Connect with us

Sách hay

Xác định 30 bài thơ bị chép lẫn giữa Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm

Được phát hành

,

Trong cuốn sách chuyên khảo của mình, GS.TS Kiều Thu Hoạch đã xử lý một vấn đề khó mà giới nghiên cứu văn học trung đại bỏ ngỏ.

Lâu nay, giới nghiên cứu văn học trung đại đều biết giữa thơ Nôm Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập và thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm với Bạch Vân thi tập bị lẫn lộn khoảng 30 bài, hiện chưa phân định rõ bài nào của tác giả nào.

Một vấn đề khó

Về mặt văn bản Nôm gốc, Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi đã có bản in Phúc Khê, khắc in năm Tự Đức 21 (1868), nên các bản phiên âm đều theo bản in này. Còn thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều là bản chép tay (hiện trong kho sách của Viện Hán Nôm có tới 3 bản), chưa có bản in, nên cần bản có độ tin cậy cao để phiên âm.

Mặt khác, do tình hình văn bản thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm phức tạp, nên các công trình phiên âm chú giải không đồng nhất về số lượng các bài (có bản phiên âm chú giải 177 bài, có bản 176 bài, lại có bản 151 bài). Riêng hơn 30 bài trùng thơ Nôm của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, các công trình đều phát hiện nhưng chỉ đưa vào phần khảo dị để theo dõi, chứ chưa xác minh từng bài này thuộc về ai trong số hai nhà thơ.

Mặc dù sự nhầm lẫn này vẫn tồn tại, nhưng nhiều năm qua người ta vẫn phiên âm, xuất bản tác phẩm thơ Nôm (còn lẫn hơn 30 bài) của hai cây đại thụ văn học nước nhà. Điều đáng nói hơn là cho tới nay vẫn chưa có công trình, chuyên khảo nào quan tâm giải quyết thấu đáo tình trạng này để “trả lại cho César cái gì thuộc về César”.

Trước thực trạng nghiên cứu này, với tinh thần và trách nhiệm của một nhà khoa học từng trải về chữ Nôm nhiều năm, GS.TS Kiều Thu Hoạch đã thực hiện một cuốn sách chuyên khảo công phu tên là Thơ Nôm Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm khảo cứu văn bản học so sánh phiên âm chú giải mới. Qua đó, tác giả xử lý một vấn đề rất khó mà giới nghiên cứu văn học trung đại bỏ ngỏ, nếu không nói là chịu bó tay: phân định rõ hơn 30 bài thơ Nôm bị chép lẫn giữa Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm tồn tại hơn 60 năm nay (Tính từ thời điểm xuất bản công trình Nguyễn Trãi quốc âm thi tập do Phạm Trọng Điềm, Trần Văn Giáp phiên âm chú giải, Nhà xuất bản Văn sử địa 1956, tới nay)..

Để thực hiện việc phân định này, việc đầu tiên tác giả tiến hành là khảo cứu lịch sử văn bản Quốc âm thi tậpBạch Vân thi tập. Tiếp đó, ông thực hiện việc khảo cứu so sánh liên văn bản giữa hai tác phẩm, tạo cơ sở phân định tác giả của bài trùng lặp. Rồi sau đó, ông khảo cứu theo hướng ngôn ngữ học, trên cơ sở đó phân định/xác định rõ hơn 30 bài thơ bị chép lẫn nhau giữa Quốc âm thi tập Bạch Vân thi tập, đồng thời xác định rõ tác giả của từng bài.

Lịch sử văn bản Quốc âm thi tậpBạch Vân thi tậpVề khảo cứu lịch sử văn bản, tác giả đã xem xét lược sử hành trang của hai nhà thơ lớn của thế kỷ XV và thế kỷ XVI là Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, cùng hoàn cảnh sáng tác hai tập thơ Quốc âm thi tậpBạch Vân thi tập, trên cơ sở đó hiểu rõ lịch sử văn bản tác phẩm theo đúng nguyên tắc của Văn bản học.

Về hành trang của nhà thơ Nguyễn Trãi (1380-1442), tác giả đã tìm hiểu quá trình 10 năm tham gia khởi nghĩa Lam Sơn của ông, thời kỳ là quan dưới thời vua Lê Thái Tổ và thời vua Lê Thái Tông, thời kỳ xin nghỉ việc quan về ở ẩn Côn Sơn, sau đó ông bị án oan thảm khốc bị xử tội chết và tru di tam tộc (vụ án Lệ Chi Viên).

Hai mươi năm sau vụ án Lệ Chi Viên, Nguyễn Trãi được vua Lê Thánh Tông giải oan và cho người đi tìm di cảo thơ văn ông (khi xảy ra thảm án Lệ Chi Viên thơ văn ông đã bị tiêu hủy hoặc bị thất lạc hầu hết). Sau 13 năm cất công đi tìm, Trần Khắc Kiệm (sống cùng thời Lê Thánh Tông) đã sưu tầm di cảo của Nguyễn Trãi soạn thành Ức Trai ditập (1840).

Sau đó, Ức trai di tập lại bị thất lạc. Phải đến đời vua Minh Mệnh và Tự Đức, Ức trai di tập mới được sưu tập và dựng lại. Và may mắn thay, Quốc âm thitập là một bộ phận thơ Nôm trong Ức trai di tập, gồm hơn 200 bài, là tập thơ Nôm xưa nhất tìm lại được.

Theo tác giả, Quốc âm thi tập phần lớn đều được sáng tác trong thời gian Nguyễn Trãi nghỉ ở Côn Sơn, vì khi nghỉ ở đây cũng là lúc tâm hồn ông thư thái nhất, mà cũng nhiều tâm trạng nhất.

Về hành trang của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), tác giả tìm hiểu quá trình 8 năm làm quan dưới triều Mạc, thời gian treo ấn từ quan nghỉ ở quê nhà, dựng Bạch Vân am, lấy thưởng ngoạn phong cảnh, ngâm vịnh thơ Hán, thơ Nôm, dạy học làm vui.

Theo tác giả, thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm được sáng tác vào thời gian ông về trí sĩ tại Bạch Am Vân. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đi vào công chúng yêu thơ qua mấy trăm năm, suốt từ thế kỷ XVI đến XX nhưng vẫn chưa được khắc in. Do cứ sao đi chép lại mãi thì chuyện tam sao thất bản khó tránh khỏi và đây cũng là nguyên do khiến văn bản của Bạch vân thi tập lẫn lộn với Quốc âm thi tập.

Tho Nom anh 2
GS.TS Kiều Thu Hoạch. Ảnh: M.Đ.

“Trả lại cho César cái gì thuộc về César”

Về khảo cứu so sánh liên văn bản giữa hai tác phẩm, GS.TS Kiều Thu Hoạch cho biết cả Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đều làm thơ chữ Hán và chữ Nôm mà điều thú vị là có một số câu thơ Nôm phảng phất ý tứ của thơ Hán. Do đó, khi phát hiện ra sự song trùng như vậy, thì chúng ta coi đó là cứ liệu văn bản học để nắm chắc chủ thể sáng tạo bài thơ đó là ai.

Chẳng hạn bài Du Nam Hoa tự (Chơi chùa Nam Hoa) trong thơ Nguyễn Trãi có hai câu cuối bài: Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy / Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần (Trước cửa một dòng nước Tào Khê chảy / Rửa sạch bao nhiêu bụi bặm kiếp nhân gian). Trong Quốc âm thi tập, bài 64 có hai câu cuối: Tào Khê rửa ngàn tầm suối / Sạch chẳng còn một chút phàm. Câu thơ Nôm rõ ràng là cùng ý tưởng không muốn nói là dịch nghĩa từ chữ Hán. Như vậy, có thể xác định bài thơ Nôm này đích thực là của Nguyễn Trãi.

Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có tình hình tương tự. Người đọc cũng bắt gặp những câu chữ Hán cùng chung ý tưởng với những câu thơ Nôm. Và điều đó góp phần xác định vị trí đích thực về mặt văn bản của thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ví dụ bài thơ chữ Hán Tân niên hý tác (Năm mới làm thơ chơi) của Nguyễn Bỉnh Khiêm có hai câu cuối: Hà nhật tái phùng Nghiêu Thuấn thế / Thái bình thiên tử thái bình dân (Bao giờ lại gặp được thời Nghiêu Thuấn / Vua của thời thái bình dân của thời thái bình). Bài thơ Nôm 133 trong Bạch Vân thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có câu tương tự: Mừng thấy thời vần đời mở trị / Thái bình thiên tử thái bình dân.

Về khảo cứu theo hướng ngôn ngữ học để tìm hiểu tác giả của Quốc âm thi tậpBạch Vân thi tập, tác giả đã xem xét bài khảo cứu khá công phu của nhà ngôn ngữ Nguyễn Tài Cẩn “Thử tìm cách xác định tác giả một số bài thơ hiện chưa rõ của Nguyễn Trãi hay Nguyễn Bỉnh Khiêm” và đưa ra những so sánh, nhận định và quan điểm của mình.

Theo đó, để phân định thơ Nôm của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, tác giả cho rằng chúng ta cần chú ý đến đặc ngữ của từng tác giả. Nghĩa là chúng ta tìm ra cái ngôn từ mà Nguyễn Trãi hay dùng, còn Nguyễn Bỉnh Khiêm không dùng và ngược lại. Ví dụ như cách kết hợp các từ tổ, hư từ (lọ, hễ…): chẳng hạn, mở đầu, hễ chỉ thấy ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, còn lọ chỉ thấy ở Nguyễn Trãi. Ở Nguyễn Trãi, từ ngoài chưng rất hay dùng ở câu thứ 7. Cũng như vậy, nếu ta thấy từ đã từng, đạo thường, lâng lâng, hồng trần kết thúc ở vị trí gieo vần, ta biết ngay đó là tác phẩm của Nguyễn Trãi. Còn khi ta thấy từ phận tự nhiên kết thúc câu, hay chúa thánh minh kết thúc bài thì đó là thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Sau đặc ngữ, tác giả cho rằng môi trường sinh thái nhân văn, cũng như hoàn cảnh địa lý mà nơi Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm cư ngụ, cũng là một trong những yếu tố để phân định thơ của hai ông. Chẳng hạn ngữ liệu quen dùng của hai nhà thơ ở nơi ẩn dật, Nguyễn Bỉnh Khiêm thường hay nói thuyền và bến, còn Nguyễn Trãi là vùng đồi núi Côn Sơn với ngàn thông cổ thụ cao vút, khe suối róc rách…

Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến một số yếu tố phân định khác như cách dùng điển cố, điển tích, triết lý của hai nhà thơ, thói quen sử dụng ngôn từ (Nguyễn Bỉnh Khiêm dùng từ đậm chất dân dã, thơ ông hay nói đến con vật… Hiện tượng này không có trong Quốc âm thi tập…), chủ đề thơ (Nguyễn Trãi nói về đạo thường, còn Nguyễn Bỉnh Khiêm là phát huy khôn dại trong ứng xử)…

Trên cơ sở tổng hợp các cứ liệu ngôn ngữ học và cứ liệu văn bản học, tác giả sách đã so sánh và xác định rõ “quyền tác giả” của từng bài. Từ đó ông đã loại 13 bài khỏi Quốc âm thi tập và 22 bài khỏi Bạch Vân thi tập.

Sau khi hoàn thành vấn đề xác định văn bản học giữa Quốc âm thi tậpBạch vân thi tập, GS.TS Kiều Thu Hoạch còn thực hiện việc phiên âm chú giải lại hai tập thơ này theo một phương pháp tiếp cận mới, phiên âm theo ngữ âm học lịch sử và chú giải theo thần thuyên thích (giải thích kỹ càng, nói đủ cả sự, cả lẽ) các từ cổ và điển cố, có ghi xuất xứ cụ thể rõ ràng.

Ghi nhận những gì mà cuốn sách đem lại, PGS.TS Trịnh Khắc Mạnh – Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm viết: “Đây là một công trình khoa học rất công phu của một người có thâm niên tích lũy và thực hành về Hán Nôm học và văn học cổ […] Cho nên, sách khi xuất bản chắc chắn sẽ là một đóng góp vô cùng bổ ích để bạn đọc hiểu rõ hơn về hai danh nhân văn hóa vĩ đại của dân tộc”.

Nguồn: https://znews.vn/xac-dinh-30-bai-tho-bi-chep-lan-giua-nguyen-trai-va-nguyen-binh-khiem-post1449176.html

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng