Connect with us

Sách hay

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 – Bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử

Được phát hành

,

Cuốn sách là tập hợp các bài viết phản ánh quá trình chuẩn bị, tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Các tác giả đã đưa ra một góc nhìn mới về sự kiện lịch sử trọng đại này trong bối cảnh hiện nay.

Các trận đánh trong Tết Mậu Thân làm cho người ta có cảm tưởng rằng Khe Sanh có vẻ như là cuộc bao vây để đấy. Nếu vậy thì Bắc Việt Nam là bậc thầy trong việc nghi binh.

Xuan Mau Than,  noi day 1968,  noi day xuan 1968,  tien cong 1968,  xuan mau than 1968 anh 1

Quân giải phóng làm chủ đường Lê Lợi ở Sài Gòn (1968). Ảnh: Tư liệu TTXVN.

Tài liệu của Mỹ viết: “Cuối năm 1967, quân đội Mỹ đã cảm thấy chiến thắng trong tầm tay, các báo cáo gửi về Washington mô tả chi tiết những thất bại hàng ngày của cộng sản… các chiến dịch tìm và diệt cho mùa khô đã đẩy lùi các chiến binh vào sâu trong rừng và kẹt ở đó”. Ở góc độ khác, cuộc phản công mùa khô lần thứ hai thất bại, Mc Naughton, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng, trong Bị vong lục gửi Mắc Namara, viết: xuất hiện “tình trạng phân cực ngày một tăng đang xảy ra trên nước Mỹ với những mầm mống của sự chia rẽ tệ hại nhất trong nhân dân Mỹ kể từ hơn một thế kỷ nay”. Nghiêm trọng hơn, sự phân hóa diễn ra ngay trong giới chóp bu điều hành chiến tranh xâm lược. Ngày 19-5-1967, trong Bị vong lục gửi Tổng thống Mỹ Giônxơn, Bộ trưởng Quốc phòng Mắc Namara trình bày lập luận chống chiến lược mở rộng chiến tranh, cho rằng nước Mỹ đã đi vào con đường bế tắc. Bởi, dù mở rộng chiến tranh hay theo một chính sách ôn hòa hiện thời cũng không thay đổi được tinh thần quyết chiến đấu của Hà Nội đến thắng lợi; nếu tăng quân và tăng cường đánh phá miền Bắc, sẽ mở ra khả năng Mỹ dấn sâu vào và sa lầy hơn ở Đông Nam Á, thậm chí lao vào một cuộc chiến tranh với Trung Quốc và Liên Xô.

Xác định cách đánh chiến lược mới, “sáng kiến lịch sử

Phát huy thắng lợi của cuộc kháng chiến ở cả hai miền Nam – Bắc, từ cuối năm 1966, đầu năm 1967, “từ tình thế mới có lợi cho ta, bất lợi cho địch”, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chủ trương tìm một cách đánh chiến lược mới, tiến tới xác lập cục diện “vừa đánh vừa đàm”, “vừa đàm vừa đánh”. Vận dụng sách lược mềm dẻo, thông qua tuyên bố của Bộ Ngoại giao, khả năng phía Việt Nam sẽ thực hiện đàm phán nếu Mỹ chấm dứt ném bom không điều kiện miền Bắc, chứ không gắn với việc đòi Mỹ rút khỏi miền Nam, một chủ trương mới được hé mở. Kế hoạch chiến lược Đông – Xuân 1967-1968 được tổ chức nghiên cứu, khởi thảo.

Đây là cả quá trình bàn bạc, thảo luận, cân nhắc… giữa Tổng hành dinh với lãnh đạo, chỉ huy chiến trường, với các ngành, các cấp hữu quan. Bộ thống soái tối cao nhận thấy, nếu cứ tiếp tục mở các hoạt động quân sự như trước, đánh theo cách đánh cũ thì khó tận dụng được thời cơ có lợi để tạo nên chuyển biến chiến lược trên chiến trường, chiến tranh sẽ vẫn diễn ra trong thế nhùng nhằng, giằng co. Trong khi Tổ kế hoạch Cục Tác chiến còn đang trong quá trình tìm tòi cách đánh nhưng vẫn chưa nghĩ ra, thì “chính số đồng chí lãnh đạo chủ chốt Bộ Chính trị (đồng chí Lê Duẩn…) và Quân ủy Trung ương đã trao đổi, đề xuất giải pháp mới. Hai tư duy chỉ đạo vừa sáng tạo, vừa táo bạo đã kết thành ý định quyết tâm chiến lược là đột ngột chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu của ta từ rừng núi, nông thôn đánh thẳng vào sào huyệt, đầu não hiểm yếu nhất của địch là các thành phố, căn cứ trung tâm… Đánh vào đó, ta sẽ tạo được bất ngờ lớn về chiến lược, giành thắng lợi lớn”.

Tác giả Lê Minh cho biết, trong một lần đồng chí Nguyễn Chí Thanh từ chiến trường miền Nam ra Hà Nội họp Bộ Chính trị, chuyện trò với chúng tôi tại nhà riêng, về cách đánh, anh nói đại ý “đánh vào đầu não, tim, dạ dày của nó thì chân tay nó rã rời… chặt vào chân nó thì thấy chảy máu me nhưng không can chi cả… Nhưng chỉ dùng một cái kim châm một cái vô tim thì nó chết. Tức là phải đánh vào chỗ hiểm, chỗ hiểm của địch là ở đâu? Là thành phố, thị trấn, căn cứ đầu não, kho tàng, sào huyệt của chúng”.

Truyền thông nước ngoài và một số nhân vật trong cuộc có nhiều nhận xét xác đáng. Daniel Ellsberg viết: “Quy mô và sự phối hợp của cuộc Tổng tiến công vào dịp Tết gần như là tổng hợp các cuộc tiến công xảy ra đồng thời tại hầu hết tỉnh ở miền Nam Việt Nam… sẽ mãi mãi khiến người ta phải kinh ngạc”. Oétmolen thừa nhận, “có 36 thành phố, thị xã của 44 tỉnh lỵ; 5 trong 6 thành phố tự trị; 64/242 quận lị và 50 ấp bị tiến công trong dịp Tết Mậu Thân 1968”.

Bất ngờ vì đối phương chọn chiến trường hoàn toàn khác trước, mà còn vào thời điểm không ngờ nhất, nguyên Tùy viên kinh tế Đại sứ quán Mỹ kể lại: “… Ở Sài Gòn cuộc sống vẫn êm ả, người ta không có gì để phải lo lắng vì cộng sản chưa bao giờ dám tấn công vào một thành phố thủ đô và vừa tuyên bố 48 giờ ngừng bắn. 1/3 quân Việt Nam Cộng hòa đang nghỉ phép, Chính phủ cũng đang nghỉ. Trong không khí chào mừng năm mới, các quán bar phục vụ lính Mỹ hết công suất… Chính quyền Sài Gòn tổ chức một buổi tiệc tại nhà khách…”. Chính việc đưa chiến tranh vào thành thị của ta đã làm thế chiến lược của Mỹ bị đảo lộn, làm rung chuyển nước Mỹ, dân chúng Mỹ phải sửng sốt, bàng hoàng.

Nghi binh chiến lược

Bộ Tổng Tư lệnh còn chỉ đạo việc nghi binh nhằm đánh lạc hướng Bộ Chỉ huy đối phương. Tháng 9-1967, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho đăng báo bài “Thắng lợi lớn, nhiệm vụ lớn”, tiếp tục khẳng định phương châm đánh lâu dài, bảo tồn lực lượng. Lập tức Cục Tình báo Trung ương Mỹ CIA cho dịch và phân phát tới các chi nhánh truyền thông công khai ở nước ngoài. Tháng 11-1967, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam phổ biến trực tiếp cho các tư lệnh chiến trường miền Nam kế hoạch nghi binh chiến lược, một bản kế hoạch tác chiến giả… Các thông tin giả kể trên càng củng cố nhận định của Oétmolen rằng Việt Nam thất bại lớn, mà trận Đắk Tô là bước mở đầu, còn Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn nhận định, năm 1968 trọng tâm kế hoạch của Việt cộng là chống phá bình định.

Nhằm dụ đối phương lún sâu thêm vào những phán đoán sai lầm, tháng 1-1968, quân ta phối hợp với nước bạn Lào mở chiến dịch Nậm Bạc; nhiều đơn vị chủ lực Quân giải phóng rời căn cứ hướng về các đô thị, trong đó có Sài Gòn – Gia Định; một số sư đoàn chủ lực miền Bắc tập kết quanh vùng rừng núi Khe Sanh. Trước động thái đó, Oétmolen hủy bỏ dự án mở cuộc phản công chiến lược lần thứ ba, đưa quân về giữ Sài Gòn; dừng các cuộc hành quân ở phía Bắc, tăng lực lượng cho hướng Trị – Thiên. Vậy là, từ thế chủ động “phản công”, “tìm diệt”, lực lượng quân sự Mỹ buộc phải chuyển sang phòng ngự bị động mà hai hướng chính là quanh Sài Gòn và Trị – Thiên. Trong khi đối phương còn đang lúng túng tìm cách đối phó, thì đêm 20-1-1968, quân ta bất ngờ nổ súng tiến công tập đoàn cứ điểm Khe Sanh. Đạn pháo của quân ta dội xuống Khe Sanh đã xua tan đám mây mù mà chính quyền Mỹ cố tạo ra lừa mị công chúng Mỹ rằng họ đang thắng và đã thấy “ánh sáng cuối đường hầm” (!). Quá sốc, giới chức Mỹ cũng tính toán như ở Điện Biên Phủ 14 năm trước, rằng có nên dùng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Khe Sanh?. Nhiều tác giả Việt Nam và Mỹ nhận định rằng, cả Nhà Trắng, Lầu Năm Góc và Sài Gòn đều nghĩ đến khả năng Việt cộng tập trung lực lượng để tiến hành một trận “Điện Biên Phủ” ở Khe Sanh. Bằng cách đánh vây lấn với những trận địa chiến hào của ta, họ cho rằng ta sẽ dứt điểm Khe Sanh như Điện Biên Phủ. Tác giả Michael Maclear bình luận: “Các trận đánh trong Tết Mậu Thân làm cho người ta có cảm tưởng rằng Khe Sanh có vẻ như là cuộc bao vây để đấy. Nếu vậy thì Bắc Việt Nam là bậc thầy trong việc nghi binh”.

Nguồn: https://zingnews.vn/chien-luoc-cua-cuoc-tien-cong-va-noi-day-xuan-mau-than-1968-post1394345.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng