Connect with us

Sách hay

Văn học Việt và những cuộc đi tìm

Được phát hành

,

Nghĩ đi nghĩ lại, nhà văn thì chẳng có gì ghê gớm cả. Ghê gớm và độc đáo không ai khác chính là bạn đọc. Không có độc giả thì làm sao có nhà văn? Nhà văn viết làm gì khi không có độc giả?

Văn học Việt và những cuộc đi tìm - Ảnh 1.

Sách tìm đường đến với bạn đọc quốc tế hay trong nước đều nhọc nhằn như nhau – Ảnh: BÌNH MINH

Ở Sài Gòn, từ mấy chục năm nay, tôi luôn cố gắng duy trì một nơi ở và một chỗ làm. Ấy vậy mà có nhiều khi cảm giác như mình chẳng biết đi đâu về đâu, cái trạng thái tâm lý ấy cứ lặp đi lặp lại từ hồi tuổi hai mươi cho tới tận bây giờ khi tôi đã là một gã trung niên U50.

Chỉ cần một cây bút với tờ giấy là có thể thành nhà văn” – câu nói nghe có vẻ thú vị này thực ra là sự ngộ nhận to bự. Bởi nghề văn không phải là nghề ít tốn kém, trái lại, nó là nghề tốn kém bậc nhất. Chi phí cho nghề văn là bao nhiêu? Là cả một cuộc đời.

Đi tìm bạn đọc

Tốn kém bao nhiêu cho nghề văn?

Những lúc “lật đường tàu” như thế, tôi thường làm gì? Tôi thường lang thang trong thành phố rồi cuối cùng chui vô một tiệm cà phê nào đó bất kỳ. 

Tôi ngồi xuống, kêu một ly cà phê đen nóng và bắt đầu viết. Thường là những ghi chép rời rạc trên sổ tay. Cũng có khi là viết tiếp những bản thảo dở dang trên laptop. 

Cứ như thế. Hình ảnh của tôi, một phần nào đó, có lẽ là phiên bản của các nhân vật Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối (tựa một cuốn tiểu thuyết của Patrick Modiano). Do đó dù tôi có làm gì, ở đâu, huyên thuyên cỡ nào, bạn vẫn có cảm giác tôi trầm lặng, một mình.

Nhưng có hai lần tôi “lạc lối” thực sự, tôi chủ động cắt đứt cả hai đường ray (một nơi ở và một chỗ làm, như tôi nói ở trên). 

Đó là khoảng thời gian tôi thấy cần phải tập trung để hoàn thành hai cuốn tiểu thuyết: Sự trở lại của vết xước và Hát. 

Nói như thế để mọi người thấy rằng nghề văn không bao giờ là dễ dàng, ngay cả với một người viết ít tham vọng như tôi. 

Chỉ riêng việc để có thể hoàn tất tác phẩm mà mình yêu thích, thậm chí bạn cần phải trả giá. Và nghề văn không giống như bao nghề khác. Nghề văn là một nghề ít tốn kém?

Người viết nhiều hơn người đọc?

Từ lâu tôi nhận ra một thực tế vừa oái ăm vừa khó nuốt thế này: Nhân loại này luôn kêu gào (hay giả bộ kêu gào) rằng họ cần những tác phẩm văn chương hay để đọc, họ sẵn sàng tôn vinh những giá trị văn chương đích thực. 

Bên cạnh đó, nhà văn cũng được gắn bao nhiêu là trách nhiệm với sứ mệnh lớn lao. Nhưng trong thực tế có mấy người coi trọng nhà văn đâu? 

Nhưng mà nghĩ đi nghĩ lại, nhà văn thì chẳng có gì ghê gớm cả. Ghê gớm và độc đáo không ai khác chính là bạn đọc. Không có độc giả thì làm sao có nhà văn? Nhà văn viết làm gì khi không có độc giả?

Có một thực tế đáng quan tâm là trước đây lứa nhà văn không phải là quá “hot” như chúng tôi, mỗi cuốn sách ấn hành đợt đầu tiên cũng ở con số 2.000 bản và cứ thế tái bản lai rai. 

Nhưng bây giờ hầu như không còn nơi nào mặn mà với văn chương hư cấu nữa, và số lượng in rớt xuống thê thảm, chỉ chừng vài trăm bản cho một đầu sách. Trong khi độc giả ngày càng thưa thớt bao nhiêu thì tác giả ngày càng nhiều lên bấy nhiêu.

Theo như tôi biết, hiện nay có hơn 1.000 người là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ở Hội Nhà văn TP.HCM, con số hội viên hơn 400 người. 

Trong khi số lượng sách in ra chỉ chừng 1.000 bản là nhiều, đã thế số lần tái bản gần như là vô vọng. 

Chỉ chừng chục năm trở lại đây thôi mà đời sống văn chương đã thay đổi rất nhiều. Những thay đổi không ngờ. Có một cái gì đó hơi hài hước nhưng tôi cho là đúng thực tế, đó là “người viết đang nhiều hơn người đọc”.

Thực tế này làm tôi chợt nhớ tới một truyện ngắn – Đi tìm độc giả – của nhà văn người Đức Heinrich Boll. 

Câu chuyện kể về W, một nhà văn được giới phê bình đánh giá rất cao. Nhưng sách của anh ta in ra bán chỉ được… vài chục cuốn. 

Không nản lòng, W tiếp tục viết. Khi cuốn sách thứ 3 của W ra đời thì bên cạnh sự ca ngợi không tiếc lời của giới phê bình, nhà xuất bản (NXB) mở một chiến dịch gọi là “Đi tìm độc giả”. 

Họ phát các tờ rơi tại các nhà sách, hễ ai mua sách của W thì điền thông tin vào, rồi NXB sẽ kết nối với W. Toàn bộ chi phí do NXB tài trợ.

Cuối cùng, chiến dịch cũng có kết quả. Sau mấy tháng phát hành, sách của W cũng bán được… một cuốn. 

Độc giả là một giáo viên đang kỳ nghỉ hè, anh ta đang sẵn sàng lên tàu từ phương bắc đến phương nam để gặp nhà văn W. Họ cũng gặp nhau trong căn hộ bé nhỏ của W. 

Cuộc hội ngộ với nhiều cảm xúc. Độc giả khen nhà văn vĩ đại quá. Còn nhà văn khen độc giả… cực kỳ độc đáo và vô cùng phi thường. Rồi thì anh giáo viên – độc giả độc đáo thò từ trong người ra một… cái bản thảo.

Thì ra cái ông độc giả này cũng chính là tác giả. Mặc cho nhà văn W nài nỉ, anh giáo viên vẫn ngoan cố chìa bản thảo ra. Anh ta muốn làm một nhà văn hơn là một độc giả. Và như thế là sẵn sàng từ bỏ đi tính độc đáo lẫn lợi ích của mình.

Heinrich Boll viết truyện này vào tầm khoảng 1946 – 1950, bối cảnh nước Đức sau Thế chiến II, mà nay nghe chừng vẫn “mang tính thời sự” ở Việt Nam. Việc “truy lùng độc giả” cho văn chương đích thực vẫn là “đỏ con mắt”. Hiếm hoi có một độc giả thực sự thì họ lại sẵn sàng đánh mất “tính độc đáo” của mình để làm một thứ có đầy rẫy, đó là… các nhà văn.

“Muốn nói thật thì phải đọc thật”

Nói cho đúng, nhà văn nên biết ơn các độc giả của mình. Không có những nhà văn thiên tài nếu không có những độc giả thiên tài. 

Nhưng vẫn phải nói lại. Cái mà nhà văn mang tới cho độc giả không chỉ ở câu chuyện và thông điệp, mà còn ở nghệ thuật ngôn từ. 

Cũng như một bài hát luôn có hai phần là nhạc và lời. Như điện ảnh, ngoài câu chuyện, nhân vật, lời thoại…, còn có phần cốt yếu là ngôn ngữ hình ảnh. 

Theo tôi, sở dĩ văn chương hôm nay mất đi sức hấp dẫn bởi ít có nhà văn tận tụy với chữ để có thể thành “phù thủy ngôn từ”. 

Nghề văn muôn thuở là nghề thủ công, nhà văn như những thợ mộc hay thợ kim hoàn cặm cụi. Trong khi cuộc sống hôm nay quá vội vàng, ầm ầm, ào ào.

Gần đây, tôi hầu như không tặng sách và cũng ít khi nhận sách tặng. Tôi tình nguyện và lặng lẽ mua sách, cả các tác giả mình kính trọng lẫn tác giả mình không ưa hoặc không quen. Tôi muốn làm tốt “nhiệm vụ” của một bạn đọc, ít ra cũng bỏ tiền mua sách thật và đọc thật.

Bởi tôi cũng nhận ra một điều không ít phần cay đắng rằng thời nay cái sự đọc dối, đọc giả, đọc thù tạc… rất nhiều, nhất là trong giới phê bình. 

Cho nên nếu muốn biết tác phẩm đó hay dở thế nào, không có cách gì khác hơn là mình phải tự đọc lấy. 

Tôi nghĩ là bạn đọc đúng nghĩa, nếu không sử dụng phương pháp Giải cấu trúc (Deconstruction – do triết gia người Pháp Jacques Derrida khởi xướng), thì hãy đọc kiểu hồn nhiên. 

Tức mọi sự hay dở đều soi xét trên văn bản mà thôi. Đừng tin vào bất kỳ kẻ nào cả. Nhưng sự đời hồn nhiên là điều rất khó.

Những ai yêu thích Milan Kundera hẳn khó bỏ qua một truyện ngắn hài hước sâu cay Sẽ không ai cười. 

Truyện kể về một giáo sư trợ giảng – một nhà phê bình hội họa được một tác giả nhờ viết một bài. Đây là bài viết có tính chất quyết định, vì công trình của ông ta đã bị tạp chí kia chê, chưa chịu đăng. 

Nhà phê bình cũng nhận ra đó là một công trình tệ hại, nhưng thay vì nói thẳng, ông lại tìm cách lảng tránh, thậm chí ve vuốt. “Vì chẳng ai muốn có thêm kẻ thù”. Thế là ông tác giả kia bu riết lấy nhà phê bình. Bao tình huống điên rồ, dở khóc dở cười xảy ra như những cú đổ domino.

“Anh có thể bịa ra đủ thứ trên đời, chơi xấu người khác, dựng lên đủ mọi thứ dấm dớ, làm đủ loại trò đùa, thì anh vẫn không hề có cảm giác mình là kẻ nói dối; những lời nói dối ấy, nếu em cứ nhất định gọi chúng là những lời nói dối, chính là anh, là con người của anh; với những lời nói dối đó, anh không che giấu điều gì hết, khi nói những lời nói dối đó thật ra là anh đang nói thật. Nhưng có những điều mà anh không thể nói dối được…” – đó là lời của nhân vật nhà phê bình trong truyện ngắn mà tôi nhắc ở trên.

Nhưng muốn nói thật thì phải đọc thật, phải hiểu tận chân tơ kẽ tóc vấn đề. Milan Kundera viết truyện ngắn này vào khoảng năm 1959 – 1968. 

Và Heinrich Boll viết Đi tìm độc giả còn trước đó nữa. Trên toàn thế giới và ở đây cũng vậy, từ xưa tới nay chúng ta vẫn đi tìm bạn đọc, bởi đơn giản không có bạn đọc thì cũng chẳng có nhà văn.

Nguồn: https://tuoitre.vn/van-hoc-viet-va-nhung-cuoc-di-tim-20220901091448965.htm

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng