Connect with us

Sách hay

Bản thảo tiết lộ năm tháng cuối đời của Vincent van Gogh

Được phát hành

,

Trong “Avant et Après”, Paul Gauguin tiết lộ khoảng thời gian 2 tháng làm việc cùng bạn thân Van Gogh và sự kiện danh họa người Hà Lan tự cắt tai trái.

Van Gogh anh 1

Cuốn sách Avant et Après (tạm dịch: Trước và sau) do danh họa Paul Gauguin (1848-1903) viết vào hai tháng đầu năm 1903, tại Atuona, thủ phủ của đảo Hiva Oa, Polynesia (thuộc Pháp). Ba tháng sau, ông qua đời tại đây.

Avant et Après gồm 241 trang, kèm 27 minh họa của tác giả. Ở trang 13-24 của cuốn sách, Gauguin kể về giai đoạn hơn 2 tháng sống và vẽ tranh cùng Vincent van Gogh tại Arles, Pháp (năm 1888).

Đặc biệt, tác phẩm thuật lại chi tiết về sự kiện danh họa người Hà Lan tự cắt tai mình vào đêm 23/10/1888. Đây là tường thuật đầu tiên và cặn kẽ nhất về vụ việc này. Sau đó, mọi văn bản khác đều viết dựa trên câu chuyện mà Gauguin kể.

20 năm sau khi Gauguin mất, ấn bản đầu tiên của cuốn sách mới được nhà xuất bản G. Crès et Cie ra mắt tại Paris. Mới đây, phòng triển lãm Courtauld ở London, Pháp, đã mua lại bản thảo của cuốn Avant et Après, dự kiến trưng bày vào mùa xuân năm sau. Đây sẽ là lần đầu tiên bản thảo của cuốn sách này ra mắt công chúng yêu nghệ thuật.

Van Gogh anh 2

Bìa trước của bản thảo Avant et Après (trái) và một trong các trang sách (phải). Nguồn: The Courtauld.

Van Gogh trong mắt người bạn thân

Van Gogh và Gauguin là những người bạn thân thiết. Họ sống cùng nhau trong 9 tuần ở Arles vào năm 1888 trong ngôi nhà màu vàng (yellow house). Trong lá thư duy nhất mà họ cùng nhau viết gửi họa sĩ người Pháp Emile Bernard, Van Gogh tiết lộ về chuyến du ngoạn của cả hai.

Bức thư được viết một tuần sau khi Paul Gauguin ghé thăm nhà của cố danh họa Hà Lan để cùng trao đổi về nghệ thuật và công việc.

Theo Guardian, trong lá thư, Van Gogh và Gauguin tả về những trải nghiệm của họ khi cùng chung sống tại Arles. Cả hai tuyên bố tác phẩm của họ đang dẫn đầu “thời kỳ phục hưng lớn trong nghệ thuật” và tin rằng các bức tranh sẽ quyết định tương lai nền hội họa hiện đại.

Trong thư, Van Gogh còn đề cập việc người bạn Gauguin của mình “mang bản năng hoang dã”. Còn Gauguin đáp trả rằng Van Gogh dễ bị mê hoặc và không quên chế giễu người bạn cùng phòng. Sau đó, mối quan hệ của họ trở nên căng thẳng đến mức tình bạn tan vỡ.

Van Gogh anh 3Van Gogh anh 4

Ngôi nhà màu vàng trong tranh Van Gogh và thực tế. Ảnh: Amazone, Pinterest.

Trong cuốn Avant et Après, Gauguin thuật lại hầu hết diễn biến trong khoảng thời gian cả hai sống chung. Ông kể về nhiều chi tiết thú vị. Chẳng hạn, việc trang trí nội thất trong căn nhà tồi tàn mà Van Gogh thuê.

Danh họa người Pháp cũng miêu tả người quản lý nhà thổ là một gã đàn ông hiểu biết: “Anh ta rõ là tay ma cô lão luyện. Đừng đùa bởi anh ta hiểu rõ nghệ thuật của Bouguerau và nơi nó thuộc về”.

Gauguin còn kể về những gì ông và Van Gogh chứng kiến khi vào nhà thổ, nơi họ ngồi để vẽ bức tranh nhóm người ra vào.

Khi làm việc cùng nhau, Gauguin miêu tả Van Gogh: “Sao anh ta tự tin thế, điềm tĩnh thế. Còn tôi sao mà do dự thế, lo lắng thế”. Giữa hai người, “anh ta và tôi, một người như núi lửa, người kia cũng sôi, nhưng bên trong là một cuộc tranh đấu nào đó sắp bùng lên”.

Trong cuốn sách, Gauguin cũng lý giải câu chuyện quanh bức họa ông ghi lại khoảnh khắc Van Gogh tập trung vẽ tranh hoa hướng dương. Avant et Après cho thấy sự thật về bức tranh đã bị bỏ sót do dịch sai.

Cụm từ “soleils sur soleils en plein soleil” bị dịch nhầm sang tiếng Anh là “Mặt Trời trên Mặt Trời trong ánh sáng tràn ngập”. Nhưng “soleils” trong tiếng Pháp cũng có thể có nghĩa là “hoa hướng dương”. Vì vậy, bức họa Vincent van Gogh painting Sunflowers (1888) thực chất là ám chỉ cuộc sống tĩnh lặng của họa sĩ người Hà Lan với 15 bông hướng dương xung quanh.

Trong Avant et Après, Gauguin cũng táo bạo tuyên bố rằng mình là người ảnh hưởng tới quá trình Van Gogh vẽ loạt tranh Sunflowers. Tuy nhiên, sự thật là cha đẻ của nó đã vẽ các bức họa vào tháng 8/1888, hai tháng trước khi Gauguin đến.

Van Gogh anh 5

Bức họa Vincent van Gogh painting Sunflowers (1888) của Paul Gauguin. Nguồn: The Courtauld.

Tư liệu quý về những năm cuối đời của Van Gogh

Ngày 29/7/1890, danh họa Hà Lan Vincent van Gogh qua đời. Nhiều người cho rằng ông tự tử tại cánh đồng lúa mì sau lâu đài ở ngôi làng Auvers-sur-Oise, gần thủ đô Paris, Pháp. Đến nay, giới nghiên cứu vẫn chưa thể tìm ra câu trả lời chính xác.

Bởi vậy, Avant et Après là cuốn sách quý ghi lại khoảng thời gian 18 tháng trước khi Van Gogh qua đời. Trong cuốn sách, Gauguin đã thuật lại một sự kiện mang tính lịch sử. Đó là vụ họa sĩ người Hà Lan tự cắt tai trái.

Đây cũng là những ngày cuối cùng mà hai nghệ sĩ gắn bó với nhau, trước khi tình bạn của họ tan vỡ. Buổi tối định mệnh ngày 23/12/1888, Gauguin tuyên bố sẽ rời khỏi ngôi nhà vàng “để có không gian trong lành hơn”.

Trước đó, họ có vài đêm cùng nhau ghé quán rượu. Bất ngờ, Van Gogh ném ly nước về phía Gauguin và bỏ ra ngoài. May mắn, danh họa người Pháp tránh được.

Theo lời kể trong Avant et Après, sáng hôm sau, Gauguin ngỏ ý sẽ trở về Paris với em trai. Khi đang đi trên quảng trường Victor Hugo, đột nhiên Gauiguin nghe thấy sau lưng có bước chân quen thuộc, nhanh và giật cục.

“Tôi quay lại đúng lúc thấy Vincent lao tới, tay cầm con dao cạo đã mở lưỡi. Ánh mắt của tôi lúc đó chắc phải rất gay gắt bởi sau đó anh dừng lại, cúi đầu chạy thẳng về nhà”, Gauguin viết trong Avant et Après.

Quá sợ hãi, họa sĩ người Pháp thuê phòng ở ngoài tối đó và lo lắng không thể ngủ. Sáng hôm sau, trở về căn nhà của Van Gogh, ông phát hiện bạn mình đã tự cắt tai trái, bằng chính con dao cạo.

Theo đánh giá của Martin Bailey – chuyên gia về Van Gogh và giám tuyển của nhiều phòng triển lãm nổi tiếng – các nhà nghiên cứu sẽ phải làm một việc quan trọng khi tiếp nhận nội dung văn bản trên.

Cuốn sách Avant et Après là tư liệu quý hiếm hoi về thời gian sống cuối đời của Van Gogh. Tuy nhiên, các chuyên gia cần đặc biệt cẩn trọng để đánh giá khách quan những gì Gauguin kể.

“Việc tách bạch thực tế điều đã diễn ra và tiểu thuyết hư cấu là thách thức với những ai nỗ lực giải mã bản thảo này”, ông Bailey nhấn mạnh.

Van Gogh anh 6

Một số trang trong bản thảo Avant et Après. Nguồn: The Courtauld.

Cuộc phiêu lưu của tác phẩm mang tính lịch sử

Kể từ khi Gauguin viết Avant et Après năm 1903, bản thảo gốc tác phẩm chưa từng được trưng bày.

Cuốn sách này đã trải qua một cuộc phiêu lưu nhiều thập kỷ trước khi được phòng trưng bày Courtauld (London, Anh) mua lại. Trước đó, nó thuộc sở hữu của Erich Goeritz (1889-1955), sau là con trai ông – Thomas (1918-97). Ước tính, bản thảo có trị giá lên tới 10 triệu bảng Anh.

Trong túp lều ở Polynesia, Pháp, Gauguin đã viết Avant et Après vào một cuốn sổ lớn (gần bằng khổ A4). Theo giới chuyên gia, năm 1918, cuốn sổ đã được phục chế. Bìa cuốn bản thảo có dòng chữ viết bằng tiếng Pháp, dịch ra tiếng Anh là: “To Cry, to Suffer, to Die/To Laugh, to Live, to Enjoy”.

Bìa trong của cuốn bản thảo là 3 bức tranh ở Utagawa Kunisada, Nhật Bản những năm 1850. Bìa sau là bản khắc Knight, Death and Devil (1513) của Dürer.

Ketty Gottardo, người phụ trách tại phòng trưng bày Courtauld, mô tả Avant et Après là “một phần hồi ký và tuyên ngôn của Gauguin”. Nó còn tiết lộ những giai thoại, suy nghĩ của tác giả ​​về Degas, Pissarro, Signac và Cézanne, cũng như đánh giá với các nhà phê bình nghệ thuật ở Paris.

Sau khi viết xong, Gauguin hy vọng rằng bản thảo sẽ được xuất bản ở Pháp trước khi ông mất. Họa sĩ gửi nó cho người bạn là nhà phê bình người Bỉ André Fontainas. Tuy nhiên, bản thảo của Gauguin bị nhiều nhà xuất bản từ chối vì ông chưa nổi tiếng.

Năm 1907, Fontainas gửi bản thảo cho vợ cũ Mette Gauguin. 7 năm sau, Mette bán Avant et Après cho nhà xuất bản Kurt Wolff tại Đức. Họ bán lại bản thảo cho Erik-Ernst Schwabach. Tại đây, năm 1920, Avant et Après được dịch sang tiếng Đức.

Sau đó, Avant et Après tiếp tục được bán cho Erich Goeritz, một chủ xưởng dệt. Bản thảo được tặng cho Bảo tàng Tate Modern (Anh). Cuối cùng, bằng một cách nào đó, Avant et Après thuộc về John Fleming – cơ sở trưng bày nghệ thuật của Rosenbach tại New York, Mỹ. Tại thời điểm đó, nó được định giá 85.000 USD.

Nguồn: https://zingnews.vn/ban-thao-tiet-lo-nam-thang-cuoi-doi-cua-vincent-van-gogh-post1135408.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng