Connect with us

Sách hay

Tham vọng ‘siêu nhân hóa’ con người

Được phát hành

,

Thông qua cuốn sách “Cách mạng siêu nhân hóa”, tác giả Luc Ferry đưa ra những đối chiếu đa chiều, so sánh các quan điểm xoay quanh nỗ lực “siêu nhân hóa” con người.

cach mang sieu nhan hoa anh 1

Hình minh họa: pngall.

Những năm gần đây, công nghệ bùng nổ, mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng khiến không ít người hoang mang về nguy cơ bị thế chỗ, bị trí tuệ nhân tạo “thống trị”…

Những điều từng có vẻ chỉ nằm trong các tác phẩm khoa học viễn tưởng, con người cũng đang nghiên cứu và ứng dụng, trong đó có cả việc “siêu nhân hóa” con người, thí nghiệm phôi người để “sửa chữa”, “cải thiện” bộ gen theo ý muốn.

Những phát kiến này có vẻ nhiệm màu nhưng cũng thật đáng sợ. Những quyền năng mới mẻ của con người đặt ra những vấn đề sâu sắc về phương diện đạo đức, chính trị, kinh tế lẫn tinh thần. Trong cuốn sách Cách mạng siêu nhân hóa, Luc Ferry cố gắng nhận diện những vấn đề này một cách tường minh, nhằm xác định và chuẩn bị tinh thần đối mặt những thách thức chính yếu trong tương lai.

Trong buổi giao lưu ra mắt sách diễn ra vào sáng 25/3 tại Phố sách Hà Nội, các diễn giả và độc giả đã trao đổi về khái niệm “siêu nhân hóa”, về những tiềm năng và nguy cơ đi kèm.

cach mang sieu nhan hoa anh 2

Sách Cách mạng siêu nhân hóa của Luc Ferry. Ảnh: NN.

Cách mạng siêu nhân hóa và tham vọng bất tử

Với kiến thức và kinh nghiệm của mình, Luc Ferry bóc tách chi tiết những nội hàm của công nghệ y học nói riêng và cuộc cách mạng công nghệ nói chung. Sự phát triển của công nghệ nano, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin được Luc Ferry cho là sẽ làm thay đổi cả nền y học lẫn nền kinh tế trong 40 năm tới, cho phép con người xem xét nghề y dưới góc độ mới: không chỉ là “sửa chữa” đơn thuần mà còn là “cải tiến”, “nâng cấp” con người.

Ông cho rằng giới khoa học đang không ngừng thách thức giới hạn tác động tới loài ngoài. Hẳn nhiên, vẫn còn nhiều trở ngại, nhưng trên lý thuyết, không gì là không thể. Có thể một ngày nào đó, ta có thể “cải thiện” theo ý muốn, tác động tới một nét tính cách nào đó, trí thông minh, chiều cao, thể lực hay nét đẹp, lựa chọn giới tính, màu mắt hay màu tóc của những đứa con ta sẽ sinh ra?

Theo Luc Ferry, trên thế giới, đang có những nhóm nghiên cứu đầu tư nghiêm túc vào lĩnh vực này rồi. Ở Mỹ, một hệ tư tưởng mới đã phát triển. Các học giả, tiên tri, triết gia và những người dẫn dắt gọi nó là “siêu nhân hóa” (transhumanism).

Theo dịch giả Trần Thị Phương Thảo, thuật ngữ này dùng để chỉ niềm tin hoặc lý thuyết cho rằng loài người có thể tiến hóa vượt ra ngoài giới hạn về thể chất và tinh thần hiện tại để trở thành bất tử hoặc siêu phàm, đặc biệt là bằng phương tiện khoa học và công nghệ.

Chia sẻ tại buổi giao lưu sáng 25/3, dịch giả Trần Thị Phương Thảo nhận xét Ferry có cách tiếp cận đa chiều về chính trị học, khoa học và cả quản lý học. Bà cho rằng Cách mạng siêu nhân hóa có nhiều khái niệm mang tính chất nền tảng của triết học, với nhiều đối chiếu, so sánh đa chiều, đòi hỏi độc giả phải đọc từ từ để suy ngẫm.

Từ khái niệm siêu nhân hóa, ta nhận thấy tham vọng bất tử của con người. Ông Đinh Trần Tuấn Linh, chuyên gia về trí tuệ nhân tạo, cho rằng sau khi chán thế giới ảo, người ta cố gắng biến chuyển thế giới thật và những nghiên cứu kéo dài tuổi thọ chính là một nỗ lực “siêu nhân hóa” con người.

Nhưng có phải cứ sống lâu hơn là tốt không? Ông Đinh Trần Tuấn Linh đặt ra câu hỏi liệu chúng ta sẽ sống lâu hơn, hạnh phúc hơn, hay chỉ già đi và ngày một cau có với đời.

TS Nguyễn Chí Công, Giám đốc Bảo tàng Công nghệ thông tin; Trưởng tiểu ban mạng của Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin, nhận định rằng khái niệm siêu nhân hóa hay tham vọng bất tử không mới. Thực chất, giấc mơ trường sinh bất lão đã có từ xa xưa như Tần Thủy Hoàng cũng từng thử. Theo ông, cái đáng lo không phải là chúng ta sống thọ đến đâu, mà là chúng ta sống mà không giải quyết được những mâu thuẫn giữa người với người.

cach mang sieu nhan hoa anh 3

Từ trái sang phải: ông Đinh Trần Tuấn Linh, ông Nguyễn Chí Công, bà Trần Thị Phương Thảo. Ảnh: NN.

Những câu hỏi không dễ trả lời về cách con người tiến đến tương lai

Theo ông Đinh Trần Tuấn Linh, cuốn sách đưa đến một góc nhìn khác, có tính phê bình đối với trào lưu bất tử hóa loài người mà các nhà tương lai học, nhà sinh học ở Mỹ đang nghiên cứu. Sách yêu cầu chúng ta suy ngẫm về cách con người tiến đến tương lai thế nào cùng nhau.

Để nhìn nhận về sự siêu nhân hóa và tham vọng kéo dài tuổi thọ, Luc Ferry đã tiếp cận từ nhiều chiều: từ trường phái siêu nhân hóa, từ quan điểm tiến hóa của Darwin, từ quan điểm về giống loài của các nhà sinh vật học…

Những vấn đề đạo đức liên quan đến công nghệ can thiệp vào cơ thể người rất khó có thể trả lời “ủng hộ” hay “phản đối” đơn giản. Thực ra, những tiến bộ trong khoa học có thể mang lại những kết quả thực sự đáng ngưỡng mộ, đồng thời cũng có thể để lại những hậu quả kinh khủng.

Chia sẻ với các độc giả qua video, tác giả thừa nhận rằng rất ít người muốn chết, muốn già đi. Việc con người có thể sống lâu hơn, khỏe hơn là một điều tốt, dù vậy, chúng ta cần suy nghĩ về nó trên bình diện đạo đức, tinh thần, chính trị.

Ông cũng đặt ra những câu hỏi như: Nếu ta (gần như) bất tử, liệu ta còn muốn làm việc, còn muốn thức dậy vào mỗi sáng để đi làm? Liệu ta có bị chán nản và lười biếng xâm chiếm? Ta còn gì để học sau vô số thập kỷ tồn tại? Ta có còn muốn chinh phục những điều tuyệt vời, tiếp tục hoàn thiện bản thân?…

Hơn thế, chính bản sắc riêng của con người sẽ bị thử thách. Với cuộc cách mạng siêu nhân hóa, chúng ta có thể quyết định những gì định nghĩa nên bản thân con người và những gì ta muốn trở thành.

Thông qua cuốn sách Cách mạng siêu nhân hóa, Luc Ferry nỗ lực bóc tách, hiểu cái gì đang tồn tại, mang đến hình ảnh chính xác nhất có thể về thực tại, góp phần giúp nắm bắt “thời điểm của thực tại trong tư tưởng” để chuẩn bị tinh thần đối mặt sao cho phù hợp với những biến đổi trong tương lai, đồng thời, quay lại chiêm nghiệm một cách đầy đủ và sâu sắc hơn về những xung đột đang diễn ra trên thế giới.

Luc Ferrry, sinh năm 1951, là một giáo sư triết học, một chính khách Pháp. Ông từng đảm nhiệm chức vụ tùy viên khoa học tại Trung tâm nghiên cứu quốc gia Pháp. Từ 2002 đến 2004, ông làm bộ trưởng Bộ Thanh niên, Giáo dục quốc gia và Nghiên cứu chính trong chính phủ của Tổng thống Jaques Chirac. Năm 2009, Tổng thống Nicolas Sarkozy bổ nhiệm ông vào Ủy ban tư vấn đạo đức quốc gia Pháp.

Nguồn: https://zingnews.vn/tham-vong-sieu-nhan-hoa-con-nguoi-post1415333.html

Sách hay

Dám nghi, dám nghĩ, dám nghỉ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách này ghi chép những câu chuyện nhỏ về cuộc sống của tác giả quanh vấn đề Dám Nghi – Dám Nghĩ – Dám Nghỉ ở ba nơi: Mekong – Sài Gòn – San Francisco.

Thấy trên bảng có hai bài toán thống kê, chàng sinh viên nghĩ rằng chúng là bài tập về nhà. Vài ngày sau, anh nộp bài cho giáo sư với lời giải thích “bài tập lần này hơi khó hơn bình thường” nên anh nộp trễ.

Truyền thông nói gì về giới hạn?

Họ nhắc đến những trải nghiệm thương đau như là nấu hỏng, chi phí tốn kém, hay phải lau dọn bếp khá là mệt đằng sau. Kiểu là như vậy đấy.

Tôi bảo với cô nhà báo rằng, tôi sẽ ái ngại nếu những người thân quen quanh tôi, người mà biết hết mọi nốt thăng, nốt trầm, nốt lỗi trong đời tôi đọc bài báo này. Tôi hỏi cô có cách nào chỉnh sửa được không. Cô cười giải thích với tôi rằng, chúng ta nên nghĩ ở góc độ người đọc.

Người đọc báo mạng cần thông tin chính xác (tức không đưa thông tin sai), nhưng súc tích ngắn gọn và họ sẽ tiếp tục đọc thêm nhiều bài khác. Người đọc báo mạng không cần tôi giải thích mọi ngóc ngách ưu khuyết về cuộc đời tôi, tôi đâu phải là nhân vật của công chúng. Cô nhà báo gợi ý tôi xem bản nháp có chỗ nào chưa đúng thì sửa chữa, chứ chưa đủ thì rất khó để viết thành đủ.

Gioi han anh 1
Ảnh minh hoạ. Nguồn: BBC.

Bên cạnh nhu cầu đọc nhanh của độc giả, việc thuyết phục tòa soạn cho nhiều “đất” để viết dài là một vấn đề khác. Tôi tuy vẫn ái ngại, nhưng thấy cô nói có lý. Tri thức của độc giả đến từ việc họ đọc đa dạng nội dung, và đọc nhiều mỗi ngày. Nếu tôi có duyên được đóng góp một bài đúng-tuy-chưa-đủ thì cũng là một vinh dự rồi. Vậy thôi tôi đồng ý cho đăng.

Nhân nói chuyện về báo, tôi muốn chia sẻ một bài báo tôi đọc gần đây. Năm 1939, tại giảng đường Đại học UC Berkeley, một sinh viên tiến sĩ tên là George Dantzig đến lớp trễ. Thấy trên bảng có hai bài toán thống kê, chàng sinh viên nghĩ rằng chúng là bài tập về nhà. Vài ngày sau, anh nộp bài cho giáo sư với lời giải thích “bài tập lần này hơi khó hơn bình thường” nên anh nộp trễ.

Ông giáo sư giật mình, không phải vì chàng sinh viên nộp bài trễ mà vì anh đã… nộp bài. Bài toán viết trên bảng hôm ấy không phải là bài tập về nhà. Chúng là hai bài toán thống kê nổi tiếng nhân loại chưa có đáp án. Ông giáo sư viết trên bảng cho lớp biết, và anh sinh viên George Dantzig đã… giải ra.

Nguồn: https://znews.vn/chang-sinh-vien-nham-de-toan-noi-tieng-nhan-loai-voi-bai-tap-ve-nha-post1511859.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1
Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2
Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng