm lời giải phù hợp hơn để giải quyết xung đột về công bằng và công lý mà tình huống đưa ra.

Người ở mức phát triển này có thể sẽ trả lời: “Heinz nên ăn cắp thuốc, cứu mạng sống là nguyên tắc đạo đức cao nhất và cần được ưu tiên hơn là lợi nhuận (của người chủ hiệu thuốc), và luật pháp cần được thay đổi để không ai phải chết vì nghèo”.

De lai tuoi tho dang sau, nguoi tre can lam gi? hinh anh 3 tuoi_tho1.jpg

Cuốn sách do Nhã Nam phát hành.

Hoặc là: “Heinz không nên ăn cắp thuốc vì người khác có thể cũng cần thuốc như vợ ông ta, và mọi mạng sống có giá trị như nhau”.

Trẻ em bắt đầu ở mức phát triển thứ nhất, chúng đơn giản không đủ nhận thức để hiểu về những triết lý vận hành ở các mức sau.

Trong quá trình trưởng thành, thông thường một đứa trẻ 14 tuổi sẽ có những suy nghĩ “chín chắn” và nhiều chiều hơn đứa trẻ 8 tuổi.

Tuy nhiên, nhiều người già vẫn nằm ở mức phát triển đầu tiên, trong khi một đứa trẻ 15 tuổi đã có thể xây dựng cho mình những suy nghĩ ở mức ba.

Một cá nhân dịch chuyển từ một mức lên mức tiếp theo không phải đơn thuần qua học vẹt những lời răn dạy, mà qua những khủng hoảng nội tâm.

Khi thấy bất an với quan điểm của mình, khi thấy nó không trả lời được cho tình huống và trải nghiệm mới gặp, họ phải tìm cách giải quyết xung đột và qua đó đạt được tầm nhận thức mới.

Mục tiêu của giáo dục trong gia đình và trong nhà trường là hỗ trợ để trẻ em và người trẻ đạt được mức độ phát triển cao nhất.

Điều đó chỉ có thể xảy ra khi chúng sống trong một môi trường cởi mở, nơi chúng được tự do suy nghĩ, được hướng dẫn có cái nhìn đa chiều, được dìu dắt để nhận ra mâu thuẫn trong lập luận của mình, được khuyến khích xây dựng quan điểm cá nhân và phản biện cái nhìn của người lớn mà không bị phán xét.

Người lớn chỉ trích, phủ nhận cái nhìn của người trẻ và áp đặt quan điểm của mình bằng “lên lớp” hay ra lệnh sẽ không giúp người trẻ trưởng thành.

Có thể nhiều cha mẹ Việt không muốn nghe điều này, nhưng với Kohlberg và các nhà tâm lý học phát triển khác, sự độc lập trong tư duy của người trẻ là điều cần thiết và cần được ưu tiên, chứ không phải quyền của cha mẹ được áp đặt hệ giá trị của mình lên con cái.

Nguồn: Zing (https://news.zing.vn/de-lai-tuoi-tho-dang-sau-nguoi-tre-can-lam-gi-post1075204.html)

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng