Connect with us

Sách hay

Bông mai vàng nở sớm

Được phát hành

,

Từ 5 giờ sáng, hàng đoàn người tay xách nách mang kéo về nhà văn hóa, nơi những chuyến xe nghĩa tình đưa người về quê tránh dịch. Thùy cùng các bạn tình nguyện viên tất bật dò danh sách, kiểm tra, sắp xếp bà con lên xe.

Bông mai vàng nở sớm - Ảnh 1.

Đoàn xe chuyển bánh. Sắp lên cao tốc, Thùy thấy người phụ nữ gần năm mươi có đôi mắt sâu làm hai gò má nhô lên trên khuôn mặt hốc hác, ngồi cạnh cháu bé gần cuối xe, hai tay ôm một chiếc túi vải nhỏ màu nâu, cứ loay hoay, ngó qua ngó lại tìm kiếm cái gì.

Thùy bước đến: “Chị cần gì không chị?”. Chị không trả lời mà rụt rè hỏi: “Có cái ghế nhỏ kia, chị ngồi được không em?”. Đó là chiếc ghế phụ để sát lối đi. “Được chị, nhưng – Thùy nói – chị cứ ngồi ghế của chị cho thoải mái”. “À không, ý chị là… ông chồng chị. À, mà thôi em à”.

Đôi mắt chị đo đỏ, ướt như muốn khóc và đôi tay chị dường như ôm chặt hơn chiếc túi vải màu nâu… Thùy thoáng hiểu ra sự tình: chị đang ôm hũ cốt của chồng, chị muốn nhường chiếc ghế cho chồng. Bất giác, Thùy thấy một luồng lành lạnh chạy dọc sống lưng.

Khi sắp xếp được thêm một ghế ở hàng dưới, chị đứng lên, nhẹ nhàng đặt chiếc túi vải xuống chỗ mình đang ngồi, nắm tay Thùy rưng rưng: “Cảm ơn em quá chừng em à. May quá, ổng có chỗ ngồi đàng hoàng rồi”.

Trước khi bước xuống hàng ghế phía dưới, chị vuốt tóc con gái, âu yếm dặn: “Ngồi với ba nghe con”. Đôi mắt sáng, đen láy của cháu gái bỗng chùng xuống. Cháu lí nhí “Dạ”, mắt đăm đăm nhìn, đặt tay lên chiếc túi vải màu nâu.

Đó là hai mẹ con chị Nga và cháu Mai, hai trong số 23 người, kể cả chồng chị Nga, trên chiếc xe số 2. Chiều trời đổ mưa mịt mù, lạnh. Chị kéo chiếc túi xách, lôi chiếc áo khoác cho con gái. Một gói giấy trong chiếc bao nilông chợt rơi ra, những hạt màu nâu nhỏ như hạt tiêu đổ xuống, túa ào trên sàn xe.

Chị hoảng hốt ngồi xổm xuống sàn, hai bàn tay khô khốc, sần chai vội lùa, hốt lấy hốt để. Thùy vội bước đến: “Không sao đâu chị, để em phụ”. Vừa nhanh tay nhặt, Thùy hỏi: “Hạt gì vậy chị?”. “Phân em à, phân để cây mai ra hoa”.

Chị nghèn nghẹn giải thích: “Của ông chồng chị đó, ổng định gởi về để thằng con trai chăm cây chờ Tết, nhưng…”. Chồng chị, anh Thế, làm nghề chở hàng bằng chiếc ba gác máy thuê. Nhiều hôm người quen gọi anh đi phụ hồ.

Có lần anh làm trên một sân thượng nơi chủ nhà có mấy cây mai rất đẹp. Thấy ông chủ vui tính, anh hỏi cách chăm mai. Chẳng là ở quê anh mới trồng một cây mai nhỏ ngoài sân sau Tết năm ngoái. Ông chủ nhà liền gói cho anh ít phân và quảng cáo: “Rắc mấy hạt này vào gốc rồi tưới nước, Tết nó ra bông chói mắt luôn”.

Thích lắm, anh gọi điện kể với con trai đang sống với bà nội ở quê, bảo: “Ba gửi gói phân về trước, con tưới cho cây mai, Tết ba má về coi bông chói mắt nghe”. Nhưng rồi anh chưa kịp gửi, còn bản thân anh thì không bao giờ về nữa.

Thu dọn xong phần phân đổ tháo, Thùy ngồi cạnh chị Nga chuyện trò. Ở quê, mảnh vườn nhỏ bằng nắm tay không cách nào nuôi nổi năm miệng ăn, anh chị phải tìm đường vào Sài Gòn kiếm sống. Anh chị dẫn theo đứa nhỏ, đứa lớn học lớp 12 ở nhà với bà nội. Ban ngày anh đi làm, chị ở nhà chăm con.

Chiều tối anh về thì chị lê la ở những hàng quán bán đậu phộng, trứng cút. “Họ nói tha phương cầu thực – chị tâm sự – Chớ mình còn cầu nhiều thứ khác, em à”. Chị kể có lần chị đi bán về khuya, đói bụng quá, ngang qua tiệm phở, nghe mùi nước phở thốc vào mũi, ruột chị cứ như lộn lên.

Rụt rè, chị đến nói với chị bán phở đang đứng sau xe: bán em tô nước với bánh phở thôi được không chị?… Nghe cả câu chuyện dài Thùy mới hiểu ra: chị còn “cầu” chén cơm, chiếc áo, thang thuốc cho mẹ già, “cầu” sách vở học hành cho con, “cầu” tấm tôn tấm ván cho căn nhà chống mưa chống bão…

Nhưng rồi cũng đến lúc chẳng “cầu” được nữa. Dịch bệnh tràn về. Cách ly. Phong tỏa. Ai ở đâu ở yên đó. Bánh xe chở thuê của anh không quay được vòng nào. Thúng đậu phộng, trứng cút của chị nằm im trong góc xó.

Cư dân khu nhà trọ thu mình ngồi trong những căn phòng chật chội, nóng bức, tối tăm đợi những bịch gạo, thùng mì, bó rau, quả trứng từ thiện lúc có lúc không… Bức bách quá, anh chị đã tính đường về quê. Nhưng vẫn không kịp.

“Con Covid đã đến”, chị nói. Nhà dì Bảy bán chổi dạo bị F0, rồi đến nhà anh Tuấn xe hủ tiếu đẩy, đến nhà bà Hạ cùng “ngành hàng” đậu phộng, trứng cút với chị. Và đến cả nhà chị. F0. F0. Cách ly. Bệnh viện thu dung. Bệnh viện dã chiến.

Nửa tháng sau, chị và cháu Mai có kết quả âm tính, được trở về khu nhà trọ. Còn anh Thế chồng chị vốn bị bệnh động kinh, nhiễm nặng, được đưa lên tầng trên, tầng trên nữa để rồi mấy tuần sau chị nhận được điện thoại của bệnh viện hồi sức: anh không còn chống chọi được nữa. Và rồi vào một buổi chiều trời vừa xâm xẩm tối, hũ tro cốt của anh được đưa về khu nhà trọ…

Trời sụp tối, vẫn mưa, những cơn mưa miền Trung tầm tã. Xe vẫn chạy lắc lư. Thỉnh thoảng chị đứng lên, vịn bước lên hàng ghế trước. Chị cũng cẩn trọng cầm chiếc túi vải màu nâu lên, ngồi xuống ghế và đặt chiếc túi vào lòng, hai tay ôm chặt.

Mờ sáng, đoàn xe đưa bà con về đến quê nhà. Những chiếc xe chờ sẵn đưa bà con về khu cách ly. Nhìn qua khung cửa nhỏ của chiếc xe màu xanh, Thùy thấy mẹ con chị Nga ngồi lặng lẽ. Hai tay chị khư khư ôm chiếc túi vải màu nâu.

oOo

Thùy là em tôi, con bà dì trong họ. Từ miền Trung về, Thùy đến thăm tôi, kể không ngớt về chuyến xe nghĩa tình với bao nhiêu buồn vui, về chị Nga ôm túi vải màu nâu bên trong có hũ tro cốt của chồng.

Khi Thùy nhắc đến chồng chị Nga – anh Thế – chạy xe ba gác, làm thợ hồ, gói phân bón mai anh định gửi về, tôi bàng hoàng. Lẽ nào có sự trùng hợp kỳ lạ vậy sao. Tôi nôn nóng hỏi Thùy: “Anh chị ở Đức Minh phải không em?”. Thùy ngạc nhiên: “Dạ, Đức Minh, sao anh biết?”, “Vậy là đúng rồi em, gói phân bón là của anh cho đó mà”.

Tôi còn nhớ rất rõ. Sáng hôm ấy, hai người thợ đến lót gạch chiếc sân thượng nhỏ của nhà tôi. Qua giọng nói tôi nhận ra một trong hai người là đồng hương. Anh nhỏ người, da đen trông khắc khổ, nhưng miệng luôn có nụ cười dễ mến.

Thấy cây mai trong góc sân, anh có vẻ thích, khen đẹp và hỏi cách bón phân, kể chuyện đang trồng cây mai ở quê nhà. Sẵn có bịch phân mà năm nào cứ đến tháng 8 âm là anh bạn chuyên trồng mai gửi cho tôi để chuẩn bị bón cho cây mai “ra bông chói mắt”, tôi đã gói cho anh một phần.

Những đường gạch men anh lát trên sân thượng vẫn còn mới, nửa bịch phân chia đôi với anh tôi giữ lại vẫn còn đó, vậy mà…

oOo

Thành phố hết giãn cách, các tỉnh không còn cách ly, cuộc sống bình thường mới chộn rộn chuẩn bị Tết. Nhân một chuyến công tác về tỉnh, Thùy nói thế nào em cũng sắp xếp về Đức Minh thăm nhà chị Nga. Mừng quá, tôi bảo: “Thắp giùm anh cây hương cho anh Thế, tiện thể em gửi giùm chút quà cho cháu bé, nghe em”.

Bẵng đi ít ngày, một buổi sáng, tôi bỗng nhận được điện thoại. Mở nghe giọng miền Trung quê tôi đậm đặc: “Chào anh. Em là Nga, vợ anh Thế. Em nghe cô Thùy nói… Cảm ơn, cảm ơn, quý hóa quá anh ơi”.

Và giọng chị trở nên nghẹn ngào: “Mớ phân bón anh cho nữa, quý hóa quá. Cây mai Tết này ra bông, chắc chồng em dưới đó…”. Chị cho biết ngay khi từ Sài Gòn về, ngày cách ly đầu tiên, chị đã gửi gói phân bón mai cho Tú, con trai chị, và dặn con nhờ cụ Ba hàng xóm chỉ cho cách bón.

Cây mai có vẻ khơi được nhiều chuyện vui, chị kể tiếp: “Tết năm ngoái cả nhà về ăn Tết. Mùng năm không biết ở đâu ổng lôi về cái gốc mai cũng trộng lắm, đem cắt trụi lủi trụi lơ”. Anh trồng cây mai vào cái thùng phuy cắt nửa, đặt trước sân đầu hè.

Trời Tết vẫn còn cái lạnh của mùa đông, vậy mà sáng nào anh cũng ra tưới nước cho cây mai và đứng ngắm. “Có hồi tui ghẹo ổng – chị Nga cười – nói cái cây đồ yêu gì đâu mà ngắm hoài. Ổng chỉ cười nói mai đẹp vầy mà bà kêu đồ yêu”.

Những ngày Tết qua đi, vào lại thành phố, ở khu nhà trọ, thỉnh thoảng anh lại gọi về hỏi Tú: “Cây mai nứt mụt nhiều không con? Nhớ tưới nước cho nó nghe”…

oOo

Thùy trở lại thành phố và kể tiếp câu chuyện gia đình chị Nga. Nhìn lên bàn thờ, nơi có hai tấm ảnh – anh Thế và cha anh – dán trên một khung gỗ đơn sơ, chị Nga kể: “Em à, khi nghe cú điện thoại họ báo ổng không qua nổi, chị thấy người cứ quay tròn như con vụ rồi ngã chúi xuống. Em biết không, đến tận chiều hồn vía chị mới tỉnh em à”.

Nhưng nghiệt ngã quá, chị vừa tỉnh thì Tú lại gọi như reo lên trong điện thoại báo tin: “Mẹ ơi, mẹ ơi con đậu đại học rồi mẹ ơi…”. Nghe con báo tin vui mà nước mắt chị đầm đìa, ướt đẫm cả hai chiếc gò má cao. Cả đêm ấy chị không chợp mắt được phút nào: trong đầu, trong tim chị nỗi đau và niềm vui cứ trộn vào nhau, nhảy múa bấn loạn.

Chị đang nói chuyện với Thùy thì Tú đi đâu về. “Tú đó em. Chào cô đi con. Mới một năm mà nó lớn tồng ngồng. Đậu được đại học là ước mơ của cha nó mà nó tính không đi học đó em”. Thấy cháu ái ngại nhìn mẹ, Thùy đùa vui lái qua chuyện khác: “Cháu có chăm sóc cây mai của cha không?”.

“Dạ có – Tú trả lời và vui vẻ dắt Thùy ra khoe cây mai – Tốt ghê hông? Đẹp không cô?”. “Ồ, đẹp quá”. Nhìn cây mai, Thùy nghĩ mới trồng một năm mà nó vươn lên đâm cành lá xum xuê, xanh um. Cũng như Tú, thiếu thốn trăm bề mà vẫn “lớn tồng ngồng”, vẫn đặt chân được vào trường đại học. Ấy vậy mà Tú có ý định thôi học, bởi “ba mất, một mình mẹ làm sao lo nổi cho cả nhà được hả cô?”.

Ngay từ nhà chị Nga, Thùy gọi cho tôi bàn tính chuyện giúp Tú vào Sài Gòn học đại học. Thùy cũng gọi điện cho bà chủ trọ mà gia đình chị Nga thuê phòng mấy năm nay nhờ giúp đỡ.

Bà reo lên mừng rỡ trong điện thoại: “Mèn đất ơi, con thằng Thế, con Nga hả, nó vào đi chớ, tiền bạc gì trời. Phòng vợ chồng nó tui vẫn để đó mà, vẫn đặt cái bình nhang cúng vọng thằng Thế mà. Nó vào thắp nhang cho cha nó rồi cứ ở đó thôi” .

Khi Thùy chia tay ra về, cả nhà ra sân đưa chân. Đang chào chào nói nói tở mở thì bỗng bé Mai rứt khỏi tay mẹ phóng đến cây mai reo lên: “Mẹ ơi, mẹ ơi, cây mai có bông, cây mai có bông”. Tất cả đều bước đến cây mai và ồ lên: ở một nhánh thấp, chen sau những chiếc lá xanh um là một bông hoa mai nhiều cánh vàng rực.

Nghe xôn xao, cụ Ba hàng xóm bước qua: “À, mấy cái bông nở sớm đó mà” và cụ nói với Tú: “Ngắt hết đi, ngắt cả mấy cái nụ trồng trộng nữa, dành sức cho nó. Chà, cây mai này Tết ra bông dữ lắm nghe”.

Nghe cụ Ba nói “ngắt hết”, bé Mai mếu máo phản đối: “Không, đừng ngắt, bông của ba con mà…”. Tất cả mọi người nhìn sững. Chị Nga ôm chầm lấy bé Mai, hai mẹ con òa khóc. Bà nội lẳng lặng bước vào trong, đến bên bàn thờ anh Thế thắp một cây hương.

Nguồn: https://tuoitre.vn/bong-mai-vang-no-som-20220115160243335.htm

Sách hay

Làm sao để có được năng lực làm Dân

Được phát hành

,

Bởi

Không ai sinh ra đã là con người đúng nghĩa. Tương tự vậy, để trở thành một công dân biết làm “đúng việc” của mình, mỗi người cũng cần phải trải qua một hành trình khai minh để hiểu “làm dân” nghĩa là gì và trang bị cho mình những năng lực cần thiết để thực hiện sứ mệnh thiêng liêng đó. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Không ai sinh ra đã là con người đúng nghĩa. Tương tự vậy, để trở thành một công dân biết làm “đúng việc” của mình, mỗi người cũng cần phải trải qua một hành trình khai minh để hiểu “làm dân” nghĩa là gì và trang bị cho mình những năng lực cần thiết để thực hiện sứ mệnh thiêng liêng đó. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Gian Tu Trung anh 1Gian Tu Trung anh 2

Làm sao để có được năng lực làm Dân

Không ai sinh ra đã là con người đúng nghĩa. Tương tự vậy, để trở thành một công dân biết làm “đúng việc” của mình, mỗi người cũng cần phải trải qua một hành trình khai minh để hiểu “làm dân” nghĩa là gì và trang bị cho mình những năng lực cần thiết để thực hiện sứ mệnh thiêng liêng đó. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đúng việc

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-dung-viec-mot-goc-nhin-ve-cau-chuyen-khai-minh-post1512185.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Kinh tế học tốt và kinh tế học tồi trong một thế giới bất ổn

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách “Kinh tế học thời khó nhọc” của hai nhà kinh tế từng đoạt Nobel đưa ra các ý tưởng và giải pháp để xây dựng một xã hội nhân văn hơn.

Sau Hiểu nghèo thoát nghèo, bộ đôi nhà kinh tế học Abhijit V. Banerjee và Esther Duflo từng chiến thắng Nobel năm 2019 tiếp tục cho ra mắt một cuốn sách bàn về kinh tế cho những người làm chính sách cũng như người bình thường mơ về một thế giới tốt đẹp và lành mạnh.

Cuốn sách Kinh tế học thời khó nhọc đưa ra giải pháp thuyết phục dựa trên chủ nghĩa can thiệp thông minh và một xã hội lấy lòng trắc ẩn và tôn trọng lẫn nhau làm cốt lõi khi thế giới đang được vận hành trên sự bất ổn.

Sach kinh te anh 1
Cuốn sách Kinh tế học thời khóc nhọc. Ảnh: NXB Trẻ.

Kinh tế học tồi bóp méo tranh luận công khai

Kinh tế học thời khó nhọc gồm 9 chương chính, đưa ra cách nền kinh tế đang vận hành như thế nào trước những vấn đề chung của nhân loại như tình trạng nhập cư và nạn phân biệt đối xử, quá trình toàn cầu hóa và sự sụp đổ của công nghệ, tốc độ tăng trưởng chậm và biến đổi thời tiết…

Một trong những tranh luận nổi bật nhất của nước Mỹ nói riêng cũng như các nước phát triển nói chung là vấn đề dòng người nhập cư. Phần lớn mọi người cho rằng dòng người nhập cư ồ ạt đổ vào đất nước của họ sẽ làm ảnh hưởng đến cư dân địa phương.

Cuốn sách đưa ra dẫn chứng về các cuộc di cư trong lịch sử chứng minh rằng dòng người đó không hề cướp mất việc làm của người bản xứ, thay vào đó giúp vạch trần những lỗ hổng trong dịch vụ công và nhà ở xã hội mà chính sách của quốc gia đó đang thực thi.

Qua đó, mọi người có thể thấy được việc nhập cư có vẻ có lợi cả với dân nhập cư lẫn dân địa phương. Nguyên nhân này bắt nguồn từ bản chất dị biệt của thị trường lao động và gần như không ăn khớp với câu chuyện cung cầu phổ thông.

Kinh tế học tồi tạo ra cơ sở cho việc tặng người giàu những món quà hào nhoáng, siết chặt các chương trình phúc lợi, đồng thời rao giảng ý tưởng nhà nước bất lực và tham nhũng, trong khi người nghèo thì lười biếng. Từ đó mở đường cho tình trạng bất bình đẳng và sự giận dữ khôn nguôi từ phần đông bộ phận người lao động nghèo.

Kinh tế học tốt trong thế giới bất ổn

Nhiệm vụ hàng đầu của Kinh tế học thời khó nhọc là làm thế nào để những hiểu biết sâu sắc này của hai nhà kinh tế học mang lại một thế giới nhân đạo hơn.

Một cuốn sách chỉ ra những trường hợp khi chính sách kinh tế thất bại, khi ý thức hệ che mắt khiến con người bỏ qua những điều hiển nhiên, nhưng cũng đồng thời cho thấy những hoàn cảnh và nguyên do mà kinh tế học tốt đã tỏ ra hữu dụng, nhất là trong thế giới ngày nay.

Khi con người tôn trọng lẫn nhau và giàu lòng trắc ẩn, mong muốn những điều tốt đẹp vì lợi ích chung là lúc kinh tế học tốt được thực thi.

Kinh tế học tốt đẩy mạnh việc phát thuốc kháng virus cho bệnh nhân HIV ở các nước đang phát triển để đảm bảo xét nghiệm được rộng rãi hơn và cứu sống hàng triệu sinh mạng. Cũng nhờ kinh tế học tốt mà sự ngu dốt và ý thức hệ đã bị đánh bại, giúp cho màn tẩm thuốc diệt côn trùng được phát miễn phí tại châu Phi, nhờ đó giảm một nửa số trẻ em bị tử vong do sốt rét.

Sach kinh te anh 2
Hai nhà kinh tế học Abhijit V. Banerjee (trái) và Esther Duflo. Ảnh: IMF.

Những nhà kinh tế vì người nghèo

Trước Kinh tế học thời khó nhọc, Abhijit V. Banerjee và Esther Duflo từng nổi tiếng với cuốn sách Hiểu nghèo thoát nghèo. 2

Vậy nên, là những nhà kinh tế chuyên nghiên cứu các nước nghèo, hai tác giả hiểu rõ được thực trạng nền kinh tế đang diễn ra ra sao, đặc biệt là ở những quốc gia họ từng sống và làm việc. Họ cũng ý thức sâu sắc được rằng thực tế đáng chú ý nhất trong 40 năm qua là tốc độ thay đổi của nền kinh tế cả theo chiều hướng tích cực và tiêu cực.

Kinh tế học thời khó nhọc bàn về cả các vấn đề cũng như cách thức để sửa chữa thế giới này, với hy vọng mang đến sự cân bằng và bình đẳng hơn giữa các quốc gia.

Kinh tế học tưởng tượng ra một thế giới năng động mà không có rào chắn ngăn cản. Kinh tế học là những ý tưởng, chúng có thể thúc đẩy để thay đổi. Khi các nhà kinh tế học sẵn lòng thử nghiệm các ý tưởng và giải pháp, cho dù có làm sai hay đúng, miễn là đưa đến cái đích tối thượng, chính là xây dựng một thế giới nhân văn hơn.

Nguồn: https://znews.vn/kinh-te-hoc-tot-va-kinh-te-hoc-toi-trong-mot-the-gioi-bat-on-post1509322.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Sách về tình thầy trò của hai vị tướng nhận hai đề cử Sách Quốc gia

Được phát hành

,

Bởi

“Một người thầy, một cuộc đời đức độ, nhân văn và rất đỗi bình dị”. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã viết về ông Ba Quốc như vậy trong sách “Người thầy”.

tinh bao anh 1
Ông Ba Quốc (ngồi) và thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh. Ảnh: Tư liệu.

Người thầy của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh là một tác phẩm giá trị về cuộc đời người tình báo, Thiếu tướng Đặng Trần Đức (tức ông Ba Quốc).

Trong cuốn sách Người Thầy, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã khắc họa sâu sắc mối quan hệ đặc biệt giữa ông và người thầy đáng kính – Thiếu tướng Đặng Trần Đức (tức ông Ba Quốc). Cuốn sách không chỉ kể lại những câu chuyện xúc động mà còn chứa đựng những bài học sâu sắc về lòng trung thành, sự hy sinh và ý chí phụng sự đất nước.

Cuốn sách Người thầy cho ta thấy mối quan hệ của thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh và ông Ba Quốc – Đặng Trần Đức không chỉ đơn giản dừng lại ở mức độ thầy trò.

Ông Ba Quốc đã rèn luyện cho người lính trẻ Nguyễn Chí Vịnh biết, hiểu mọi thứ về nghề tình báo. Khi tác giả Nguyễn Chí Vịnh mới ở Việt Nam sang Campuchia ông cho làm ở Phòng N, sau xuống đội X, là đội nhận những nhiệm vụ quan trọng nhất của phòng.

Sau nhiều thử thách thì làm trợ lý trực tiếp cho ông Ba, rồi những bữa cơm chiều rỉ rả chuyện đời thường ông Ba kể chuyện cho học trò nghe về mọi điều đã trải qua trong đời mình, chuyện đời thường nhưng sau mỗi câu chuyện là kinh nghiệm, cách làm việc, đối nhân xử thế… đều là những bài học quý với thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh.

tinh bao anh 2
Sách Người thầy.

Kể hành trình dọc biên giới phía Bắc những năm còn chiến tranh, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh cho thấy hình ảnh một người thầy tình báo can trường, đầy trách nhiệm.

Trong một lần di chuyển qua biên giới, khi Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đề nghị đổi vị trí ngồi vì lo ngại pháo kích, ông Ba Quốc đã khẳng định dứt khoát: “Không, tôi ngồi ghế trước.” Hình ảnh ông ung dung trên ghế trước trong bối cảnh biên giới căng thẳng là minh chứng sống động cho tinh thần dũng cảm và trách nhiệm của một người lính tình báo.

Đối với tướng Nguyễn Chí Vịnh, những câu chuyện bên bếp lửa tại nhà người dân ở Lạng Sơn hay những ngày rong ruổi trên đường số 4 đã trở thành những ký ức không thể phai mờ. Trong khoảnh khắc giản dị đó, ông Ba Quốc đã có dịp chia sẻ nhiều bài học từ kinh nghiệm thực chiến, từ lý tưởng sống cho người học trò.

Thông qua những câu chuyện quá khứ, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh được biết sâu hơn về con người ông. Đó là tình cảm sâu kín của người tình báo vĩ đại với đồng chí, đồng đội, với những người trong gia đình…

Cho đến những năm tháng cuối đời, thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh vẫn ở bên người thầy của mình. Vào lúc đó, ông Ba đã tâm sự: “Tình yêu chỉ có một và lý tưởng cũng chỉ có một”. Với ông, tình yêu chỉ có một là tình yêu dành cho cái đẹp và lẽ phải. Lý tưởng của ông cũng vậy, điều cao nhất ông hướng tới là hy sinh tất cả những gì mình có để đất nước có độc lập và hòa bình, người dân được hưởng hạnh phúc.

Cuộc đời của ông Ba Quốc không chỉ là tấm gương sáng về trí tuệ và bản lĩnh mà còn là bài học nhân văn sâu sắc. Cuối cuốn sách, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh viết: “Một người thầy, một cuộc đời đức độ, nhân văn và rất đỗi bình dị”. Tình thầy trò giữa ông Ba và Thượng tướng Vịnh mãi mãi là biểu tượng của tình yêu, lý tưởng và sự hy sinh vì tổ quốc.

Với những giá trị to lớn, cuốn sách Người thầy đã được đề cử ở hai hạng mục là Sách được bạn đọc yêu thích và Sách Văn học – Nghệ thuật tại giải Sách Quốc gia 2024.

Nguồn: https://znews.vn/sach-ve-tinh-thay-tro-cua-hai-vi-tuong-nhan-hai-de-cu-sach-quoc-gia-post1512302.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng