Connect with us

Sách hay

Xác định 30 bài thơ bị chép lẫn giữa Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm

Được phát hành

,

Trong cuốn sách chuyên khảo của mình, GS.TS Kiều Thu Hoạch đã xử lý một vấn đề khó mà giới nghiên cứu văn học trung đại bỏ ngỏ.

Lâu nay, giới nghiên cứu văn học trung đại đều biết giữa thơ Nôm Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập và thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm với Bạch Vân thi tập bị lẫn lộn khoảng 30 bài, hiện chưa phân định rõ bài nào của tác giả nào.

Một vấn đề khó

Về mặt văn bản Nôm gốc, Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi đã có bản in Phúc Khê, khắc in năm Tự Đức 21 (1868), nên các bản phiên âm đều theo bản in này. Còn thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều là bản chép tay (hiện trong kho sách của Viện Hán Nôm có tới 3 bản), chưa có bản in, nên cần bản có độ tin cậy cao để phiên âm.

Mặt khác, do tình hình văn bản thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm phức tạp, nên các công trình phiên âm chú giải không đồng nhất về số lượng các bài (có bản phiên âm chú giải 177 bài, có bản 176 bài, lại có bản 151 bài). Riêng hơn 30 bài trùng thơ Nôm của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, các công trình đều phát hiện nhưng chỉ đưa vào phần khảo dị để theo dõi, chứ chưa xác minh từng bài này thuộc về ai trong số hai nhà thơ.

Advertisement

Mặc dù sự nhầm lẫn này vẫn tồn tại, nhưng nhiều năm qua người ta vẫn phiên âm, xuất bản tác phẩm thơ Nôm (còn lẫn hơn 30 bài) của hai cây đại thụ văn học nước nhà. Điều đáng nói hơn là cho tới nay vẫn chưa có công trình, chuyên khảo nào quan tâm giải quyết thấu đáo tình trạng này để “trả lại cho César cái gì thuộc về César”.

Trước thực trạng nghiên cứu này, với tinh thần và trách nhiệm của một nhà khoa học từng trải về chữ Nôm nhiều năm, GS.TS Kiều Thu Hoạch đã thực hiện một cuốn sách chuyên khảo công phu tên là Thơ Nôm Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm khảo cứu văn bản học so sánh phiên âm chú giải mới. Qua đó, tác giả xử lý một vấn đề rất khó mà giới nghiên cứu văn học trung đại bỏ ngỏ, nếu không nói là chịu bó tay: phân định rõ hơn 30 bài thơ Nôm bị chép lẫn giữa Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm tồn tại hơn 60 năm nay (Tính từ thời điểm xuất bản công trình Nguyễn Trãi quốc âm thi tập do Phạm Trọng Điềm, Trần Văn Giáp phiên âm chú giải, Nhà xuất bản Văn sử địa 1956, tới nay)..

Để thực hiện việc phân định này, việc đầu tiên tác giả tiến hành là khảo cứu lịch sử văn bản Quốc âm thi tậpBạch Vân thi tập. Tiếp đó, ông thực hiện việc khảo cứu so sánh liên văn bản giữa hai tác phẩm, tạo cơ sở phân định tác giả của bài trùng lặp. Rồi sau đó, ông khảo cứu theo hướng ngôn ngữ học, trên cơ sở đó phân định/xác định rõ hơn 30 bài thơ bị chép lẫn nhau giữa Quốc âm thi tập Bạch Vân thi tập, đồng thời xác định rõ tác giả của từng bài.

Tho Nom anh 1

Sách Thơ Nôm Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ảnh: Việt Linh.

Lịch sử văn bản Quốc âm thi tậpBạch Vân thi tập

Về khảo cứu lịch sử văn bản, tác giả đã xem xét lược sử hành trang của hai nhà thơ lớn của thế kỷ XV và thế kỷ XVI là Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, cùng hoàn cảnh sáng tác hai tập thơ Quốc âm thi tậpBạch Vân thi tập, trên cơ sở đó hiểu rõ lịch sử văn bản tác phẩm theo đúng nguyên tắc của Văn bản học.

Về hành trang của nhà thơ Nguyễn Trãi (1380-1442), tác giả đã tìm hiểu quá trình 10 năm tham gia khởi nghĩa Lam Sơn của ông, thời kỳ là quan dưới thời vua Lê Thái Tổ và thời vua Lê Thái Tông, thời kỳ xin nghỉ việc quan về ở ẩn Côn Sơn, sau đó ông bị án oan thảm khốc bị xử tội chết và tru di tam tộc (vụ án Lệ Chi Viên).

Advertisement

Hai mươi năm sau vụ án Lệ Chi Viên, Nguyễn Trãi được vua Lê Thánh Tông giải oan và cho người đi tìm di cảo thơ văn ông (khi xảy ra thảm án Lệ Chi Viên thơ văn ông đã bị tiêu hủy hoặc bị thất lạc hầu hết). Sau 13 năm cất công đi tìm, Trần Khắc Kiệm (sống cùng thời Lê Thánh Tông) đã sưu tầm di cảo của Nguyễn Trãi soạn thành Ức Trai ditập (1840).

Sau đó, Ức trai di tập lại bị thất lạc. Phải đến đời vua Minh Mệnh và Tự Đức, Ức trai di tập mới được sưu tập và dựng lại. Và may mắn thay, Quốc âm thitập là một bộ phận thơ Nôm trong Ức trai di tập, gồm hơn 200 bài, là tập thơ Nôm xưa nhất tìm lại được.

Theo tác giả, Quốc âm thi tập phần lớn đều được sáng tác trong thời gian Nguyễn Trãi nghỉ ở Côn Sơn, vì khi nghỉ ở đây cũng là lúc tâm hồn ông thư thái nhất, mà cũng nhiều tâm trạng nhất.

Về hành trang của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), tác giả tìm hiểu quá trình 8 năm làm quan dưới triều Mạc, thời gian treo ấn từ quan nghỉ ở quê nhà, dựng Bạch Vân am, lấy thưởng ngoạn phong cảnh, ngâm vịnh thơ Hán, thơ Nôm, dạy học làm vui.

Theo tác giả, thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm được sáng tác vào thời gian ông về trí sĩ tại Bạch Am Vân. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đi vào công chúng yêu thơ qua mấy trăm năm, suốt từ thế kỷ XVI đến XX nhưng vẫn chưa được khắc in. Do cứ sao đi chép lại mãi thì chuyện tam sao thất bản khó tránh khỏi và đây cũng là nguyên do khiến văn bản của Bạch vân thi tập lẫn lộn với Quốc âm thi tập.

Advertisement
Tho Nom anh 2

GS.TS Kiều Thu Hoạch. Ảnh: M.Đ.

“Trả lại cho César cái gì thuộc về César”

Về khảo cứu so sánh liên văn bản giữa hai tác phẩm, GS.TS Kiều Thu Hoạch cho biết cả Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đều làm thơ chữ Hán và chữ Nôm mà điều thú vị là có một số câu thơ Nôm phảng phất ý tứ của thơ Hán. Do đó, khi phát hiện ra sự song trùng như vậy, thì chúng ta coi đó là cứ liệu văn bản học để nắm chắc chủ thể sáng tạo bài thơ đó là ai.

Chẳng hạn bài Du Nam Hoa tự (Chơi chùa Nam Hoa) trong thơ Nguyễn Trãi có hai câu cuối bài: Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy / Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần (Trước cửa một dòng nước Tào Khê chảy / Rửa sạch bao nhiêu bụi bặm kiếp nhân gian). Trong Quốc âm thi tập, bài 64 có hai câu cuối: Tào Khê rửa ngàn tầm suối / Sạch chẳng còn một chút phàm. Câu thơ Nôm rõ ràng là cùng ý tưởng không muốn nói là dịch nghĩa từ chữ Hán. Như vậy, có thể xác định bài thơ Nôm này đích thực là của Nguyễn Trãi.

Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có tình hình tương tự. Người đọc cũng bắt gặp những câu chữ Hán cùng chung ý tưởng với những câu thơ Nôm. Và điều đó góp phần xác định vị trí đích thực về mặt văn bản của thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ví dụ bài thơ chữ Hán Tân niên hý tác (Năm mới làm thơ chơi) của Nguyễn Bỉnh Khiêm có hai câu cuối: Hà nhật tái phùng Nghiêu Thuấn thế / Thái bình thiên tử thái bình dân (Bao giờ lại gặp được thời Nghiêu Thuấn / Vua của thời thái bình dân của thời thái bình). Bài thơ Nôm 133 trong Bạch Vân thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có câu tương tự: Mừng thấy thời vần đời mở trị / Thái bình thiên tử thái bình dân.

Về khảo cứu theo hướng ngôn ngữ học để tìm hiểu tác giả của Quốc âm thi tậpBạch Vân thi tập, tác giả đã xem xét bài khảo cứu khá công phu của nhà ngôn ngữ Nguyễn Tài Cẩn “Thử tìm cách xác định tác giả một số bài thơ hiện chưa rõ của Nguyễn Trãi hay Nguyễn Bỉnh Khiêm” và đưa ra những so sánh, nhận định và quan điểm của mình.

Theo đó, để phân định thơ Nôm của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, tác giả cho rằng chúng ta cần chú ý đến đặc ngữ của từng tác giả. Nghĩa là chúng ta tìm ra cái ngôn từ mà Nguyễn Trãi hay dùng, còn Nguyễn Bỉnh Khiêm không dùng và ngược lại. Ví dụ như cách kết hợp các từ tổ, hư từ (lọ, hễ…): chẳng hạn, mở đầu, hễ chỉ thấy ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, còn lọ chỉ thấy ở Nguyễn Trãi. Ở Nguyễn Trãi, từ ngoài chưng rất hay dùng ở câu thứ 7. Cũng như vậy, nếu ta thấy từ đã từng, đạo thường, lâng lâng, hồng trần kết thúc ở vị trí gieo vần, ta biết ngay đó là tác phẩm của Nguyễn Trãi. Còn khi ta thấy từ phận tự nhiên kết thúc câu, hay chúa thánh minh kết thúc bài thì đó là thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Advertisement

Sau đặc ngữ, tác giả cho rằng môi trường sinh thái nhân văn, cũng như hoàn cảnh địa lý mà nơi Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm cư ngụ, cũng là một trong những yếu tố để phân định thơ của hai ông. Chẳng hạn ngữ liệu quen dùng của hai nhà thơ ở nơi ẩn dật, Nguyễn Bỉnh Khiêm thường hay nói thuyền và bến, còn Nguyễn Trãi là vùng đồi núi Côn Sơn với ngàn thông cổ thụ cao vút, khe suối róc rách…

Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến một số yếu tố phân định khác như cách dùng điển cố, điển tích, triết lý của hai nhà thơ, thói quen sử dụng ngôn từ (Nguyễn Bỉnh Khiêm dùng từ đậm chất dân dã, thơ ông hay nói đến con vật… Hiện tượng này không có trong Quốc âm thi tập…), chủ đề thơ (Nguyễn Trãi nói về đạo thường, còn Nguyễn Bỉnh Khiêm là phát huy khôn dại trong ứng xử)…

Trên cơ sở tổng hợp các cứ liệu ngôn ngữ học và cứ liệu văn bản học, tác giả sách đã so sánh và xác định rõ “quyền tác giả” của từng bài. Từ đó ông đã loại 13 bài khỏi Quốc âm thi tập và 22 bài khỏi Bạch Vân thi tập.

Sau khi hoàn thành vấn đề xác định văn bản học giữa Quốc âm thi tậpBạch vân thi tập, GS.TS Kiều Thu Hoạch còn thực hiện việc phiên âm chú giải lại hai tập thơ này theo một phương pháp tiếp cận mới, phiên âm theo ngữ âm học lịch sử và chú giải theo thần thuyên thích (giải thích kỹ càng, nói đủ cả sự, cả lẽ) các từ cổ và điển cố, có ghi xuất xứ cụ thể rõ ràng.

Ghi nhận những gì mà cuốn sách đem lại, PGS.TS Trịnh Khắc Mạnh – Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm viết: “Đây là một công trình khoa học rất công phu của một người có thâm niên tích lũy và thực hành về Hán Nôm học và văn học cổ […] Cho nên, sách khi xuất bản chắc chắn sẽ là một đóng góp vô cùng bổ ích để bạn đọc hiểu rõ hơn về hai danh nhân văn hóa vĩ đại của dân tộc”.

Advertisement

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho ZNews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. ZNews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/xac-dinh-30-bai-tho-bi-chep-lan-giua-nguyen-trai-va-nguyen-binh-khiem-post1449176.html

Advertisement
Tiếp tục đọc
Quảng cáo
Nhấn vào đây để bình luận

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sách hay

Lịch sử chưa kể về ramen

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một khảo cứu thú vị về lịch sử món mì ramen ở Nhật Bản thông qua lăng kính phân tích và mối liên hệ chặt chẽ của món ăn với địa lý, chính trị, quan hệ đối ngoại, khoa học dinh dưỡng, truyền thông và bản sắc dân tộc.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 cho thấy Zhu Shun Shui đã chỉ cho Mitsukuni (cận vệ của Tokugawa Mitsukuni) cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa.

Mì ramen được giới thiệu lần đầu đến Nhật Bản vào năm 1665, năm 1884 hay năm 1910? Tiền thân của nó liệu có phải là món ăn được gọi với cái tên ūshin udon, Nankin soba hay Shina soba? Tùy thuộc vào câu trả lời mà chúng ta sẽ nghiệm suy về từng món ăn khác nhau với một giai thoại nguồn cội riêng, cùng một quỹ đạo lịch sử đặc thù mang đến các góc nhìn cụ thể về đất nước Nhật Bản. […]

Mi ra men anh 1

Bìa cuốn sách

Giai thoại đầu tiên, và cũng sống động nhất, đã xuất hiện ban đầu trong công trình nghiên cứu mang tính tiên phong về lịch sử của mì ramen (được xuất bản năm 1987) của nhà sử học về ẩm thực Kosuge Keiko, trong đó ấn định thời điểm món ăn này được trình làng là vào những năm 1660, đồng thời cho rằng Tokugawa Mitsukuni (tên khác là Mito Kōmon, 1628 − 1701) – vị lãnh chúa huyền thoại thời phong kiến (daimyō) nắm hàng thứ hai sau Mạc chủ (shōgun) (1) – là người đầu tiên thưởng thức món mì ramen ở Nhật Bản.

Là nhân vật lịch sử nổi tiếng ở Nhật và từng được một bộ phim truyền hình dài tập mô tả như một vị hảo hán, ở gần cuối mỗi tập phim, Tokugawa Mitsukuni thường tiết lộ danh tính của mình cho những kẻ xấu bằng cách để lộ ra hình ảnh chiếc inrō (hộp đựng trang trí sơn mài kích cỡ nhỏ) có khắc gia huy của dòng họ ông, cho thấy ông là vị daimyō trong vùng.

Advertisement

Câu thoại “Ngươi không nhận ra gia huy này sao?” (Kono mondokoro ga me ni hairanuka?) được Kaku-san (cận vệ của Mitsukuni) nhắc lại trong đoạn cao trào của mỗi tập phim nhằm khôi phục lại trật tự và cấp bậc, và khiến những kẻ bất lương ngang ngược phải lập tức cầu xin sự khoan hồng.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 về các hoạt động của Mitsukuni cho thấy rằng Zhu Shun Shui – một người Trung Quốc tị nạn khỏi chính quyền nhà Minh sống ở Mito vào thời điểm đó (2) – đã chỉ cho Mitsukuni cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa nhiều khả năng chính là món mì ramen ngày nay (3).

Mặc dù Mitsukuni được biết đến nhiều nhất trong lịch sử Nhật Bản khi đã khởi xướng kế hoạch kỳ vĩ biên soạn nên Dai Nihon Shi – hay Lịch sử vĩ đại của Nhật Bản – một cuốn sách mất gần 250 năm và mười thế hệ để hoàn thành, ông cũng là một người ca tụng triết học Lý học (Neo- Confucianism) (4) và đã tìm đến Trung Quốc để được soi đường chỉ lối cách trị nước.

Ông do vậy đã tham vấn và kết giao với Zhu, người trước đó từng nắm chức thượng quan ở Trung Quốc dưới thời nhà Minh nhưng quyết định đến Nhật Bản vào năm 1665 do phải lưu vong khỏi chế độ cai trị của Mãn Châu.

Mi ra men anh 2

Lãnh chúa Tokugawa Mitsukuni. Nguồn: wikipedia.

Zhu trở thành một trong những cố vấn quan trọng nhất của Mitsukuni, và làm việc trong chính quyền cai trị của ông này trong 17 năm tiếp theo cho đến khi qua đời vào năm 1682. Vai trò quan trọng của Zhu trong đội ngũ cố vấn của vị daimyō đã giúp ông có được một cuộc sống thoải mái, cùng một bia mộ nổi bật còn tồn tại cho đến ngày nay trong khu nghĩa trang của gia tộc Tokugawa nhánh Mito (5).

Advertisement

Trong thời gian hầu cận daimyō, Zhu biết được rằng Mitsukuni là một người rất thích ăn udon – loại mì nước hiện vẫn phổ biến ở Nhật Bản – với sợi mì làm từ bột mì sử dụng với nước dùng dashi (làm từ cá ngừ khô và tảo bẹ).

Vào thế kỷ 17, người Nhật thường ăn mì udon với quả mơ ngâm (umeboshi) và vừng. Thấy vậy, Zhu đã gợi ý về năm thành phần thường được sử dụng trong món mì nước Trung Quốc để vị daimyō vùng Mito có thể thêm vào nhằm cải thiện hương vị của món ăn. Năm thành phần (ūshin) mà ông chủ ý đề xuất gồm: rễ kiệu (rakkyō), tỏi, hẹ tỏi (nira), hành lá và gừng (6).

Từ những dữ kiện này, nhà sử học về ẩm thực Kosuge phỏng đoán rằng Tokugawa Mitsukuni chính là cha đẻ của tập tục ăn mì nước Trung Quốc ở Nhật Bản. Sau này Bảo tàng Ramen ở Shin-Yokohama đã phổ biến rộng rãi câu chuyện trên, và kết quả là vào năm 2003, Tập đoàn Thực phẩm Nissin của Nhật Bản nhà sản xuất mì ramen ăn liền lớn nhất thế giới – trong một thời gian ngắn đã cho ra – mắt nhãn hiệu mì ăn liền U-shin có in hình gia huy của gia tộc Tokugawa, được điểm tô bằng giai thoại về Mitsukuni và Zhu.

Mặc dù khó xác định liệu món ăn từng được ưa chuộng bởi vị lãnh chúa nổi tiếng của vùng Mito kia tương thích ra sao với món ăn ngày nay được gọi với cái tên “mì ramen”, cần ghi nhớ rằng câu chuyện được lưu truyền rộng rãi ở trên về sự xuất hiện tại Nhật Bản của món mì nước kiểu người Hoa đã thiết lập nên một giai thoại nguồn cội trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên hiện đại – một thời đại được đánh dấu bằng việc người Nhật có xu hướng học hỏi người Trung Quốc.

Mặc dù câu chuyện trên được coi như một phiên bản bao trùm đầy lôi cuốn về nguồn gốc của món ăn, với đầy đủ các nhân vật ngoài đời thực cùng những tương tác tưởng tượng dựa trên các cách diễn giải không thành kiến đối với những ghi chép lịch sử, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhấn mạnh sự ngưỡng mộ của người Nhật đối với một nước Trung Quốc thời tiền Thanh.

Advertisement

—————-

1. Một tước hiệu đặc biệt dành cho những vị tướng quân có chức vụ cao nhất trong thời kỳ phong kiến của Nhật Bản. (ND)

2. Khi triều đại nhà Thanh củng cố quyền lực của mình lên miền nam Trung Quốc, một số học giả Nho giáo làm việc cho chính quyền nhà Minh đã trốn sang Đại Hàn và Nhật Bản để làm cố vấn.

3. Kosuge Keiko, Nippon Rāmen Monogatari: Chūka soba wa itsu doko de umareta ka (Tokyo: Shinshindō, 1987), tr.45-59.

4. Tư tưởng triết lý Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Lý học có thể được xem là nỗ lực hợp lý hóa cũng như thế tục hóa Nho giáo bằng cách loại bỏ các yếu tố mê tín, huyền bí của Đạo giáo và Phật giáo, vốn từng được đưa vào Nho giáo trong và sau đời nhà Hán. (ND)

Advertisement

5. Sĩ quan hải quân người Mỹ. (ND)

6. Cho đến năm 1854, khi Hiệp ước Perry đầu tiên có hiệu lực, triều đại Tokugawa ở Nhật Bản đã duy trì chính sách tránh tiếp xúc với các cường quốc phương Tây (ngoài Hà Lan) trong hơn hai thế kỷ để hạn chế tình trạng hỗn loạn do những nỗ lực cải đạo của các nhà truyền giáo Cơ đốc ở Nhật Bản. Riêng Hà Lan đã đồng ý giới hạn mối quan hệ giữa hai nước chỉ trong lĩnh vực thương mại, kết quả là Hà Lan trở thành quốc gia châu Âu duy nhất duy trì quan hệ thương mại và ngoại giao với Nhật Bản từ năm 1639 đến năm 1854.

Nguồn: https://znews.vn/giai-thoai-ve-su-xuat-hien-cua-mi-ramen-mon-an-quoc-dan-nhat-ban-post1455469.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Nóng giận là bản năng tĩnh lặng là bản lĩnh

Được phát hành

,

Bởi

Trong cuốn sách, tác giả Tống Mặc đã trò chuyện với độc giả về cách kiềm chế cơn nóng giận, học cách bao dung, kiểm soát cảm xúc của mình trước những tác động của cuộc sống.

Ai chẳng có lúc giận dữ, nóng giận là hạt mầm được gieo vào tâm ta từ lúc mới chào đời. Nhưng kìm chế cơn giận là bản lĩnh cần rèn luyện mỗi ngày.

Kim che con gian anh 1

Thái độ điềm tĩnh sẽ giúp con người dễ dàng vượt qua nghịch cảnh, đón nhận thử thách. Ảnh: P.G.

Điềm đạm là sự điềm tĩnh xuất phát từ nội tâm. Cổ nhân cho rằng: “Điềm tĩnh dưỡng thần, phật dịch ô vật.” Ý muốn nói, điềm tĩnh có thể dưỡng tâm, giúp con người không phụ thuộc vào thứ bên ngoài. Điềm tĩnh nói đến một thái độ sống “lùi”, vạn sự thuận theo tự nhiên, người giữ được tinh thần như vậy, chắc chắn có thể làm tốt việc dưỡng tâm.

Hiện giờ, ngày càng có nhiều người theo đuổi việc “dưỡng sinh”. Dưỡng sinh gồm có dưỡng tâm, dưỡng tính và dưỡng thân. Nhưng rất nhiều người chỉ quan tâm đến việc dưỡng thân, cho rằng chỉ cần chăm sóc cơ thể cho thật đẹp đẽ, khỏe mạnh, thì có thể hưởng thụ cuộc sống lâu dài. Cho nên, số người có thể kiên trì hàng ngày tập luyện thể thao, ăn uống lành mạnh thì nhiều, nhưng số người có thể kiên trì dưỡng tâm hàng ngày lại rất ít.

Advertisement

Có một bà mẹ cực kỳ chú trọng việc dưỡng sinh. Gặp ai cô ấy cũng thao thao bất tuyệt về đạo lý dưỡng sinh, về việc mỗi ngày phải ăn cái gì, ăn bao nhiêu, ăn thế nào, vận động bao lâu… Cô ấy nói hết lần này đến lần khác: Chỉ có làm như vậy, mới không bị bệnh! Nhưng mỗi lần nghe những điều này, tôi đều thấy rất lạ. Một người ngày nào cũng bận rộn chuẩn bị đồ ăn lành mạnh cho bản thân từ sáng đến tối, sợ mình ăn phải đồ ăn không tốt sẽ sinh bệnh, không thể sống thọ, ngày nào cũng lo lắng như vậy, liệu có vui vẻ được không?

Nếu như chúng ta dư ỡng sinh mà không bắt đầu từ việc dưỡng tâm dưỡng tính, trong lòng sẽ có nhiều phiền não, có nhiều ham muốn. Như vậy, “hạnh phúc” mà chúng ta được hưởng chỉ dừng ở mức ăn ngon mặc đẹp và cơ thể khỏe mạnh, đó không phải cuộc sống thăng hoa chân chính.

Đại sư Hoằng Nhất cho rằng điềm đạm là “điều đầu tiên của việc dưỡng tâm”. Điềm đạm mà ngài nói tới suy cho cùng là cần con người phải tĩnh tâm. Thế gian này bao chuyện phiền não, dễ ảnh hưởng đến tâm lý của con người.

Kim che con gian anh 2

Cuốn sách Nóng giận là bản năng, tĩnh lặng là bản lĩnh mang đến cho người đọc nhiều lời khuyên hữu ích. Ảnh: Chi.

Cho nên, nhiều người nghĩ rằng tâm mình không tĩnh là vì đang bị quá nhiều chuyện quấy nhiễu. Thật ra, ta bị quấy rầy không phải vì những chuyện phiền nhiễu trên đời, mà vì tâm không tĩnh. Khi chúng ta có thể tách khỏi tất cả sự vật bên ngoài, cho dù ở trong hoàn cảnh nào, ta cũng có thể hưởng thụ cuộc sống an nhàn thực sự.

Trong xã hội hiện thực này, rất nhiều chuyện sẽ làm cho chúng ta “dao động”.

Advertisement

Khi một người mỗi ngày kiếm được 10 đồng, chỉ đủ để ăn no, anh ta cảm thấy rất thoải mái, nhưng lại mơ mỗi ngày kiếm được 100 đồng; khi kiếm được 100 đồng mỗi ngày, anh ta lại cảm thấy mệt hơn trước rất nhiều, và không thấy hài lòng lắm, bởi vì có người mỗi ngày kiếm được 1.000 đồng.

Anh ta làm việc chăm chỉ hơn, cuối cùng cũng có thể kiếm 1.000 đồng mỗi ngày, anh ta bắt đầu mua xe, mua nhà, sống cuộc sống tốt đẹp mà anh ta từng ao ước, nhưng anh ta lại bắt đầu hướng về cuộc sống mỗi ngày kiếm được 10.000 đồng…

Chúng ta luôn rơi vào một vòng tròn kỳ lạ như vậy. Chúng ta luôn cho rằng khi đạt được điều gì mình mong đợi đã lâu, trong lòng sẽ cảm thấy yên tâm, hài lòng, từ đó có thể hạnh phúc. Nhưng sau khi đạt được điều mình muốn, ta lại có cảm giác cũng chỉ thế mà thôi. Những ham muốn lớn hơn nối tiếp nhau, mục tiêu ngày càng cao, và chúng ta càng ngày càng mệt hơn.

Do đó, một người sau khi có biệt thự, xe hơi, anh ta càng không hạnh phúc, bởi anh ta lo sợ một ngày nào đó sẽ mất đi cuộc sống như vậy, do đó đành phải dốc sức làm việc nhiều hơn, ép bản thân phải kiếm được 100.000 mỗi ngày, nếu chỉ kiếm được 80.000 thì thở dài ngao ngán.

Ngày nào cũng sống trong nỗi sợ mất đi danh lợi, gánh áp lực khủng khiếp, làm sao mà không sinh bệnh cho được? Dĩ nhiên, không phải con người không thể sống như vậy, danh lợi vốn là sự theo đuổi lớn nhất cuộc đời đối với một người bình thường.

Advertisement

Nhưng ý ở đây muốn nói, nếu như cuộc sống như vậy làm cho chúng ta cảm thấy thêm áp lực, thêm phiền muộn, không hề có cảm giác hạnh phúc, thì bạn hoàn toàn có thể suy nghĩ theo hướng khác.

Không nhất thiết phải từ bỏ những thứ như biệt thự, xe hơi, chỉ cần từ bỏ việc cố chấp gắn bó với những thứ này, dù kiếm được 1.000.000 mỗi ngày cũng không ngạo mạn, mà mỗi ngày kiếm được 10 đồng cũng không chán chường, muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, không cần gượng ép bản thân, bạn có thể cảm nhận được sự hạnh phúc ngay lập tức.

Người có nội tâm điềm đạm là người ngay cả khi mặc một chiếc áo vải, ăn một bữa cơm đạm bạc, vẫn có thể an nhàn thoải mái, không có chút cảm giác khó chịu hay không vui nào. Cho dù đối mặt với phiền não và sinh tử, họ cũng có thể thản nhiên đối diện, trong lòng không một chút gợn sóng đau khổ, không cần ăn ngon mặc đẹp vẫn cảm thấy yên bình và hạnh phúc.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/kim-che-con-gian-la-ban-linh-can-co-cua-nguoi-truong-thanh-post1455101.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tuổi ấy mình yêu

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn tản văn “Tuổi ấy mình yêu” ghi lại nhiều ký ức về Hà Nội của thế hệ 6X, 7X. Khi ấy thành phố tuy còn nhiều gian khó nhưng đầy lãng mạn với những biệt thự cổ rêu phong, cùng những thanh niên tha thiết yêu đời!

Dòng thời gian miên man đưa ta về những kỷ niệm ấu thơ không thể nào quên. Mùa hè nóng như đổ lửa, chẳng có điều hòa lẫn quạt điện, chỉ đành phe phẩy quạt nan xua đi cái nóng.

Tuoi ay minh yeu anh 1

Cảnh mấy đứa trẻ ngồi ở bể nước công cộng để mẹ tắm rửa là hình ảnh quen thuộc thời bao cấp. Ảnh: Fclikr.

Ở miền ôn đới mà nhiệt độ lên tới 40 thì không thể không coi là sự kiện. Vì thế mà ai chưa kịp trẻ lại, gầy đi, chết vì nóng thì cứ, rất nhiều người thích, tranh thủ cởi gần hết cho da có màu suy nghĩ. Cái màu này, Tây và ngay cả ta chưa từng trải đời này dăm chục năm tha hồ suy nghĩ cũng chả biết là màu gì.

[…]

Advertisement

Thành phố uể oải trong hơi nóng làm người cứ lơ mơ, thương chả ra thương nhớ chẳng ra nhớ, cứ dằng dai lừng khừng. Chẳng biết có phải dân ở những xứ nóng động cái là sùng sục hừng hực lên là vì một năm mấy mùa đã tha hồ uể oải rồi không?

Chiều qua thứ bảy, chỉ còn mấy tiếng nữa cửa hàng cửa họ đóng, đóng cửa luôn ngày chủ nhật là ngày đến Chúa cũng không làm gì (mà còn làm làm gì, sửa sai thế nào được nữa sau khi đã tạo ra con người) nhưng nắng vẫn còn chấp chới trên bờ tường, ngọn cây, mái nhà. Say nắng trưa rồi, không dám đi xa, chỉ lếch thếch ra đầu phố xem có quả dưa hấu nào nhẹ hơn một yến để tha về ăn giải nhiệt chờ mưa.

Mưa thì chưa, dưa thì không nhẹ, chẳng mua bán gì nữa, đi về. Ngang qua cái quán nhỏ đầu phố thấy bàn nào cũng có người ngồi lơ mơ. Có ông lẩn mẩn lúc quờ cốc cà phê đưa lên môi lúc sờ cây bút bi chơi đố chữ.

Có mẹ nạ dòng cháu sớm phom dáng cực kì hùng tráng vẫn chẳng ngần ngại gọi cốc kem to cho xứng người, ăn thi với cháu. Có bà già lim dim mắt xếp tà váy rồi ngồi vắt chân đầy vẻ quý phái khiêu khích kiểu Marlene Dietrich, thay vì điếu thuốc trên tay lại thấy phảy một cái quạt giấy thật là xinh.

Kỷ vật của những ngày nắng hạ Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Tuynidi gì đó đây, không biết cụ mua hay cụ trai nào tặng, mùa hạ vừa đi qua hay từ đời thăm thẳm nỗi niềm nào.

Advertisement

Bất chợt thấy mình chậm bước. Bất chợt hình dung lại, ngày xưa, cũng quạt giấy như này. Bà tóc bạc vấn lẳn trong vành khăn trắng để “trở” ai trong họ chẳng biết. Bà đứng chờ tàu điện chỗ Ô Cầu Dền. Bà luôn luôn có cái quạt trong tay phe phảy cho cháu bám quẩn bên chân.

Bà ngồi chân co chân duỗi đầu tấm phản sau này hạ xuống che cái hầm trú ẩn đào ngay dưới gậm giường rồi cúi người vuốt ngay ngắn ống quần, mở âu giầu, tỉ mẩn tiện miếng vỏ quạch, xé mảnh lá giầu không, bổ nhỏ miếng cau đã bổ sáu từ trước, quết chút vôi trắng, nhúm chút thuốc lào rồi đưa lên miệng, rồi bận bịu dọi lại vành cái quạt nan, xếp lại cái quạt giấy, lầm thầm không biết là mắng đứa cháu nào dùng đồ xong buông quăng bỏ vãi, vô ý vô tứ chẳng biết của bền tại người.

Chao ôi những buổi chiều Hà Nội hết chiến tranh, đã khó nghèo càng thêm khó nghèo vì mẹ mất, nhưng bà còn đó cho chị em mình nương dựa, bà còn đó, giữ lại cho chị em mình những gì còn có thể giữ được, là sự ngây ngô quý giá nhất của tuổi ấu thơ.

Tuoi ay minh yeu anh 2

Cuốn tản văn Tuổi ấy mình yêu của nhà văn Lê Minh Hà. Ảnh: NXB Trẻ.

Cũng cái quạt giấy này, trong bàn tay con gái những ngày cuối cùng đến lớp, giấy trang kim màu tím, nan tre, thằng bạn ngồi bên giằng lấy hỏng luôn chỗ tay cầm, những cái nan rời nhau ra, thế mà nó ra sức khoát tay quạt cho cả mình với nó. Tức mà nghĩ tới những ngày sắp xa đi, gặp lại không biết có đủ tự tin như giờ vẫn hay gây sự với nhau, nghĩ tới cái compa dở hơi nó vẫn nhường mình trong giờ hình học, thôi im vậy.

Bà già váy hoa vẫn đang lơ mơ bên cốc kem phe phẩy cái quạt giấy rõ là xinh. Uể oải thì mình đang uể oải lắm rồi, nhưng có mơ đâu, mà cảm như từ đâu xưa hơi gió từ cái quạt giấy muôn đời. Chỉ phảy nhẹ phảng phất thôi đã đủ làm xao động hơi nóng ngày tháng hạ vì cái mùi hơi thum thủm của những nan quạt vót từ tre ngâm ao bùn.

Advertisement

Ở Hà Nội giờ hay gặp các bà đi tập dưỡng sinh. Khi biểu diễn dưỡng sinh, các bà mặc cả bộ sa tanh đỏ, cứ từng lúc lại khuỵu đầu gối trong tư thế cảm tử lao về phía trước, trong tay là cái quạt hình thù như cái quạt giấy mình quen pạch một cái đồng loạt xòe ra.

Chưa tới gần nên không biết nan quạt bằng tre bằng gỗ hay bằng nhựa, nhưng cái quạt cũng màu đỏ rực, lại có tua rua, xòe ra đều còn hơn các diễn viên hội đoàn tập múa, chỉ còn thiếu hai bím tóc ngắn vểnh ngang tai và trẻ đi dăm chục tuổi là gần bằng diễn viên kinh kịch Bắc Kinh nhảy một cái, xoạc chân một cái, cao giọng á a a trên sân khấu Hà Nội một thời.

Về với Hà Nội, cứ lần nào nhìn thấy những mảnh tam giác đỏ rực ấy chói lọi trong nắng sớm cũng giật mình.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/mua-he-da-xa-post1455038.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Xu hướng