Connect with us

Sách hay

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận

Được phát hành

,

Ông Chung nói số phận của ông cũng giống Viện William Joiner trong suốt hơn 30 năm qua. Đó là một quá trình cảm nghiệm khi “đọc lại” (thứ mà người Mỹ thường gọi là) “Vietnam war”, hay “chiến tranh Việt Nam”.

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận - Ảnh 1.

Đón Phó thủ tướng (nay là Chủ tịch nước) Nguyễn Xuân Phúc tại Trung tâm William Joiner – Ảnh: Dịch giả Nguyễn Bá Chung cung cấp

Nghe nói bên đó, họ gọi ông là “Chung mũ cối”?”. Từ màn hình FaceTime bên kia địa cầu, nhà thơ, dịch giả Nguyễn Bá Chung cười lớn: “Đúng. Từ lúc đồng hành cùng Viện Nghiên cứu chiến tranh và hậu quả xã hội William Joiner, dịch các tác phẩm văn học Việt để giới thiệu tại Mỹ, tôi bị gắn mác “tuyên truyền cho Cộng sản”. Họ ghét bỏ, kỳ thị, bôi nhọ, chẳng thiếu thứ gì”. “Họ là ai?”. Một bộ phận người Mỹ gốc Việt. Một bộ phận người Mỹ bảo thủ. Họ còn là một ai đó khác nữa.

Ông Chung nói số phận của ông cũng giống Viện William Joiner trong suốt hơn 30 năm qua. Đó là một quá trình cảm nghiệm khi “đọc lại” (thứ mà người Mỹ thường gọi là) “Vietnam war”, hay “chiến tranh Việt Nam”.

Được đặt theo tên một cựu binh Mỹ trở về từ chiến tranh Việt Nam, Viện William Joiner (tên cũ là Trung tâm William Joiner) là trung tâm nghiên cứu có một không hai trên thế giới: trực thuộc một đại học công (Đại học Massachusetts Boston), nhận tiền tài trợ của ngân quỹ tiểu bang nhưng lại mang màu sắc phản chiến.

Bằng các hoạt động kiên trì của mình, nó là cầu nối duy nhất giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Mỹ trong thời kỳ cấm vận.

Advertisement

Việt Nam từ xa Tổ quốc

Nguyễn Bá Chung theo gia đình di cư từ Bắc vào Nam năm 1955 lúc 6 tuổi. Lớn lên trong bối cảnh trường học cũng như các cuộc thảo luận công khai ở miền Nam thời đó, giống nhiều người khác, ông cũng tin tưởng vào cuộc đấu tranh tự do dân chủ mà chính quyền miền Nam trước năm 1975 đưa ra để chống lại Bắc Việt.

Nhưng rồi phong trào Phật giáo diễn ra năm 1963 đã dấy lên “sự xét lại” đầu tiên trong tâm trí của ông về chính quyền miền Nam Việt Nam.

Là con một, Nguyễn Bá Chung được miễn quân dịch. Cuối năm 1971, ông rời Việt Nam sang Mỹ theo một học bổng văn chương tại Đại học Brandeis ở Massachusetts. Tại đây, ông bắt đầu được tiếp cận những cuốn sách do người Tây phương viết về cuộc chiến ở Việt Nam.

Ông nói: “Tôi bắt đầu nhìn cuộc chiến với một góc nhìn khác. Cùng những người Mỹ tiến bộ, yêu chuộng hòa bình, phong trào phản chiến dâng cao tại Mỹ trong thập niên 1960, 1970, tôi cũng tham gia những hoạt động đòi lính Mỹ rút khỏi Việt Nam khi đó”.

Advertisement

Ngày 30-4-1975, chiến tranh Việt Nam kết thúc. Tiếng súng không còn nhưng Chính phủ Mỹ áp dụng lệnh cấm vận đối với Việt Nam.

“Giống như đa số các cựu binh, chiến tranh súng đạn đã chấm dứt từ năm 1975, hoặc sớm hơn tùy mỗi cá nhân, nhưng cuộc chiến tranh không súng đạn vẫn tiếp tục kéo dài”, dịch giả Nguyễn Bá Chung mường tượng.

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận - Ảnh 3.

Hàng trăm cuộc gặp gỡ giữa nhà văn hai nước Việt – Mỹ được tổ chức trong 30 năm qua – Ảnh: Nhà thơ Trần Anh Thái cung cấp

Nhà thơ cựu binh Mỹ Kevin Bowen, nguyên giám đốc Trung tâm William Joiner, trong một bài viết kể lại đã có những nỗ lực trong việc thành lập một trung tâm mang tên William Joiner để tiếp tục công việc bảo vệ những người lính giải ngũ – còn nhiều dang dở (vì William Joiner qua đời năm 1981), đồng thời phát triển các nghiên cứu và tài liệu giáo trình để giúp cho nước Mỹ hiểu cuộc chiến tranh Việt Nam và những hậu quả của nó, song không hề dễ dàng.

Rồi Trung tâm William Joiner được thành lập vào tháng 10-1982, bắt đầu những hoạt động đầu tiên, một trong số đó là tổ chức một hội nghị quốc tế về chất độc da cam và tổ chức một chuyến sang Việt Nam sau lễ Giáng sinh năm 1985.

Theo lời miêu tả của Kevin Bowen, chuyến đi trở lại Việt Nam lần thứ 2 năm 1986 đã biến đổi ông một lần nữa.

Advertisement

Hồi còn trẻ, Kevin Bowen có làm thơ nhưng từ chiến trường trở về, ông không viết được nữa. Ông gọi mình là “một nhà thơ bị ngắt quãng”.

Kevin muốn làm một điều gì đó để hàn gắn vết thương giữa hai quốc gia, giữa những người lính ở hai chiến tuyến. Là nhà thơ, ông nghĩ ngay tới văn chương.

Sau cuộc gặp với nhà văn Lê Lựu và đạo diễn Hồ Quang Minh trong chuyến trở lại Việt Nam đó, Kevin bày tỏ ý định gây quỹ mời nhà văn Việt sang Mỹ giao lưu. Năm 1988, nhà văn Lê Lựu và Ngụy Ngữ là hai nhà văn Việt Nam đầu tiên sang Mỹ trong thời gian cấm vận đó.

Phong trào phản chiến ở Mỹ khi đó vẫn đang phát triển, ý tưởng của Kevin Bowen nhanh chóng được một số người ủng hộ. Các cuộc giao lưu văn học diễn ra ngày càng mạnh.

Kevin nghĩ đã đến lúc phải dịch và xuất bản rộng hơn. Trung tâm William Joiner cần tìm một người thông dịch mà cả nước Mỹ khó có thể “bói” ra một người như vậy. Nguyễn Bá Chung đồng ý, dù lúc đó công việc điện toán cũng rất bận.

Advertisement

“Lý do tôi nhận lời, thực ra cũng chẳng phải bắt nguồn từ một điều gì to tát. Chỉ là công việc đó giúp tôi giải quyết nhu cầu của bản thân: sự tò mò về chiến tranh Việt Nam. Cho tới lúc đó, tôi vẫn không thể hiểu vì sao nước Mỹ lại thua trận.

Cá nhân tôi muốn gặp những nhà văn Việt Nam, đọc và dịch tác phẩm của họ, xem thử có câu trả lời nào ở đó không” – dịch giả Nguyễn Bá Chung cho biết. Bên cạnh đó, cách đối xử nồng hậu của Kevin Bowen với nhà văn Việt khiến ông xúc động.

Một con người có lòng với đất nước mình như vậy, sao ông lại không đồng hành? Để rồi nối tiếp hơn 10 năm làm thông dịch thiện nguyện, ông Chung nghỉ hẳn công việc điện toán lương cao làm chính thức cho trung tâm. Tới nay cũng hơn ba mươi năm có lẻ.

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận - Ảnh 4.

Chân dung một số nhà văn, nhà thơ Việt Nam do nhà thơ cựu binh Mỹ Kevin Bowen vẽ. Từ trái qua, trên xuống: nhà thơ Chính Hữu, nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà văn Bảo Ninh, nhà văn Phan Thị Vàng Anh, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, nhà văn Đỗ Chu, GS Hoàng Ngọc Hiến, nhà văn Lê Văn Thảo

Văn học khai mở

Trò chuyện với Tuổi Trẻ, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều – chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam – kể lại hành trình các nhà văn ở cả hai phía trong chặng đường “đi qua biển” để tìm kiếm sự thấu hiểu và chia sẻ. Sau chiến tranh, những cựu binh Mỹ tìm đến Việt Nam trước khi các nhà văn Việt tìm đến Mỹ. Họ muốn đi tới hòa bình thực sự và ý nghĩa.

Advertisement

Trong bối cảnh mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ vẫn còn căng thẳng, các nhà chính trị của hai đất nước chưa thể đến với nhau, các thương gia cũng chưa thể đến với nhau, các nhà văn đã bắc những nhịp cầu. Văn học chỉ ra rằng cái Đẹp (văn chương) sẽ xóa đi mọi giới hạn, chia cắt và biên giới.

Năm 1991, cuộc gặp gỡ chính thức giữa các nhà văn ở hai chiến tuyến được diễn ra tại Hà Nội. Trong cuộc gặp các nhà văn cựu binh Mỹ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cười và nói: “Các bạn ăn trái cây đi, những trái cây này không nhiễm chất độc da cam”. Những nhà văn cựu binh Mỹ đã cười trong nước mắt.

Qua lời kể của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, những chuyến đi mở đầu đó thực sự quá nhiều khó khăn. Khi các nhà văn Việt tiếp đón các nhà văn cựu binh Mỹ, không ít người Việt, kể cả nhà văn, không chấp nhận sự tiếp đón nồng ấm ấy.

Có những chuyến đi đến Mỹ, các nhà văn Việt Nam bị biểu tình, tấn công. “Nhưng quả thực, khi những giọng nói của văn học vang lên thì sự nghi ngờ tan biến” – chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nhớ lại.

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận - Ảnh 5.

Nhà thơ Kevin Bowen (trái) và dịch giả Nguyễn Bá Chung

Năm 1994, Nhà xuất bản của Đại học Massachusetts Boston cho ra mắt tập thơ Việt đầu tiên: Thơ từ tài liệu chiến trường – Poems from the captured doccument do nhà thơ Bruce Weigl và tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh dịch.

Advertisement

Tác giả là những người lính giải phóng Việt Nam. Các nhà văn Mỹ và bạn đọc Mỹ đã vô cùng bất ngờ. Đây là những bài thơ nằm trong tài liệu mà Bộ Quốc phòng Mỹ thu được trong chiến tranh. Khi các nhà văn của Trung tâm William Joiner đọc các trang tài liệu đó đã phát hiện rất nhiều các bài thơ chép tay của những người lính.

“Họ nhận ra trong tâm hồn những người lính Việt chứa đựng giấc mơ gì khi bước vào cuộc chiến. Đó là được trở về quê sau chiến tranh để chăm sóc cha mẹ, lấy vợ lấy chồng, sinh con đẻ cái, cày cấy và gieo gặt”.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhận xét: “Những tác phẩm văn chương của cả hai phía là chiếc chìa khóa vàng mở tung cánh cửa hai nền văn hóa trong suốt cuộc chiến tranh. Để rồi con đường mà các nhà văn cựu binh Mỹ và nhà văn người lính Việt đã khai mở và dấn bước là con đường không thể khác giữa các dân tộc, nhất là các dân tộc từng là kẻ thù của nhau”.

Tôi nhớ mãi chuyến đi tới Mỹ lần đầu cách đây 30 năm. Khi bước vào sân nhà Kevin Bowen, cậu con trai 3 tuổi của Kevin nhoẻn cười và giơ bàn tay nhỏ xíu lên vẫy chào chúng tôi. Kevin dẫn tôi vào bếp nhà ông và chỉ cho tôi những chai nước mắm ông mua từ chợ ở phố Tàu. Ông biết người Việt không thể thiếu nước mắm trong bữa ăn. Chỉ thế thôi đã làm tôi nhận ra sự hận thù phải gác lại phía sau”.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam)

Advertisement

Những nhịp cầu nối tiếp

Tới nay Viện William Joiner là trung tâm duy nhất dịch những tác phẩm của những người lính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (hơn 20 tác phẩm) và là chiếc cầu đưa hơn 60 nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ Việt Nam sang Mỹ giao lưu. Qua những bản dịch đó, qua những cuộc qua lại đó, người Mỹ hiểu phong trào đấu tranh của Việt Nam, hiểu tâm hồn Việt Nam.

“Việc dịch văn học có một giá trị to lớn, một phần nào đó đã củng cố thêm vị thế của Việt Nam trong cuộc chiến tranh với Mỹ và khó có thể phản bác được. Đó là đóng góp rất lớn của Viện William Joiner đối với công cuộc hòa giải này” – dịch giả Nguyễn Bá Chung nói.

Các nhà văn Việt Nam và Mỹ đã bước đi những bước đầu tiên trong việc dựng lên cây cầu của hòa bình và tình yêu thương con người giữa hai dân tộc. Nhưng cây cầu đó vẫn phải tiếp tục được xây thêm những nhịp cầu mới.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều gọi Viện William Joiner là trung tâm xây cầu bền bỉ và dũng cảm nhất trên đất Mỹ và nhà thơ Kevin Bowen là một trong những kiến trúc sư làm nên cây cầu đó. Viện William Joiner đang đứng trước nhiều thách thức để tồn tại.

Advertisement

Trong khi đó, những nhà văn Mỹ yêu Việt Nam như quê hương thứ hai của mình mỗi ngày một già yếu.

“Phải nói rằng khởi đầu cho việc xây dựng cây cầu “đi qua biển’’ là Viện William Joiner, đứng đầu là nhà thơ Kevin. Còn bây giờ, tôi nghĩ người chủ động xây tiếp những nhịp cầu phải là Hội Nhà văn Việt Nam.

Với tình cảm và trách nhiệm của cá nhân, tôi sẽ kêu gọi các nhà văn Việt Nam cũng như những người quan tâm làm điều đó bằng tất cả các cách mà chúng tôi có thể” – nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nói.

“Trong nhiều năm, những chuyến đi của các nhà văn Việt Nam tới Mỹ mang ý nghĩa “hồi phục” cho chúng tôi rất lớn.

Nhìn thấy bạn bè, cùng nghe nhạc, nghe thơ ở sân sau, thăm đền chùa, thắp hương, nhìn thấy con của những người bạn lớn lên, bạn bè tôi trở thành ông bà.

Advertisement

Nói về đất nước của chúng tôi, những cái đúng và sai của họ. Những bài thơ, bộ phim, âm nhạc của họ. Việt Nam đã trở nên một nơi giống như để hành hương. Tôi không chắc là chúng tôi tìm kiếm cái gì. Có thể là sự hiểu nhau. Hòa bình. Tình yêu. Sự mở mắt”.

Nhà thơ Kevin Bowen chia sẻ trong bài viết về hành trình của Trung tâm William Joiner nhân 20 năm hoạt động trao đổi nghệ thuật.

Những dự án dịch văn học Việt Nam, chủ yếu là thơ, do Viện William Joiner thực hiện trong hơn 30 năm qua gồm: tuyển tập song ngữ – Thơ từ tài liệu chiến trường (Poems from captured documents, 1994), Người đàn bà gánh nước sông – thơ Nguyễn Quang Thiều (The women carry river water, 1997), Sông núi – Thơ Việt Nam qua những cuộc chiến 1948 – 1993 (Mountain river: Vietnamese poetry from the wars 1948 – 1993, 1998), Đường xa – thơ Nguyễn Duy (Distant road – Selected poems of Nguyen Duy, 1999), Thơ thiền Lý Trần (Early Zen Poems from Vietnam, 2005), Từ góc sân nhà em – thơ Trần Đăng Khoa (From the corner of my yard, 2006)… Về văn xuôi, viện có dịch tiểu thuyết Thời xa vắng (A time far past, 1997) của nhà văn Lê Lựu.

Nguồn: https://tuoitre.vn/van-hoc-bac-nhip-cau-buoc-qua-thu-han-20210426160612715.htm

Advertisement

Sách hay

Lịch sử chưa kể về ramen

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một khảo cứu thú vị về lịch sử món mì ramen ở Nhật Bản thông qua lăng kính phân tích và mối liên hệ chặt chẽ của món ăn với địa lý, chính trị, quan hệ đối ngoại, khoa học dinh dưỡng, truyền thông và bản sắc dân tộc.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 cho thấy Zhu Shun Shui đã chỉ cho Mitsukuni (cận vệ của Tokugawa Mitsukuni) cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa.

Mì ramen được giới thiệu lần đầu đến Nhật Bản vào năm 1665, năm 1884 hay năm 1910? Tiền thân của nó liệu có phải là món ăn được gọi với cái tên ūshin udon, Nankin soba hay Shina soba? Tùy thuộc vào câu trả lời mà chúng ta sẽ nghiệm suy về từng món ăn khác nhau với một giai thoại nguồn cội riêng, cùng một quỹ đạo lịch sử đặc thù mang đến các góc nhìn cụ thể về đất nước Nhật Bản. […]

Mi ra men anh 1

Bìa cuốn sách

Giai thoại đầu tiên, và cũng sống động nhất, đã xuất hiện ban đầu trong công trình nghiên cứu mang tính tiên phong về lịch sử của mì ramen (được xuất bản năm 1987) của nhà sử học về ẩm thực Kosuge Keiko, trong đó ấn định thời điểm món ăn này được trình làng là vào những năm 1660, đồng thời cho rằng Tokugawa Mitsukuni (tên khác là Mito Kōmon, 1628 − 1701) – vị lãnh chúa huyền thoại thời phong kiến (daimyō) nắm hàng thứ hai sau Mạc chủ (shōgun) (1) – là người đầu tiên thưởng thức món mì ramen ở Nhật Bản.

Là nhân vật lịch sử nổi tiếng ở Nhật và từng được một bộ phim truyền hình dài tập mô tả như một vị hảo hán, ở gần cuối mỗi tập phim, Tokugawa Mitsukuni thường tiết lộ danh tính của mình cho những kẻ xấu bằng cách để lộ ra hình ảnh chiếc inrō (hộp đựng trang trí sơn mài kích cỡ nhỏ) có khắc gia huy của dòng họ ông, cho thấy ông là vị daimyō trong vùng.

Advertisement

Câu thoại “Ngươi không nhận ra gia huy này sao?” (Kono mondokoro ga me ni hairanuka?) được Kaku-san (cận vệ của Mitsukuni) nhắc lại trong đoạn cao trào của mỗi tập phim nhằm khôi phục lại trật tự và cấp bậc, và khiến những kẻ bất lương ngang ngược phải lập tức cầu xin sự khoan hồng.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 về các hoạt động của Mitsukuni cho thấy rằng Zhu Shun Shui – một người Trung Quốc tị nạn khỏi chính quyền nhà Minh sống ở Mito vào thời điểm đó (2) – đã chỉ cho Mitsukuni cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa nhiều khả năng chính là món mì ramen ngày nay (3).

Mặc dù Mitsukuni được biết đến nhiều nhất trong lịch sử Nhật Bản khi đã khởi xướng kế hoạch kỳ vĩ biên soạn nên Dai Nihon Shi – hay Lịch sử vĩ đại của Nhật Bản – một cuốn sách mất gần 250 năm và mười thế hệ để hoàn thành, ông cũng là một người ca tụng triết học Lý học (Neo- Confucianism) (4) và đã tìm đến Trung Quốc để được soi đường chỉ lối cách trị nước.

Ông do vậy đã tham vấn và kết giao với Zhu, người trước đó từng nắm chức thượng quan ở Trung Quốc dưới thời nhà Minh nhưng quyết định đến Nhật Bản vào năm 1665 do phải lưu vong khỏi chế độ cai trị của Mãn Châu.

Mi ra men anh 2

Lãnh chúa Tokugawa Mitsukuni. Nguồn: wikipedia.

Zhu trở thành một trong những cố vấn quan trọng nhất của Mitsukuni, và làm việc trong chính quyền cai trị của ông này trong 17 năm tiếp theo cho đến khi qua đời vào năm 1682. Vai trò quan trọng của Zhu trong đội ngũ cố vấn của vị daimyō đã giúp ông có được một cuộc sống thoải mái, cùng một bia mộ nổi bật còn tồn tại cho đến ngày nay trong khu nghĩa trang của gia tộc Tokugawa nhánh Mito (5).

Advertisement

Trong thời gian hầu cận daimyō, Zhu biết được rằng Mitsukuni là một người rất thích ăn udon – loại mì nước hiện vẫn phổ biến ở Nhật Bản – với sợi mì làm từ bột mì sử dụng với nước dùng dashi (làm từ cá ngừ khô và tảo bẹ).

Vào thế kỷ 17, người Nhật thường ăn mì udon với quả mơ ngâm (umeboshi) và vừng. Thấy vậy, Zhu đã gợi ý về năm thành phần thường được sử dụng trong món mì nước Trung Quốc để vị daimyō vùng Mito có thể thêm vào nhằm cải thiện hương vị của món ăn. Năm thành phần (ūshin) mà ông chủ ý đề xuất gồm: rễ kiệu (rakkyō), tỏi, hẹ tỏi (nira), hành lá và gừng (6).

Từ những dữ kiện này, nhà sử học về ẩm thực Kosuge phỏng đoán rằng Tokugawa Mitsukuni chính là cha đẻ của tập tục ăn mì nước Trung Quốc ở Nhật Bản. Sau này Bảo tàng Ramen ở Shin-Yokohama đã phổ biến rộng rãi câu chuyện trên, và kết quả là vào năm 2003, Tập đoàn Thực phẩm Nissin của Nhật Bản nhà sản xuất mì ramen ăn liền lớn nhất thế giới – trong một thời gian ngắn đã cho ra – mắt nhãn hiệu mì ăn liền U-shin có in hình gia huy của gia tộc Tokugawa, được điểm tô bằng giai thoại về Mitsukuni và Zhu.

Mặc dù khó xác định liệu món ăn từng được ưa chuộng bởi vị lãnh chúa nổi tiếng của vùng Mito kia tương thích ra sao với món ăn ngày nay được gọi với cái tên “mì ramen”, cần ghi nhớ rằng câu chuyện được lưu truyền rộng rãi ở trên về sự xuất hiện tại Nhật Bản của món mì nước kiểu người Hoa đã thiết lập nên một giai thoại nguồn cội trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên hiện đại – một thời đại được đánh dấu bằng việc người Nhật có xu hướng học hỏi người Trung Quốc.

Mặc dù câu chuyện trên được coi như một phiên bản bao trùm đầy lôi cuốn về nguồn gốc của món ăn, với đầy đủ các nhân vật ngoài đời thực cùng những tương tác tưởng tượng dựa trên các cách diễn giải không thành kiến đối với những ghi chép lịch sử, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhấn mạnh sự ngưỡng mộ của người Nhật đối với một nước Trung Quốc thời tiền Thanh.

Advertisement

—————-

1. Một tước hiệu đặc biệt dành cho những vị tướng quân có chức vụ cao nhất trong thời kỳ phong kiến của Nhật Bản. (ND)

2. Khi triều đại nhà Thanh củng cố quyền lực của mình lên miền nam Trung Quốc, một số học giả Nho giáo làm việc cho chính quyền nhà Minh đã trốn sang Đại Hàn và Nhật Bản để làm cố vấn.

3. Kosuge Keiko, Nippon Rāmen Monogatari: Chūka soba wa itsu doko de umareta ka (Tokyo: Shinshindō, 1987), tr.45-59.

4. Tư tưởng triết lý Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Lý học có thể được xem là nỗ lực hợp lý hóa cũng như thế tục hóa Nho giáo bằng cách loại bỏ các yếu tố mê tín, huyền bí của Đạo giáo và Phật giáo, vốn từng được đưa vào Nho giáo trong và sau đời nhà Hán. (ND)

Advertisement

5. Sĩ quan hải quân người Mỹ. (ND)

6. Cho đến năm 1854, khi Hiệp ước Perry đầu tiên có hiệu lực, triều đại Tokugawa ở Nhật Bản đã duy trì chính sách tránh tiếp xúc với các cường quốc phương Tây (ngoài Hà Lan) trong hơn hai thế kỷ để hạn chế tình trạng hỗn loạn do những nỗ lực cải đạo của các nhà truyền giáo Cơ đốc ở Nhật Bản. Riêng Hà Lan đã đồng ý giới hạn mối quan hệ giữa hai nước chỉ trong lĩnh vực thương mại, kết quả là Hà Lan trở thành quốc gia châu Âu duy nhất duy trì quan hệ thương mại và ngoại giao với Nhật Bản từ năm 1639 đến năm 1854.

Nguồn: https://znews.vn/giai-thoai-ve-su-xuat-hien-cua-mi-ramen-mon-an-quoc-dan-nhat-ban-post1455469.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Nóng giận là bản năng tĩnh lặng là bản lĩnh

Được phát hành

,

Bởi

Trong cuốn sách, tác giả Tống Mặc đã trò chuyện với độc giả về cách kiềm chế cơn nóng giận, học cách bao dung, kiểm soát cảm xúc của mình trước những tác động của cuộc sống.

Ai chẳng có lúc giận dữ, nóng giận là hạt mầm được gieo vào tâm ta từ lúc mới chào đời. Nhưng kìm chế cơn giận là bản lĩnh cần rèn luyện mỗi ngày.

Kim che con gian anh 1

Thái độ điềm tĩnh sẽ giúp con người dễ dàng vượt qua nghịch cảnh, đón nhận thử thách. Ảnh: P.G.

Điềm đạm là sự điềm tĩnh xuất phát từ nội tâm. Cổ nhân cho rằng: “Điềm tĩnh dưỡng thần, phật dịch ô vật.” Ý muốn nói, điềm tĩnh có thể dưỡng tâm, giúp con người không phụ thuộc vào thứ bên ngoài. Điềm tĩnh nói đến một thái độ sống “lùi”, vạn sự thuận theo tự nhiên, người giữ được tinh thần như vậy, chắc chắn có thể làm tốt việc dưỡng tâm.

Hiện giờ, ngày càng có nhiều người theo đuổi việc “dưỡng sinh”. Dưỡng sinh gồm có dưỡng tâm, dưỡng tính và dưỡng thân. Nhưng rất nhiều người chỉ quan tâm đến việc dưỡng thân, cho rằng chỉ cần chăm sóc cơ thể cho thật đẹp đẽ, khỏe mạnh, thì có thể hưởng thụ cuộc sống lâu dài. Cho nên, số người có thể kiên trì hàng ngày tập luyện thể thao, ăn uống lành mạnh thì nhiều, nhưng số người có thể kiên trì dưỡng tâm hàng ngày lại rất ít.

Advertisement

Có một bà mẹ cực kỳ chú trọng việc dưỡng sinh. Gặp ai cô ấy cũng thao thao bất tuyệt về đạo lý dưỡng sinh, về việc mỗi ngày phải ăn cái gì, ăn bao nhiêu, ăn thế nào, vận động bao lâu… Cô ấy nói hết lần này đến lần khác: Chỉ có làm như vậy, mới không bị bệnh! Nhưng mỗi lần nghe những điều này, tôi đều thấy rất lạ. Một người ngày nào cũng bận rộn chuẩn bị đồ ăn lành mạnh cho bản thân từ sáng đến tối, sợ mình ăn phải đồ ăn không tốt sẽ sinh bệnh, không thể sống thọ, ngày nào cũng lo lắng như vậy, liệu có vui vẻ được không?

Nếu như chúng ta dư ỡng sinh mà không bắt đầu từ việc dưỡng tâm dưỡng tính, trong lòng sẽ có nhiều phiền não, có nhiều ham muốn. Như vậy, “hạnh phúc” mà chúng ta được hưởng chỉ dừng ở mức ăn ngon mặc đẹp và cơ thể khỏe mạnh, đó không phải cuộc sống thăng hoa chân chính.

Đại sư Hoằng Nhất cho rằng điềm đạm là “điều đầu tiên của việc dưỡng tâm”. Điềm đạm mà ngài nói tới suy cho cùng là cần con người phải tĩnh tâm. Thế gian này bao chuyện phiền não, dễ ảnh hưởng đến tâm lý của con người.

Kim che con gian anh 2

Cuốn sách Nóng giận là bản năng, tĩnh lặng là bản lĩnh mang đến cho người đọc nhiều lời khuyên hữu ích. Ảnh: Chi.

Cho nên, nhiều người nghĩ rằng tâm mình không tĩnh là vì đang bị quá nhiều chuyện quấy nhiễu. Thật ra, ta bị quấy rầy không phải vì những chuyện phiền nhiễu trên đời, mà vì tâm không tĩnh. Khi chúng ta có thể tách khỏi tất cả sự vật bên ngoài, cho dù ở trong hoàn cảnh nào, ta cũng có thể hưởng thụ cuộc sống an nhàn thực sự.

Trong xã hội hiện thực này, rất nhiều chuyện sẽ làm cho chúng ta “dao động”.

Advertisement

Khi một người mỗi ngày kiếm được 10 đồng, chỉ đủ để ăn no, anh ta cảm thấy rất thoải mái, nhưng lại mơ mỗi ngày kiếm được 100 đồng; khi kiếm được 100 đồng mỗi ngày, anh ta lại cảm thấy mệt hơn trước rất nhiều, và không thấy hài lòng lắm, bởi vì có người mỗi ngày kiếm được 1.000 đồng.

Anh ta làm việc chăm chỉ hơn, cuối cùng cũng có thể kiếm 1.000 đồng mỗi ngày, anh ta bắt đầu mua xe, mua nhà, sống cuộc sống tốt đẹp mà anh ta từng ao ước, nhưng anh ta lại bắt đầu hướng về cuộc sống mỗi ngày kiếm được 10.000 đồng…

Chúng ta luôn rơi vào một vòng tròn kỳ lạ như vậy. Chúng ta luôn cho rằng khi đạt được điều gì mình mong đợi đã lâu, trong lòng sẽ cảm thấy yên tâm, hài lòng, từ đó có thể hạnh phúc. Nhưng sau khi đạt được điều mình muốn, ta lại có cảm giác cũng chỉ thế mà thôi. Những ham muốn lớn hơn nối tiếp nhau, mục tiêu ngày càng cao, và chúng ta càng ngày càng mệt hơn.

Do đó, một người sau khi có biệt thự, xe hơi, anh ta càng không hạnh phúc, bởi anh ta lo sợ một ngày nào đó sẽ mất đi cuộc sống như vậy, do đó đành phải dốc sức làm việc nhiều hơn, ép bản thân phải kiếm được 100.000 mỗi ngày, nếu chỉ kiếm được 80.000 thì thở dài ngao ngán.

Ngày nào cũng sống trong nỗi sợ mất đi danh lợi, gánh áp lực khủng khiếp, làm sao mà không sinh bệnh cho được? Dĩ nhiên, không phải con người không thể sống như vậy, danh lợi vốn là sự theo đuổi lớn nhất cuộc đời đối với một người bình thường.

Advertisement

Nhưng ý ở đây muốn nói, nếu như cuộc sống như vậy làm cho chúng ta cảm thấy thêm áp lực, thêm phiền muộn, không hề có cảm giác hạnh phúc, thì bạn hoàn toàn có thể suy nghĩ theo hướng khác.

Không nhất thiết phải từ bỏ những thứ như biệt thự, xe hơi, chỉ cần từ bỏ việc cố chấp gắn bó với những thứ này, dù kiếm được 1.000.000 mỗi ngày cũng không ngạo mạn, mà mỗi ngày kiếm được 10 đồng cũng không chán chường, muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, không cần gượng ép bản thân, bạn có thể cảm nhận được sự hạnh phúc ngay lập tức.

Người có nội tâm điềm đạm là người ngay cả khi mặc một chiếc áo vải, ăn một bữa cơm đạm bạc, vẫn có thể an nhàn thoải mái, không có chút cảm giác khó chịu hay không vui nào. Cho dù đối mặt với phiền não và sinh tử, họ cũng có thể thản nhiên đối diện, trong lòng không một chút gợn sóng đau khổ, không cần ăn ngon mặc đẹp vẫn cảm thấy yên bình và hạnh phúc.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/kim-che-con-gian-la-ban-linh-can-co-cua-nguoi-truong-thanh-post1455101.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tuổi ấy mình yêu

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn tản văn “Tuổi ấy mình yêu” ghi lại nhiều ký ức về Hà Nội của thế hệ 6X, 7X. Khi ấy thành phố tuy còn nhiều gian khó nhưng đầy lãng mạn với những biệt thự cổ rêu phong, cùng những thanh niên tha thiết yêu đời!

Dòng thời gian miên man đưa ta về những kỷ niệm ấu thơ không thể nào quên. Mùa hè nóng như đổ lửa, chẳng có điều hòa lẫn quạt điện, chỉ đành phe phẩy quạt nan xua đi cái nóng.

Tuoi ay minh yeu anh 1

Cảnh mấy đứa trẻ ngồi ở bể nước công cộng để mẹ tắm rửa là hình ảnh quen thuộc thời bao cấp. Ảnh: Fclikr.

Ở miền ôn đới mà nhiệt độ lên tới 40 thì không thể không coi là sự kiện. Vì thế mà ai chưa kịp trẻ lại, gầy đi, chết vì nóng thì cứ, rất nhiều người thích, tranh thủ cởi gần hết cho da có màu suy nghĩ. Cái màu này, Tây và ngay cả ta chưa từng trải đời này dăm chục năm tha hồ suy nghĩ cũng chả biết là màu gì.

[…]

Advertisement

Thành phố uể oải trong hơi nóng làm người cứ lơ mơ, thương chả ra thương nhớ chẳng ra nhớ, cứ dằng dai lừng khừng. Chẳng biết có phải dân ở những xứ nóng động cái là sùng sục hừng hực lên là vì một năm mấy mùa đã tha hồ uể oải rồi không?

Chiều qua thứ bảy, chỉ còn mấy tiếng nữa cửa hàng cửa họ đóng, đóng cửa luôn ngày chủ nhật là ngày đến Chúa cũng không làm gì (mà còn làm làm gì, sửa sai thế nào được nữa sau khi đã tạo ra con người) nhưng nắng vẫn còn chấp chới trên bờ tường, ngọn cây, mái nhà. Say nắng trưa rồi, không dám đi xa, chỉ lếch thếch ra đầu phố xem có quả dưa hấu nào nhẹ hơn một yến để tha về ăn giải nhiệt chờ mưa.

Mưa thì chưa, dưa thì không nhẹ, chẳng mua bán gì nữa, đi về. Ngang qua cái quán nhỏ đầu phố thấy bàn nào cũng có người ngồi lơ mơ. Có ông lẩn mẩn lúc quờ cốc cà phê đưa lên môi lúc sờ cây bút bi chơi đố chữ.

Có mẹ nạ dòng cháu sớm phom dáng cực kì hùng tráng vẫn chẳng ngần ngại gọi cốc kem to cho xứng người, ăn thi với cháu. Có bà già lim dim mắt xếp tà váy rồi ngồi vắt chân đầy vẻ quý phái khiêu khích kiểu Marlene Dietrich, thay vì điếu thuốc trên tay lại thấy phảy một cái quạt giấy thật là xinh.

Kỷ vật của những ngày nắng hạ Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Tuynidi gì đó đây, không biết cụ mua hay cụ trai nào tặng, mùa hạ vừa đi qua hay từ đời thăm thẳm nỗi niềm nào.

Advertisement

Bất chợt thấy mình chậm bước. Bất chợt hình dung lại, ngày xưa, cũng quạt giấy như này. Bà tóc bạc vấn lẳn trong vành khăn trắng để “trở” ai trong họ chẳng biết. Bà đứng chờ tàu điện chỗ Ô Cầu Dền. Bà luôn luôn có cái quạt trong tay phe phảy cho cháu bám quẩn bên chân.

Bà ngồi chân co chân duỗi đầu tấm phản sau này hạ xuống che cái hầm trú ẩn đào ngay dưới gậm giường rồi cúi người vuốt ngay ngắn ống quần, mở âu giầu, tỉ mẩn tiện miếng vỏ quạch, xé mảnh lá giầu không, bổ nhỏ miếng cau đã bổ sáu từ trước, quết chút vôi trắng, nhúm chút thuốc lào rồi đưa lên miệng, rồi bận bịu dọi lại vành cái quạt nan, xếp lại cái quạt giấy, lầm thầm không biết là mắng đứa cháu nào dùng đồ xong buông quăng bỏ vãi, vô ý vô tứ chẳng biết của bền tại người.

Chao ôi những buổi chiều Hà Nội hết chiến tranh, đã khó nghèo càng thêm khó nghèo vì mẹ mất, nhưng bà còn đó cho chị em mình nương dựa, bà còn đó, giữ lại cho chị em mình những gì còn có thể giữ được, là sự ngây ngô quý giá nhất của tuổi ấu thơ.

Tuoi ay minh yeu anh 2

Cuốn tản văn Tuổi ấy mình yêu của nhà văn Lê Minh Hà. Ảnh: NXB Trẻ.

Cũng cái quạt giấy này, trong bàn tay con gái những ngày cuối cùng đến lớp, giấy trang kim màu tím, nan tre, thằng bạn ngồi bên giằng lấy hỏng luôn chỗ tay cầm, những cái nan rời nhau ra, thế mà nó ra sức khoát tay quạt cho cả mình với nó. Tức mà nghĩ tới những ngày sắp xa đi, gặp lại không biết có đủ tự tin như giờ vẫn hay gây sự với nhau, nghĩ tới cái compa dở hơi nó vẫn nhường mình trong giờ hình học, thôi im vậy.

Bà già váy hoa vẫn đang lơ mơ bên cốc kem phe phẩy cái quạt giấy rõ là xinh. Uể oải thì mình đang uể oải lắm rồi, nhưng có mơ đâu, mà cảm như từ đâu xưa hơi gió từ cái quạt giấy muôn đời. Chỉ phảy nhẹ phảng phất thôi đã đủ làm xao động hơi nóng ngày tháng hạ vì cái mùi hơi thum thủm của những nan quạt vót từ tre ngâm ao bùn.

Advertisement

Ở Hà Nội giờ hay gặp các bà đi tập dưỡng sinh. Khi biểu diễn dưỡng sinh, các bà mặc cả bộ sa tanh đỏ, cứ từng lúc lại khuỵu đầu gối trong tư thế cảm tử lao về phía trước, trong tay là cái quạt hình thù như cái quạt giấy mình quen pạch một cái đồng loạt xòe ra.

Chưa tới gần nên không biết nan quạt bằng tre bằng gỗ hay bằng nhựa, nhưng cái quạt cũng màu đỏ rực, lại có tua rua, xòe ra đều còn hơn các diễn viên hội đoàn tập múa, chỉ còn thiếu hai bím tóc ngắn vểnh ngang tai và trẻ đi dăm chục tuổi là gần bằng diễn viên kinh kịch Bắc Kinh nhảy một cái, xoạc chân một cái, cao giọng á a a trên sân khấu Hà Nội một thời.

Về với Hà Nội, cứ lần nào nhìn thấy những mảnh tam giác đỏ rực ấy chói lọi trong nắng sớm cũng giật mình.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/mua-he-da-xa-post1455038.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Xu hướng