Connect with us

Sách hay

Văn học Việt và những cuộc đi tìm

Được phát hành

,

Nghĩ đi nghĩ lại, nhà văn thì chẳng có gì ghê gớm cả. Ghê gớm và độc đáo không ai khác chính là bạn đọc. Không có độc giả thì làm sao có nhà văn? Nhà văn viết làm gì khi không có độc giả?

Văn học Việt và những cuộc đi tìm - Ảnh 1.

Sách tìm đường đến với bạn đọc quốc tế hay trong nước đều nhọc nhằn như nhau – Ảnh: BÌNH MINH

Ở Sài Gòn, từ mấy chục năm nay, tôi luôn cố gắng duy trì một nơi ở và một chỗ làm. Ấy vậy mà có nhiều khi cảm giác như mình chẳng biết đi đâu về đâu, cái trạng thái tâm lý ấy cứ lặp đi lặp lại từ hồi tuổi hai mươi cho tới tận bây giờ khi tôi đã là một gã trung niên U50.

Chỉ cần một cây bút với tờ giấy là có thể thành nhà văn” – câu nói nghe có vẻ thú vị này thực ra là sự ngộ nhận to bự. Bởi nghề văn không phải là nghề ít tốn kém, trái lại, nó là nghề tốn kém bậc nhất. Chi phí cho nghề văn là bao nhiêu? Là cả một cuộc đời.

Đi tìm bạn đọc

Tốn kém bao nhiêu cho nghề văn?

Những lúc “lật đường tàu” như thế, tôi thường làm gì? Tôi thường lang thang trong thành phố rồi cuối cùng chui vô một tiệm cà phê nào đó bất kỳ. 

Tôi ngồi xuống, kêu một ly cà phê đen nóng và bắt đầu viết. Thường là những ghi chép rời rạc trên sổ tay. Cũng có khi là viết tiếp những bản thảo dở dang trên laptop. 

Cứ như thế. Hình ảnh của tôi, một phần nào đó, có lẽ là phiên bản của các nhân vật Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối (tựa một cuốn tiểu thuyết của Patrick Modiano). Do đó dù tôi có làm gì, ở đâu, huyên thuyên cỡ nào, bạn vẫn có cảm giác tôi trầm lặng, một mình.

Nhưng có hai lần tôi “lạc lối” thực sự, tôi chủ động cắt đứt cả hai đường ray (một nơi ở và một chỗ làm, như tôi nói ở trên). 

Đó là khoảng thời gian tôi thấy cần phải tập trung để hoàn thành hai cuốn tiểu thuyết: Sự trở lại của vết xước và Hát. 

Nói như thế để mọi người thấy rằng nghề văn không bao giờ là dễ dàng, ngay cả với một người viết ít tham vọng như tôi. 

Chỉ riêng việc để có thể hoàn tất tác phẩm mà mình yêu thích, thậm chí bạn cần phải trả giá. Và nghề văn không giống như bao nghề khác. Nghề văn là một nghề ít tốn kém?

Người viết nhiều hơn người đọc?

Từ lâu tôi nhận ra một thực tế vừa oái ăm vừa khó nuốt thế này: Nhân loại này luôn kêu gào (hay giả bộ kêu gào) rằng họ cần những tác phẩm văn chương hay để đọc, họ sẵn sàng tôn vinh những giá trị văn chương đích thực. 

Bên cạnh đó, nhà văn cũng được gắn bao nhiêu là trách nhiệm với sứ mệnh lớn lao. Nhưng trong thực tế có mấy người coi trọng nhà văn đâu? 

Nhưng mà nghĩ đi nghĩ lại, nhà văn thì chẳng có gì ghê gớm cả. Ghê gớm và độc đáo không ai khác chính là bạn đọc. Không có độc giả thì làm sao có nhà văn? Nhà văn viết làm gì khi không có độc giả?

Có một thực tế đáng quan tâm là trước đây lứa nhà văn không phải là quá “hot” như chúng tôi, mỗi cuốn sách ấn hành đợt đầu tiên cũng ở con số 2.000 bản và cứ thế tái bản lai rai. 

Nhưng bây giờ hầu như không còn nơi nào mặn mà với văn chương hư cấu nữa, và số lượng in rớt xuống thê thảm, chỉ chừng vài trăm bản cho một đầu sách. Trong khi độc giả ngày càng thưa thớt bao nhiêu thì tác giả ngày càng nhiều lên bấy nhiêu.

Theo như tôi biết, hiện nay có hơn 1.000 người là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ở Hội Nhà văn TP.HCM, con số hội viên hơn 400 người. 

Trong khi số lượng sách in ra chỉ chừng 1.000 bản là nhiều, đã thế số lần tái bản gần như là vô vọng. 

Chỉ chừng chục năm trở lại đây thôi mà đời sống văn chương đã thay đổi rất nhiều. Những thay đổi không ngờ. Có một cái gì đó hơi hài hước nhưng tôi cho là đúng thực tế, đó là “người viết đang nhiều hơn người đọc”.

Thực tế này làm tôi chợt nhớ tới một truyện ngắn – Đi tìm độc giả – của nhà văn người Đức Heinrich Boll. 

Câu chuyện kể về W, một nhà văn được giới phê bình đánh giá rất cao. Nhưng sách của anh ta in ra bán chỉ được… vài chục cuốn. 

Không nản lòng, W tiếp tục viết. Khi cuốn sách thứ 3 của W ra đời thì bên cạnh sự ca ngợi không tiếc lời của giới phê bình, nhà xuất bản (NXB) mở một chiến dịch gọi là “Đi tìm độc giả”. 

Họ phát các tờ rơi tại các nhà sách, hễ ai mua sách của W thì điền thông tin vào, rồi NXB sẽ kết nối với W. Toàn bộ chi phí do NXB tài trợ.

Cuối cùng, chiến dịch cũng có kết quả. Sau mấy tháng phát hành, sách của W cũng bán được… một cuốn. 

Độc giả là một giáo viên đang kỳ nghỉ hè, anh ta đang sẵn sàng lên tàu từ phương bắc đến phương nam để gặp nhà văn W. Họ cũng gặp nhau trong căn hộ bé nhỏ của W. 

Cuộc hội ngộ với nhiều cảm xúc. Độc giả khen nhà văn vĩ đại quá. Còn nhà văn khen độc giả… cực kỳ độc đáo và vô cùng phi thường. Rồi thì anh giáo viên – độc giả độc đáo thò từ trong người ra một… cái bản thảo.

Thì ra cái ông độc giả này cũng chính là tác giả. Mặc cho nhà văn W nài nỉ, anh giáo viên vẫn ngoan cố chìa bản thảo ra. Anh ta muốn làm một nhà văn hơn là một độc giả. Và như thế là sẵn sàng từ bỏ đi tính độc đáo lẫn lợi ích của mình.

Heinrich Boll viết truyện này vào tầm khoảng 1946 – 1950, bối cảnh nước Đức sau Thế chiến II, mà nay nghe chừng vẫn “mang tính thời sự” ở Việt Nam. Việc “truy lùng độc giả” cho văn chương đích thực vẫn là “đỏ con mắt”. Hiếm hoi có một độc giả thực sự thì họ lại sẵn sàng đánh mất “tính độc đáo” của mình để làm một thứ có đầy rẫy, đó là… các nhà văn.

“Muốn nói thật thì phải đọc thật”

Nói cho đúng, nhà văn nên biết ơn các độc giả của mình. Không có những nhà văn thiên tài nếu không có những độc giả thiên tài. 

Nhưng vẫn phải nói lại. Cái mà nhà văn mang tới cho độc giả không chỉ ở câu chuyện và thông điệp, mà còn ở nghệ thuật ngôn từ. 

Cũng như một bài hát luôn có hai phần là nhạc và lời. Như điện ảnh, ngoài câu chuyện, nhân vật, lời thoại…, còn có phần cốt yếu là ngôn ngữ hình ảnh. 

Theo tôi, sở dĩ văn chương hôm nay mất đi sức hấp dẫn bởi ít có nhà văn tận tụy với chữ để có thể thành “phù thủy ngôn từ”. 

Nghề văn muôn thuở là nghề thủ công, nhà văn như những thợ mộc hay thợ kim hoàn cặm cụi. Trong khi cuộc sống hôm nay quá vội vàng, ầm ầm, ào ào.

Gần đây, tôi hầu như không tặng sách và cũng ít khi nhận sách tặng. Tôi tình nguyện và lặng lẽ mua sách, cả các tác giả mình kính trọng lẫn tác giả mình không ưa hoặc không quen. Tôi muốn làm tốt “nhiệm vụ” của một bạn đọc, ít ra cũng bỏ tiền mua sách thật và đọc thật.

Bởi tôi cũng nhận ra một điều không ít phần cay đắng rằng thời nay cái sự đọc dối, đọc giả, đọc thù tạc… rất nhiều, nhất là trong giới phê bình. 

Cho nên nếu muốn biết tác phẩm đó hay dở thế nào, không có cách gì khác hơn là mình phải tự đọc lấy. 

Tôi nghĩ là bạn đọc đúng nghĩa, nếu không sử dụng phương pháp Giải cấu trúc (Deconstruction – do triết gia người Pháp Jacques Derrida khởi xướng), thì hãy đọc kiểu hồn nhiên. 

Tức mọi sự hay dở đều soi xét trên văn bản mà thôi. Đừng tin vào bất kỳ kẻ nào cả. Nhưng sự đời hồn nhiên là điều rất khó.

Những ai yêu thích Milan Kundera hẳn khó bỏ qua một truyện ngắn hài hước sâu cay Sẽ không ai cười. 

Truyện kể về một giáo sư trợ giảng – một nhà phê bình hội họa được một tác giả nhờ viết một bài. Đây là bài viết có tính chất quyết định, vì công trình của ông ta đã bị tạp chí kia chê, chưa chịu đăng. 

Nhà phê bình cũng nhận ra đó là một công trình tệ hại, nhưng thay vì nói thẳng, ông lại tìm cách lảng tránh, thậm chí ve vuốt. “Vì chẳng ai muốn có thêm kẻ thù”. Thế là ông tác giả kia bu riết lấy nhà phê bình. Bao tình huống điên rồ, dở khóc dở cười xảy ra như những cú đổ domino.

“Anh có thể bịa ra đủ thứ trên đời, chơi xấu người khác, dựng lên đủ mọi thứ dấm dớ, làm đủ loại trò đùa, thì anh vẫn không hề có cảm giác mình là kẻ nói dối; những lời nói dối ấy, nếu em cứ nhất định gọi chúng là những lời nói dối, chính là anh, là con người của anh; với những lời nói dối đó, anh không che giấu điều gì hết, khi nói những lời nói dối đó thật ra là anh đang nói thật. Nhưng có những điều mà anh không thể nói dối được…” – đó là lời của nhân vật nhà phê bình trong truyện ngắn mà tôi nhắc ở trên.

Nhưng muốn nói thật thì phải đọc thật, phải hiểu tận chân tơ kẽ tóc vấn đề. Milan Kundera viết truyện ngắn này vào khoảng năm 1959 – 1968. 

Và Heinrich Boll viết Đi tìm độc giả còn trước đó nữa. Trên toàn thế giới và ở đây cũng vậy, từ xưa tới nay chúng ta vẫn đi tìm bạn đọc, bởi đơn giản không có bạn đọc thì cũng chẳng có nhà văn.

Nguồn: https://tuoitre.vn/van-hoc-viet-va-nhung-cuoc-di-tim-20220901091448965.htm

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng