Connect with us

Sách hay

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận

Được phát hành

,

Ông Chung nói số phận của ông cũng giống Viện William Joiner trong suốt hơn 30 năm qua. Đó là một quá trình cảm nghiệm khi “đọc lại” (thứ mà người Mỹ thường gọi là) “Vietnam war”, hay “chiến tranh Việt Nam”.

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận - Ảnh 1.

Đón Phó thủ tướng (nay là Chủ tịch nước) Nguyễn Xuân Phúc tại Trung tâm William Joiner – Ảnh: Dịch giả Nguyễn Bá Chung cung cấp

Nghe nói bên đó, họ gọi ông là “Chung mũ cối”?”. Từ màn hình FaceTime bên kia địa cầu, nhà thơ, dịch giả Nguyễn Bá Chung cười lớn: “Đúng. Từ lúc đồng hành cùng Viện Nghiên cứu chiến tranh và hậu quả xã hội William Joiner, dịch các tác phẩm văn học Việt để giới thiệu tại Mỹ, tôi bị gắn mác “tuyên truyền cho Cộng sản”. Họ ghét bỏ, kỳ thị, bôi nhọ, chẳng thiếu thứ gì”. “Họ là ai?”. Một bộ phận người Mỹ gốc Việt. Một bộ phận người Mỹ bảo thủ. Họ còn là một ai đó khác nữa.

Ông Chung nói số phận của ông cũng giống Viện William Joiner trong suốt hơn 30 năm qua. Đó là một quá trình cảm nghiệm khi “đọc lại” (thứ mà người Mỹ thường gọi là) “Vietnam war”, hay “chiến tranh Việt Nam”.

Được đặt theo tên một cựu binh Mỹ trở về từ chiến tranh Việt Nam, Viện William Joiner (tên cũ là Trung tâm William Joiner) là trung tâm nghiên cứu có một không hai trên thế giới: trực thuộc một đại học công (Đại học Massachusetts Boston), nhận tiền tài trợ của ngân quỹ tiểu bang nhưng lại mang màu sắc phản chiến.

Bằng các hoạt động kiên trì của mình, nó là cầu nối duy nhất giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Mỹ trong thời kỳ cấm vận.

Việt Nam từ xa Tổ quốc

Nguyễn Bá Chung theo gia đình di cư từ Bắc vào Nam năm 1955 lúc 6 tuổi. Lớn lên trong bối cảnh trường học cũng như các cuộc thảo luận công khai ở miền Nam thời đó, giống nhiều người khác, ông cũng tin tưởng vào cuộc đấu tranh tự do dân chủ mà chính quyền miền Nam trước năm 1975 đưa ra để chống lại Bắc Việt.

Nhưng rồi phong trào Phật giáo diễn ra năm 1963 đã dấy lên “sự xét lại” đầu tiên trong tâm trí của ông về chính quyền miền Nam Việt Nam.

Là con một, Nguyễn Bá Chung được miễn quân dịch. Cuối năm 1971, ông rời Việt Nam sang Mỹ theo một học bổng văn chương tại Đại học Brandeis ở Massachusetts. Tại đây, ông bắt đầu được tiếp cận những cuốn sách do người Tây phương viết về cuộc chiến ở Việt Nam.

Ông nói: “Tôi bắt đầu nhìn cuộc chiến với một góc nhìn khác. Cùng những người Mỹ tiến bộ, yêu chuộng hòa bình, phong trào phản chiến dâng cao tại Mỹ trong thập niên 1960, 1970, tôi cũng tham gia những hoạt động đòi lính Mỹ rút khỏi Việt Nam khi đó”.

Ngày 30-4-1975, chiến tranh Việt Nam kết thúc. Tiếng súng không còn nhưng Chính phủ Mỹ áp dụng lệnh cấm vận đối với Việt Nam.

“Giống như đa số các cựu binh, chiến tranh súng đạn đã chấm dứt từ năm 1975, hoặc sớm hơn tùy mỗi cá nhân, nhưng cuộc chiến tranh không súng đạn vẫn tiếp tục kéo dài”, dịch giả Nguyễn Bá Chung mường tượng.

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận - Ảnh 3.

Hàng trăm cuộc gặp gỡ giữa nhà văn hai nước Việt – Mỹ được tổ chức trong 30 năm qua – Ảnh: Nhà thơ Trần Anh Thái cung cấp

Nhà thơ cựu binh Mỹ Kevin Bowen, nguyên giám đốc Trung tâm William Joiner, trong một bài viết kể lại đã có những nỗ lực trong việc thành lập một trung tâm mang tên William Joiner để tiếp tục công việc bảo vệ những người lính giải ngũ – còn nhiều dang dở (vì William Joiner qua đời năm 1981), đồng thời phát triển các nghiên cứu và tài liệu giáo trình để giúp cho nước Mỹ hiểu cuộc chiến tranh Việt Nam và những hậu quả của nó, song không hề dễ dàng.

Rồi Trung tâm William Joiner được thành lập vào tháng 10-1982, bắt đầu những hoạt động đầu tiên, một trong số đó là tổ chức một hội nghị quốc tế về chất độc da cam và tổ chức một chuyến sang Việt Nam sau lễ Giáng sinh năm 1985.

Theo lời miêu tả của Kevin Bowen, chuyến đi trở lại Việt Nam lần thứ 2 năm 1986 đã biến đổi ông một lần nữa.

Hồi còn trẻ, Kevin Bowen có làm thơ nhưng từ chiến trường trở về, ông không viết được nữa. Ông gọi mình là “một nhà thơ bị ngắt quãng”.

Kevin muốn làm một điều gì đó để hàn gắn vết thương giữa hai quốc gia, giữa những người lính ở hai chiến tuyến. Là nhà thơ, ông nghĩ ngay tới văn chương.

Sau cuộc gặp với nhà văn Lê Lựu và đạo diễn Hồ Quang Minh trong chuyến trở lại Việt Nam đó, Kevin bày tỏ ý định gây quỹ mời nhà văn Việt sang Mỹ giao lưu. Năm 1988, nhà văn Lê Lựu và Ngụy Ngữ là hai nhà văn Việt Nam đầu tiên sang Mỹ trong thời gian cấm vận đó.

Phong trào phản chiến ở Mỹ khi đó vẫn đang phát triển, ý tưởng của Kevin Bowen nhanh chóng được một số người ủng hộ. Các cuộc giao lưu văn học diễn ra ngày càng mạnh.

Kevin nghĩ đã đến lúc phải dịch và xuất bản rộng hơn. Trung tâm William Joiner cần tìm một người thông dịch mà cả nước Mỹ khó có thể “bói” ra một người như vậy. Nguyễn Bá Chung đồng ý, dù lúc đó công việc điện toán cũng rất bận.

“Lý do tôi nhận lời, thực ra cũng chẳng phải bắt nguồn từ một điều gì to tát. Chỉ là công việc đó giúp tôi giải quyết nhu cầu của bản thân: sự tò mò về chiến tranh Việt Nam. Cho tới lúc đó, tôi vẫn không thể hiểu vì sao nước Mỹ lại thua trận.

Cá nhân tôi muốn gặp những nhà văn Việt Nam, đọc và dịch tác phẩm của họ, xem thử có câu trả lời nào ở đó không” – dịch giả Nguyễn Bá Chung cho biết. Bên cạnh đó, cách đối xử nồng hậu của Kevin Bowen với nhà văn Việt khiến ông xúc động.

Một con người có lòng với đất nước mình như vậy, sao ông lại không đồng hành? Để rồi nối tiếp hơn 10 năm làm thông dịch thiện nguyện, ông Chung nghỉ hẳn công việc điện toán lương cao làm chính thức cho trung tâm. Tới nay cũng hơn ba mươi năm có lẻ.

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận - Ảnh 4.

Chân dung một số nhà văn, nhà thơ Việt Nam do nhà thơ cựu binh Mỹ Kevin Bowen vẽ. Từ trái qua, trên xuống: nhà thơ Chính Hữu, nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà văn Bảo Ninh, nhà văn Phan Thị Vàng Anh, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, nhà văn Đỗ Chu, GS Hoàng Ngọc Hiến, nhà văn Lê Văn Thảo

Văn học khai mở

Trò chuyện với Tuổi Trẻ, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều – chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam – kể lại hành trình các nhà văn ở cả hai phía trong chặng đường “đi qua biển” để tìm kiếm sự thấu hiểu và chia sẻ. Sau chiến tranh, những cựu binh Mỹ tìm đến Việt Nam trước khi các nhà văn Việt tìm đến Mỹ. Họ muốn đi tới hòa bình thực sự và ý nghĩa.

Trong bối cảnh mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ vẫn còn căng thẳng, các nhà chính trị của hai đất nước chưa thể đến với nhau, các thương gia cũng chưa thể đến với nhau, các nhà văn đã bắc những nhịp cầu. Văn học chỉ ra rằng cái Đẹp (văn chương) sẽ xóa đi mọi giới hạn, chia cắt và biên giới.

Năm 1991, cuộc gặp gỡ chính thức giữa các nhà văn ở hai chiến tuyến được diễn ra tại Hà Nội. Trong cuộc gặp các nhà văn cựu binh Mỹ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cười và nói: “Các bạn ăn trái cây đi, những trái cây này không nhiễm chất độc da cam”. Những nhà văn cựu binh Mỹ đã cười trong nước mắt.

Qua lời kể của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, những chuyến đi mở đầu đó thực sự quá nhiều khó khăn. Khi các nhà văn Việt tiếp đón các nhà văn cựu binh Mỹ, không ít người Việt, kể cả nhà văn, không chấp nhận sự tiếp đón nồng ấm ấy.

Có những chuyến đi đến Mỹ, các nhà văn Việt Nam bị biểu tình, tấn công. “Nhưng quả thực, khi những giọng nói của văn học vang lên thì sự nghi ngờ tan biến” – chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nhớ lại.

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận - Ảnh 5.

Nhà thơ Kevin Bowen (trái) và dịch giả Nguyễn Bá Chung

Năm 1994, Nhà xuất bản của Đại học Massachusetts Boston cho ra mắt tập thơ Việt đầu tiên: Thơ từ tài liệu chiến trường – Poems from the captured doccument do nhà thơ Bruce Weigl và tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh dịch.

Tác giả là những người lính giải phóng Việt Nam. Các nhà văn Mỹ và bạn đọc Mỹ đã vô cùng bất ngờ. Đây là những bài thơ nằm trong tài liệu mà Bộ Quốc phòng Mỹ thu được trong chiến tranh. Khi các nhà văn của Trung tâm William Joiner đọc các trang tài liệu đó đã phát hiện rất nhiều các bài thơ chép tay của những người lính.

“Họ nhận ra trong tâm hồn những người lính Việt chứa đựng giấc mơ gì khi bước vào cuộc chiến. Đó là được trở về quê sau chiến tranh để chăm sóc cha mẹ, lấy vợ lấy chồng, sinh con đẻ cái, cày cấy và gieo gặt”.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhận xét: “Những tác phẩm văn chương của cả hai phía là chiếc chìa khóa vàng mở tung cánh cửa hai nền văn hóa trong suốt cuộc chiến tranh. Để rồi con đường mà các nhà văn cựu binh Mỹ và nhà văn người lính Việt đã khai mở và dấn bước là con đường không thể khác giữa các dân tộc, nhất là các dân tộc từng là kẻ thù của nhau”.

Tôi nhớ mãi chuyến đi tới Mỹ lần đầu cách đây 30 năm. Khi bước vào sân nhà Kevin Bowen, cậu con trai 3 tuổi của Kevin nhoẻn cười và giơ bàn tay nhỏ xíu lên vẫy chào chúng tôi. Kevin dẫn tôi vào bếp nhà ông và chỉ cho tôi những chai nước mắm ông mua từ chợ ở phố Tàu. Ông biết người Việt không thể thiếu nước mắm trong bữa ăn. Chỉ thế thôi đã làm tôi nhận ra sự hận thù phải gác lại phía sau”.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam)

Những nhịp cầu nối tiếp

Tới nay Viện William Joiner là trung tâm duy nhất dịch những tác phẩm của những người lính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (hơn 20 tác phẩm) và là chiếc cầu đưa hơn 60 nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ Việt Nam sang Mỹ giao lưu. Qua những bản dịch đó, qua những cuộc qua lại đó, người Mỹ hiểu phong trào đấu tranh của Việt Nam, hiểu tâm hồn Việt Nam.

“Việc dịch văn học có một giá trị to lớn, một phần nào đó đã củng cố thêm vị thế của Việt Nam trong cuộc chiến tranh với Mỹ và khó có thể phản bác được. Đó là đóng góp rất lớn của Viện William Joiner đối với công cuộc hòa giải này” – dịch giả Nguyễn Bá Chung nói.

Các nhà văn Việt Nam và Mỹ đã bước đi những bước đầu tiên trong việc dựng lên cây cầu của hòa bình và tình yêu thương con người giữa hai dân tộc. Nhưng cây cầu đó vẫn phải tiếp tục được xây thêm những nhịp cầu mới.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều gọi Viện William Joiner là trung tâm xây cầu bền bỉ và dũng cảm nhất trên đất Mỹ và nhà thơ Kevin Bowen là một trong những kiến trúc sư làm nên cây cầu đó. Viện William Joiner đang đứng trước nhiều thách thức để tồn tại.

Trong khi đó, những nhà văn Mỹ yêu Việt Nam như quê hương thứ hai của mình mỗi ngày một già yếu.

“Phải nói rằng khởi đầu cho việc xây dựng cây cầu “đi qua biển’’ là Viện William Joiner, đứng đầu là nhà thơ Kevin. Còn bây giờ, tôi nghĩ người chủ động xây tiếp những nhịp cầu phải là Hội Nhà văn Việt Nam.

Với tình cảm và trách nhiệm của cá nhân, tôi sẽ kêu gọi các nhà văn Việt Nam cũng như những người quan tâm làm điều đó bằng tất cả các cách mà chúng tôi có thể” – nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nói.

“Trong nhiều năm, những chuyến đi của các nhà văn Việt Nam tới Mỹ mang ý nghĩa “hồi phục” cho chúng tôi rất lớn.

Nhìn thấy bạn bè, cùng nghe nhạc, nghe thơ ở sân sau, thăm đền chùa, thắp hương, nhìn thấy con của những người bạn lớn lên, bạn bè tôi trở thành ông bà.

Nói về đất nước của chúng tôi, những cái đúng và sai của họ. Những bài thơ, bộ phim, âm nhạc của họ. Việt Nam đã trở nên một nơi giống như để hành hương. Tôi không chắc là chúng tôi tìm kiếm cái gì. Có thể là sự hiểu nhau. Hòa bình. Tình yêu. Sự mở mắt”.

Nhà thơ Kevin Bowen chia sẻ trong bài viết về hành trình của Trung tâm William Joiner nhân 20 năm hoạt động trao đổi nghệ thuật.

Những dự án dịch văn học Việt Nam, chủ yếu là thơ, do Viện William Joiner thực hiện trong hơn 30 năm qua gồm: tuyển tập song ngữ – Thơ từ tài liệu chiến trường (Poems from captured documents, 1994), Người đàn bà gánh nước sông – thơ Nguyễn Quang Thiều (The women carry river water, 1997), Sông núi – Thơ Việt Nam qua những cuộc chiến 1948 – 1993 (Mountain river: Vietnamese poetry from the wars 1948 – 1993, 1998), Đường xa – thơ Nguyễn Duy (Distant road – Selected poems of Nguyen Duy, 1999), Thơ thiền Lý Trần (Early Zen Poems from Vietnam, 2005), Từ góc sân nhà em – thơ Trần Đăng Khoa (From the corner of my yard, 2006)… Về văn xuôi, viện có dịch tiểu thuyết Thời xa vắng (A time far past, 1997) của nhà văn Lê Lựu.

Nguồn: https://tuoitre.vn/van-hoc-bac-nhip-cau-buoc-qua-thu-han-20210426160612715.htm

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng