Quân giải phóng làm chủ đường Lê Lợi ở Sài Gòn (1968). Ảnh: Tư liệu TTXVN. |
Tài liệu của Mỹ viết: “Cuối năm 1967, quân đội Mỹ đã cảm thấy chiến thắng trong tầm tay, các báo cáo gửi về Washington mô tả chi tiết những thất bại hàng ngày của cộng sản… các chiến dịch tìm và diệt cho mùa khô đã đẩy lùi các chiến binh vào sâu trong rừng và kẹt ở đó”. Ở góc độ khác, cuộc phản công mùa khô lần thứ hai thất bại, Mc Naughton, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng, trong Bị vong lục gửi Mắc Namara, viết: xuất hiện “tình trạng phân cực ngày một tăng đang xảy ra trên nước Mỹ với những mầm mống của sự chia rẽ tệ hại nhất trong nhân dân Mỹ kể từ hơn một thế kỷ nay”. Nghiêm trọng hơn, sự phân hóa diễn ra ngay trong giới chóp bu điều hành chiến tranh xâm lược. Ngày 19-5-1967, trong Bị vong lục gửi Tổng thống Mỹ Giônxơn, Bộ trưởng Quốc phòng Mắc Namara trình bày lập luận chống chiến lược mở rộng chiến tranh, cho rằng nước Mỹ đã đi vào con đường bế tắc. Bởi, dù mở rộng chiến tranh hay theo một chính sách ôn hòa hiện thời cũng không thay đổi được tinh thần quyết chiến đấu của Hà Nội đến thắng lợi; nếu tăng quân và tăng cường đánh phá miền Bắc, sẽ mở ra khả năng Mỹ dấn sâu vào và sa lầy hơn ở Đông Nam Á, thậm chí lao vào một cuộc chiến tranh với Trung Quốc và Liên Xô.
Xác định cách đánh chiến lược mới, “sáng kiến lịch sử
Phát huy thắng lợi của cuộc kháng chiến ở cả hai miền Nam – Bắc, từ cuối năm 1966, đầu năm 1967, “từ tình thế mới có lợi cho ta, bất lợi cho địch”, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chủ trương tìm một cách đánh chiến lược mới, tiến tới xác lập cục diện “vừa đánh vừa đàm”, “vừa đàm vừa đánh”. Vận dụng sách lược mềm dẻo, thông qua tuyên bố của Bộ Ngoại giao, khả năng phía Việt Nam sẽ thực hiện đàm phán nếu Mỹ chấm dứt ném bom không điều kiện miền Bắc, chứ không gắn với việc đòi Mỹ rút khỏi miền Nam, một chủ trương mới được hé mở. Kế hoạch chiến lược Đông – Xuân 1967-1968 được tổ chức nghiên cứu, khởi thảo.
Đây là cả quá trình bàn bạc, thảo luận, cân nhắc… giữa Tổng hành dinh với lãnh đạo, chỉ huy chiến trường, với các ngành, các cấp hữu quan. Bộ thống soái tối cao nhận thấy, nếu cứ tiếp tục mở các hoạt động quân sự như trước, đánh theo cách đánh cũ thì khó tận dụng được thời cơ có lợi để tạo nên chuyển biến chiến lược trên chiến trường, chiến tranh sẽ vẫn diễn ra trong thế nhùng nhằng, giằng co. Trong khi Tổ kế hoạch Cục Tác chiến còn đang trong quá trình tìm tòi cách đánh nhưng vẫn chưa nghĩ ra, thì “chính số đồng chí lãnh đạo chủ chốt Bộ Chính trị (đồng chí Lê Duẩn…) và Quân ủy Trung ương đã trao đổi, đề xuất giải pháp mới. Hai tư duy chỉ đạo vừa sáng tạo, vừa táo bạo đã kết thành ý định quyết tâm chiến lược là đột ngột chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu của ta từ rừng núi, nông thôn đánh thẳng vào sào huyệt, đầu não hiểm yếu nhất của địch là các thành phố, căn cứ trung tâm… Đánh vào đó, ta sẽ tạo được bất ngờ lớn về chiến lược, giành thắng lợi lớn”.
Tác giả Lê Minh cho biết, trong một lần đồng chí Nguyễn Chí Thanh từ chiến trường miền Nam ra Hà Nội họp Bộ Chính trị, chuyện trò với chúng tôi tại nhà riêng, về cách đánh, anh nói đại ý “đánh vào đầu não, tim, dạ dày của nó thì chân tay nó rã rời… chặt vào chân nó thì thấy chảy máu me nhưng không can chi cả… Nhưng chỉ dùng một cái kim châm một cái vô tim thì nó chết. Tức là phải đánh vào chỗ hiểm, chỗ hiểm của địch là ở đâu? Là thành phố, thị trấn, căn cứ đầu não, kho tàng, sào huyệt của chúng”.
Truyền thông nước ngoài và một số nhân vật trong cuộc có nhiều nhận xét xác đáng. Daniel Ellsberg viết: “Quy mô và sự phối hợp của cuộc Tổng tiến công vào dịp Tết gần như là tổng hợp các cuộc tiến công xảy ra đồng thời tại hầu hết tỉnh ở miền Nam Việt Nam… sẽ mãi mãi khiến người ta phải kinh ngạc”. Oétmolen thừa nhận, “có 36 thành phố, thị xã của 44 tỉnh lỵ; 5 trong 6 thành phố tự trị; 64/242 quận lị và 50 ấp bị tiến công trong dịp Tết Mậu Thân 1968”.
Bất ngờ vì đối phương chọn chiến trường hoàn toàn khác trước, mà còn vào thời điểm không ngờ nhất, nguyên Tùy viên kinh tế Đại sứ quán Mỹ kể lại: “… Ở Sài Gòn cuộc sống vẫn êm ả, người ta không có gì để phải lo lắng vì cộng sản chưa bao giờ dám tấn công vào một thành phố thủ đô và vừa tuyên bố 48 giờ ngừng bắn. 1/3 quân Việt Nam Cộng hòa đang nghỉ phép, Chính phủ cũng đang nghỉ. Trong không khí chào mừng năm mới, các quán bar phục vụ lính Mỹ hết công suất… Chính quyền Sài Gòn tổ chức một buổi tiệc tại nhà khách…”. Chính việc đưa chiến tranh vào thành thị của ta đã làm thế chiến lược của Mỹ bị đảo lộn, làm rung chuyển nước Mỹ, dân chúng Mỹ phải sửng sốt, bàng hoàng.
Nghi binh chiến lược
Bộ Tổng Tư lệnh còn chỉ đạo việc nghi binh nhằm đánh lạc hướng Bộ Chỉ huy đối phương. Tháng 9-1967, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho đăng báo bài “Thắng lợi lớn, nhiệm vụ lớn”, tiếp tục khẳng định phương châm đánh lâu dài, bảo tồn lực lượng. Lập tức Cục Tình báo Trung ương Mỹ CIA cho dịch và phân phát tới các chi nhánh truyền thông công khai ở nước ngoài. Tháng 11-1967, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam phổ biến trực tiếp cho các tư lệnh chiến trường miền Nam kế hoạch nghi binh chiến lược, một bản kế hoạch tác chiến giả… Các thông tin giả kể trên càng củng cố nhận định của Oétmolen rằng Việt Nam thất bại lớn, mà trận Đắk Tô là bước mở đầu, còn Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn nhận định, năm 1968 trọng tâm kế hoạch của Việt cộng là chống phá bình định.
Nhằm dụ đối phương lún sâu thêm vào những phán đoán sai lầm, tháng 1-1968, quân ta phối hợp với nước bạn Lào mở chiến dịch Nậm Bạc; nhiều đơn vị chủ lực Quân giải phóng rời căn cứ hướng về các đô thị, trong đó có Sài Gòn – Gia Định; một số sư đoàn chủ lực miền Bắc tập kết quanh vùng rừng núi Khe Sanh. Trước động thái đó, Oétmolen hủy bỏ dự án mở cuộc phản công chiến lược lần thứ ba, đưa quân về giữ Sài Gòn; dừng các cuộc hành quân ở phía Bắc, tăng lực lượng cho hướng Trị – Thiên. Vậy là, từ thế chủ động “phản công”, “tìm diệt”, lực lượng quân sự Mỹ buộc phải chuyển sang phòng ngự bị động mà hai hướng chính là quanh Sài Gòn và Trị – Thiên. Trong khi đối phương còn đang lúng túng tìm cách đối phó, thì đêm 20-1-1968, quân ta bất ngờ nổ súng tiến công tập đoàn cứ điểm Khe Sanh. Đạn pháo của quân ta dội xuống Khe Sanh đã xua tan đám mây mù mà chính quyền Mỹ cố tạo ra lừa mị công chúng Mỹ rằng họ đang thắng và đã thấy “ánh sáng cuối đường hầm” (!). Quá sốc, giới chức Mỹ cũng tính toán như ở Điện Biên Phủ 14 năm trước, rằng có nên dùng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Khe Sanh?. Nhiều tác giả Việt Nam và Mỹ nhận định rằng, cả Nhà Trắng, Lầu Năm Góc và Sài Gòn đều nghĩ đến khả năng Việt cộng tập trung lực lượng để tiến hành một trận “Điện Biên Phủ” ở Khe Sanh. Bằng cách đánh vây lấn với những trận địa chiến hào của ta, họ cho rằng ta sẽ dứt điểm Khe Sanh như Điện Biên Phủ. Tác giả Michael Maclear bình luận: “Các trận đánh trong Tết Mậu Thân làm cho người ta có cảm tưởng rằng Khe Sanh có vẻ như là cuộc bao vây để đấy. Nếu vậy thì Bắc Việt Nam là bậc thầy trong việc nghi binh”.
You must be logged in to post a comment Login