Connect with us

Sách hay

Thế giới trong lửa đạn

Được phát hành

,

Thế chiến thứ Hai là một trong những giai đoạn giàu kịch tính, cuốn hút nhất trong toàn bộ chiều dài lịch sử đầy thăng trầm của loài người.

Thế chiến thứ Hai là cuộc xung đột vũ trang có quy mô lớn nhất, gây thiệt hại nặng nề nhất trong lịch sử loài người và có ảnh hưởng lâu dài tới thế giới trong suốt nửa sau thế kỷ 20, thậm chí “dư chấn” của cuộc chiến này còn tác động tới cuộc sống ngày nay. Ngoài ra, với những ai yêu thích tìm hiểu và đọc về lịch sử, Thế chiến thứ Hai cũng là một trong những giai đoạn giàu kịch tính, cuốn hút nhất trong toàn bộ chiều dài lịch sử đầy thăng trầm của loài người.

Tuy nhiên, đây cũng là một cuộc chiến quá kỳ vĩ, phức tạp, với nhiều khía cạnh hết sức đa dạng tới mức những tác giả viết về nó cho tới nay vẫn chưa cạn nguồn khai thác để đưa ra những cuốn sách mới về Thế chiến thứ Hai, còn người đọc có lẽ sẽ ngợp trước số lượng khổng lồ những cuốn sách dày mỏng, từ phổ thông tới chuyên sâu, từ tổng hợp tới chi tiết, viết về từng khía cạnh, câu chuyện cụ thể hay về cả cuộc chiến.

Để bắt đầu tìm hiểu về Thế chiến thứ Hai, có lẽ cách hay nhất là xuất phát từ một cuốn sách không quá nặng nề cả về mức độ học thuật của nội dung lẫn số trang sách cung cấp cho ta một cái nhìn đầy đủ, toàn diện, tuần tự về những biến cố chính yếu nhất của cuộc xung đột chấn động thế giới này từ đầu đến cuối. Với bạn đọc Việt Nam, Thế chiến thứ Hai (The second World War) của Anthony Beevor vừa được chuyển ngữ sang tiếng Việt là một lựa chọn có lẽ sẽ khiến đa số độc giả háo hức tìm hiểu về thời kỳ lịch sử đầy biến động này cảm thấy hài lòng.

Anthony Beevor là một tác giả người Anh chuyên về chủ đề lịch sử, trong đó các đầu sách nổi tiếng nhất của ông chủ yếu có chủ đề về thời kỳ Thế chiến thứ Hai.

Thế chiến thứ Hai chính là cuốn ký sự tóm lược lại trọn vẹn tiến trình của cuộc xung đột đã làm rung chuyển thế giới suốt từ tháng 9/1939 đến tháng 9/1945. Thu gọn sáu năm khốc liệt với những chiến trường nằm rải khắp châu Âu, châu Á và châu Phi và bốn trong năm đại dương trên Trái Đất chỉ trong gần 1.200 trang sách quả là một kỳ công của tác giả, một nỗ lực lớn lao để đưa đến cho người đọc một cái nhìn chỉnh thể trọn vẹn của cuộc Thế chiến chỉ trong khuôn khổ của một cuốn sách duy nhất.

Thế chiến thứ Hai bao gồm một phần dẫn nhập và 50 chương nội dung chính thức. Phần dẫn nhập tóm lược ngắn gọn bối cảnh quốc tế từ khi Thế chiến thứ Nhất kết thúc đến những ngày cuối cùng trước khi Thế chiến thứ Hai bùng nổ. Với những ai tò mò muốn tìm hiểu về thời kỳ này song chưa quen thuộc về nó, phần dẫn nhập cung cấp một hiểu biết nền vừa đủ để tất cả bạn đọc bước vào nội dung chính của sách đã được chuẩn bị để hiểu nguyên do dẫn tới các biến cố của Thế chiến thứ Hai.

Chương 1 “Chiến tranh nổ ra” là câu chuyện về 3 tháng cuối cùng trước thời điểm ngày 1/9/1939. Đó là quãng thời gian với nhiều biến động lớn như xung đột Xô – Nhật ở Mông Cổ, đỉnh điểm là trận Khankhil Gol, đánh dấu khẳng định tài cầm quân của Georghi Zhukov cũng như quyết định diễn biến về sau ở mặt trận châu Á – Thái Bình Dương, hay sự căng thẳng tăng dần tại châu Âu, nhất là giữa Đức và Ba Lan, sau cuộc xâu xé Tiệp Khắc trước đó, và những nỗ lực ngoại giao bất thành để ngăn cản sự bành trướng của nước Đức Quốc xã do sự nghi ngờ lẫn nhau giữa Anh – Pháp và Liên Xô, dẫn tới việc ký kết hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau giữa Liên Xô và Đức vào những ngày cuối tháng 8/1939. Tất cả đã quá muộn để ngăn cơn ác mộng không trở thành hiện thực.

Từ chương 2 đến chương 11 là diễn biến của Thế chiến thứ Hai từ tháng 9/1939 đến trước ngày Đức tấn công Liên Xô. Anthony Beevor để phần này để tường thuật lại chiến dịch Ba Lan (chương 2), nơi “chiến tranh chớp nhoáng” của người Đức lần đầu tiên cho thấy sức mạnh khủng khiếp của nó, cũng như “cuộc chiến Cuội” (chương 3) – thời kỳ án binh bất động của liên quân Anh – Pháp ở mặt trận phía Tây từ tháng 9/1939 đến tháng 4/1940, bất chấp cam kết trợ giúp Ba Lan. Chương 5 đến chương 7 là câu chuyện về chiến dịch thắng như chẻ tre của Đức khi đánh chiếm Na Uy, Đan Mạch rồi ngoặt sang phía tây đánh tan tác liên quân Pháp – Anh, buộc nước Pháp phải đình chiến, trên thực tế gần như là đầu hàng, vào tháng 6/1940.

Từ chương 8 đến chương 11 là quãng thời gian nước Anh đứng một mình cự lại sức mạnh của Đức Quốc xã, cùng diễn biến của chiến cuộc tại Bắc Phi, trên biển Đại Tây Dương, nơi người Anh phải chiến đấu bảo vệ lãnh thổ thuộc địa và các tuyến đường tiếp vận sống còn cho sự sinh tồn của mình, cũng như diễn biến chiến tranh tại Balkan, bước chuẩn bị cuối cùng của Hitler trước khi tấn công Liên Xô. Ngoại lệ duy nhất ở phần đầu này là chương 4, nơi Beevor hồi cứu lại ngược thời gian cuộc chiến Trung – Nhật đã khởi đầu từ năm 1931 và lan rộng năm 1937, để rồi chính thức trở thành một phần của Thế chiến thứ Hai từ tháng 9/1939.

Từ chương 12 đến chương 23 là giai đoạn ngọn lửa chiến tranh của Thế chiến thứ Hai đạt tới đỉnh điểm khi Đức tấn công Liên Xô vào tháng 6/1941, khơi mào cho mặt trận trên bộ ác liệt nhất của cuộc chiến, rồi sau đó Nhật tấn công hạm đội Mỹ vào tháng 12/1941, bắt đầu cuộc hải chiến lớn nhất của Thế chiến thứ Hai trên mặt Thái Bình Dương.

Giai đoạn đầu của cuộc Thế chiến giờ đây đã ở vào mức khốc liệt nhất của nó đánh dấu thắng lợi vang dội của phe Trục. Người Đức liên tục đẩy lùi Hồng quân Liên Xô và tiến sát Moskva trước khi chịu thất bại đầu tiên trong cuộc chiến trước cửa ngõ thủ đô Liên Xô, buộc phải rút lui chỉ ngay trước khi người Nhật kéo nước Mỹ vốn cố hết sức trung lập ở ngoài cuộc vào vòng chiến sau cuộc tập kích Trân Châu Cảng ngày 7/12/1941, rồi sau đó ào ạt chiếm toàn bộ Đông Nam Á cùng một vùng rộng lớn trên Thái Bình Dương.

Hệ quả của các biến cố này là bước ngoặt quan trọng bậc nhất cuộc chiến: sự hình thành phe Đồng Minh do Liên Xô – Mỹ – Anh là ba trụ cột lớn vào đầu năm 1942 với mục tiêu đánh bại triệt để phe Trục (Đức – Italy – Nhật) và vãn hồi hòa bình trên toàn cầu. Dù vẫn chiếm ưu thế tạm thời, sức mạnh của phe Trục đã chứng tỏ những giới hạn của nó với các thất bại của Đức tại Moskva mùa đông năm 1941 (chương 15), của Nhật tại Midway vào tháng 6/1942 (chương 20) cùng các thất bại thê thảm của Italia trước đó tại Balkan (chương 10), Bắc Phi và Đông Phi (chương 11, 21).

Những nỗ lực quan trọng cuối cùng nhằm giành được thắng lợi quyết định của Đức (chương 22) và Nhật (chương 23) trong nửa cuối năm 1942 cũng vấp phải những khó khăn lớn do sự giáng trả quyết liệt của phe Đồng Minh, báo hiệu gió sắp đổi chiều.

Phần còn lại của “Thế chiến thứ Hai”, từ chương 24 đến chương 50, chiếm già nửa số trang của cuốn sách, là câu chuyện các nước Đồng Minh phản kích đánh bại phe Trục trên tất cả các mặt trận. Tại mặt trận Xô – Đức, trận Stalingrad (chương 24) đã đẩy Đức Quốc xã vào thế bị động rồi từ đó đi từ thất bại này tới thất bại khác.

Tại Bắc Phi, thất bại tại El Alamein vào cuối năm 1942 (chương 25) là khởi đầu cho thất bại hoàn toàn của Đức – Italy trên lục địa Đen. Chương 26 đến chương 30 điểm qua chiến sự giằng co trên khắp các chiến trường ở châu Âu, châu Á và châu Phi.

Chương 31 đến chương 40 tường thuật lại chủ yếu chiến cuộc giữa các nước Đồng Minh và Đức – Italy trong giai đoạn 1943-1944, bắt đầu từ nỗ lực tấn công mùa hè cuối cùng của người Đức vào tháng bảy năm 1943 ở Kursk (chương 31) tới cuộc tấn công của Anh – Mỹ lên Sicily và bán đảo Italy (chương 32). Tình hình thuận lợi cho thấy thắng lợi của phe Đồng Minh chỉ còn là vấn đề thời gian, chiến lược hành động của Đồng Minh được thống nhất trong hội nghị Tehran (chương 33). Italy nhanh chóng bị đánh bại, đổi phe – ngoại trừ một lực lượng nhỏ rút lên phía bắc cố thủ (chương 35). Mùa thu-đông 1943 và mùa xuân 1944 đánh dấu những cuộc tấn công liên tục của Liên Xô trên mặt trận phía Đông và Anh – Mỹ tại Italy.

Để rồi cuộc đổ bộ lên Normandy và chiến dịch Bagration (chương 39) làm quân Đức thua lớn phải rút lui trên cả hai mặt trận, dẫn tới binh biến trong nội bộ nước Đức với cuộc ám sát hụt Hitler (20 tháng bảy năm 1944), Paris được giải phóng (tháng tám năm 1944), trong khi lực lượng kháng chiến tại nhiều quốc gia bị chiếm đóng khác cũng vùng dậy như cuộc nổi dậy tại Warszawar (chương 40).

Trong khi phe Đồng Minh chủ trương “Đức trước”, chiến sự tại châu Á – Thái Bình Dương vẫn tiếp tục ác liệt (chương 37), người Nhật vẫn giành được một số thắng lợi trên lục địa tại Trung Quốc hay chiếm được Miến Điện, song ngày càng lâm vào thế hạ phong trước sức mạnh hải quân ngày càng vượt trội của Mỹ.

Người Nhật thắng lợi trong chiến dịch Ichi-Go để tạo hành lang nối thông vùng kiểm soát ở Trung Quốc với Đông Dương, nhưng hạm đội Nhật gần như tan tành trong hải chiến vịnh Leyte (chương 41). Từ đây, trên biển người Nhật chỉ còn biết cố thủ cảm tử các hòn đảo để làm chậm bước tiến của quân Mỹ tới các đảo nhà của nước Nhật mà không còn khả năng phản kích.

Những chương cuối của “Thế chiến thứ Hai” dành cho các cuộc phản kích của Đồng Minh tại châu Âu trên mặt trận phía Tây và Balkan (chương 43), mặt trận Xô – Đức (chương 44), tại châu Á trong cuộc chiến tranh “nhảy cóc” chiếm đảo của người Mỹ (chương 45).

Chương 46 đến chương 48 kể lại cuộc gặp thượng đỉnh thứ hai của nguyên thủ Liên Xô – Mỹ – Anh tại Yalta trên bán đảo Crimea mới được Liên Xô giải phóng chưa lâu để dàn xếp về tương lai hậu chiến của châu Âu và thế giới, các cuộc tấn công đồng thời từ hai hướng đông và tây (chương 46, 47) và trận chiến đánh chiếm Berlin (chương 48).

Chương 49 và chương 50 là đoạn kết của nước Nhật: những cuộc không kích dữ dội vào các thành phố của Nhật Bản, lần đầu tiên vũ khí phân hạch được sử dụng trên thực tế và cho thấy sức hủy diệt khủng khiếp của nó, và cuối cùng là quyết định đầu hàng vô điều kiện của người Nhật để tránh cho các đảo nhà của họ phải chịu thêm tàn phá.

Sáu năm chiến tranh khốc liệt với quá nhiều biến cố xảy ra ở những địa điểm quá xa nhau sẽ rất khó để độc giả theo dõi, vì vậy, “Thế chiến thứ Hai” được bổ sung 24 bản đồ về tình hình các chiến trường, các trận đánh quan trọng cùng một phụ lục ảnh tư liệu giúp người đọc có cái nhìn trực quan hơn, làm cho các tường thuật từ ngữ trở nên sống động, dễ hiểu và gần gũi hơn.

Nguồn: https://zingnews.vn/the-gioi-trong-lua-dan-post1446248.html

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng