Connect with us

Sách hay

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận

Được phát hành

,

Ông Chung nói số phận của ông cũng giống Viện William Joiner trong suốt hơn 30 năm qua. Đó là một quá trình cảm nghiệm khi “đọc lại” (thứ mà người Mỹ thường gọi là) “Vietnam war”, hay “chiến tranh Việt Nam”.

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận - Ảnh 1.

Đón Phó thủ tướng (nay là Chủ tịch nước) Nguyễn Xuân Phúc tại Trung tâm William Joiner – Ảnh: Dịch giả Nguyễn Bá Chung cung cấp

Nghe nói bên đó, họ gọi ông là “Chung mũ cối”?”. Từ màn hình FaceTime bên kia địa cầu, nhà thơ, dịch giả Nguyễn Bá Chung cười lớn: “Đúng. Từ lúc đồng hành cùng Viện Nghiên cứu chiến tranh và hậu quả xã hội William Joiner, dịch các tác phẩm văn học Việt để giới thiệu tại Mỹ, tôi bị gắn mác “tuyên truyền cho Cộng sản”. Họ ghét bỏ, kỳ thị, bôi nhọ, chẳng thiếu thứ gì”. “Họ là ai?”. Một bộ phận người Mỹ gốc Việt. Một bộ phận người Mỹ bảo thủ. Họ còn là một ai đó khác nữa.

Ông Chung nói số phận của ông cũng giống Viện William Joiner trong suốt hơn 30 năm qua. Đó là một quá trình cảm nghiệm khi “đọc lại” (thứ mà người Mỹ thường gọi là) “Vietnam war”, hay “chiến tranh Việt Nam”.

Được đặt theo tên một cựu binh Mỹ trở về từ chiến tranh Việt Nam, Viện William Joiner (tên cũ là Trung tâm William Joiner) là trung tâm nghiên cứu có một không hai trên thế giới: trực thuộc một đại học công (Đại học Massachusetts Boston), nhận tiền tài trợ của ngân quỹ tiểu bang nhưng lại mang màu sắc phản chiến.

Bằng các hoạt động kiên trì của mình, nó là cầu nối duy nhất giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Mỹ trong thời kỳ cấm vận.

Việt Nam từ xa Tổ quốc

Nguyễn Bá Chung theo gia đình di cư từ Bắc vào Nam năm 1955 lúc 6 tuổi. Lớn lên trong bối cảnh trường học cũng như các cuộc thảo luận công khai ở miền Nam thời đó, giống nhiều người khác, ông cũng tin tưởng vào cuộc đấu tranh tự do dân chủ mà chính quyền miền Nam trước năm 1975 đưa ra để chống lại Bắc Việt.

Nhưng rồi phong trào Phật giáo diễn ra năm 1963 đã dấy lên “sự xét lại” đầu tiên trong tâm trí của ông về chính quyền miền Nam Việt Nam.

Là con một, Nguyễn Bá Chung được miễn quân dịch. Cuối năm 1971, ông rời Việt Nam sang Mỹ theo một học bổng văn chương tại Đại học Brandeis ở Massachusetts. Tại đây, ông bắt đầu được tiếp cận những cuốn sách do người Tây phương viết về cuộc chiến ở Việt Nam.

Ông nói: “Tôi bắt đầu nhìn cuộc chiến với một góc nhìn khác. Cùng những người Mỹ tiến bộ, yêu chuộng hòa bình, phong trào phản chiến dâng cao tại Mỹ trong thập niên 1960, 1970, tôi cũng tham gia những hoạt động đòi lính Mỹ rút khỏi Việt Nam khi đó”.

Ngày 30-4-1975, chiến tranh Việt Nam kết thúc. Tiếng súng không còn nhưng Chính phủ Mỹ áp dụng lệnh cấm vận đối với Việt Nam.

“Giống như đa số các cựu binh, chiến tranh súng đạn đã chấm dứt từ năm 1975, hoặc sớm hơn tùy mỗi cá nhân, nhưng cuộc chiến tranh không súng đạn vẫn tiếp tục kéo dài”, dịch giả Nguyễn Bá Chung mường tượng.

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận - Ảnh 3.

Hàng trăm cuộc gặp gỡ giữa nhà văn hai nước Việt – Mỹ được tổ chức trong 30 năm qua – Ảnh: Nhà thơ Trần Anh Thái cung cấp

Nhà thơ cựu binh Mỹ Kevin Bowen, nguyên giám đốc Trung tâm William Joiner, trong một bài viết kể lại đã có những nỗ lực trong việc thành lập một trung tâm mang tên William Joiner để tiếp tục công việc bảo vệ những người lính giải ngũ – còn nhiều dang dở (vì William Joiner qua đời năm 1981), đồng thời phát triển các nghiên cứu và tài liệu giáo trình để giúp cho nước Mỹ hiểu cuộc chiến tranh Việt Nam và những hậu quả của nó, song không hề dễ dàng.

Rồi Trung tâm William Joiner được thành lập vào tháng 10-1982, bắt đầu những hoạt động đầu tiên, một trong số đó là tổ chức một hội nghị quốc tế về chất độc da cam và tổ chức một chuyến sang Việt Nam sau lễ Giáng sinh năm 1985.

Theo lời miêu tả của Kevin Bowen, chuyến đi trở lại Việt Nam lần thứ 2 năm 1986 đã biến đổi ông một lần nữa.

Hồi còn trẻ, Kevin Bowen có làm thơ nhưng từ chiến trường trở về, ông không viết được nữa. Ông gọi mình là “một nhà thơ bị ngắt quãng”.

Kevin muốn làm một điều gì đó để hàn gắn vết thương giữa hai quốc gia, giữa những người lính ở hai chiến tuyến. Là nhà thơ, ông nghĩ ngay tới văn chương.

Sau cuộc gặp với nhà văn Lê Lựu và đạo diễn Hồ Quang Minh trong chuyến trở lại Việt Nam đó, Kevin bày tỏ ý định gây quỹ mời nhà văn Việt sang Mỹ giao lưu. Năm 1988, nhà văn Lê Lựu và Ngụy Ngữ là hai nhà văn Việt Nam đầu tiên sang Mỹ trong thời gian cấm vận đó.

Phong trào phản chiến ở Mỹ khi đó vẫn đang phát triển, ý tưởng của Kevin Bowen nhanh chóng được một số người ủng hộ. Các cuộc giao lưu văn học diễn ra ngày càng mạnh.

Kevin nghĩ đã đến lúc phải dịch và xuất bản rộng hơn. Trung tâm William Joiner cần tìm một người thông dịch mà cả nước Mỹ khó có thể “bói” ra một người như vậy. Nguyễn Bá Chung đồng ý, dù lúc đó công việc điện toán cũng rất bận.

“Lý do tôi nhận lời, thực ra cũng chẳng phải bắt nguồn từ một điều gì to tát. Chỉ là công việc đó giúp tôi giải quyết nhu cầu của bản thân: sự tò mò về chiến tranh Việt Nam. Cho tới lúc đó, tôi vẫn không thể hiểu vì sao nước Mỹ lại thua trận.

Cá nhân tôi muốn gặp những nhà văn Việt Nam, đọc và dịch tác phẩm của họ, xem thử có câu trả lời nào ở đó không” – dịch giả Nguyễn Bá Chung cho biết. Bên cạnh đó, cách đối xử nồng hậu của Kevin Bowen với nhà văn Việt khiến ông xúc động.

Một con người có lòng với đất nước mình như vậy, sao ông lại không đồng hành? Để rồi nối tiếp hơn 10 năm làm thông dịch thiện nguyện, ông Chung nghỉ hẳn công việc điện toán lương cao làm chính thức cho trung tâm. Tới nay cũng hơn ba mươi năm có lẻ.

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận - Ảnh 4.

Chân dung một số nhà văn, nhà thơ Việt Nam do nhà thơ cựu binh Mỹ Kevin Bowen vẽ. Từ trái qua, trên xuống: nhà thơ Chính Hữu, nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà văn Bảo Ninh, nhà văn Phan Thị Vàng Anh, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, nhà văn Đỗ Chu, GS Hoàng Ngọc Hiến, nhà văn Lê Văn Thảo

Văn học khai mở

Trò chuyện với Tuổi Trẻ, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều – chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam – kể lại hành trình các nhà văn ở cả hai phía trong chặng đường “đi qua biển” để tìm kiếm sự thấu hiểu và chia sẻ. Sau chiến tranh, những cựu binh Mỹ tìm đến Việt Nam trước khi các nhà văn Việt tìm đến Mỹ. Họ muốn đi tới hòa bình thực sự và ý nghĩa.

Trong bối cảnh mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ vẫn còn căng thẳng, các nhà chính trị của hai đất nước chưa thể đến với nhau, các thương gia cũng chưa thể đến với nhau, các nhà văn đã bắc những nhịp cầu. Văn học chỉ ra rằng cái Đẹp (văn chương) sẽ xóa đi mọi giới hạn, chia cắt và biên giới.

Năm 1991, cuộc gặp gỡ chính thức giữa các nhà văn ở hai chiến tuyến được diễn ra tại Hà Nội. Trong cuộc gặp các nhà văn cựu binh Mỹ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cười và nói: “Các bạn ăn trái cây đi, những trái cây này không nhiễm chất độc da cam”. Những nhà văn cựu binh Mỹ đã cười trong nước mắt.

Qua lời kể của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, những chuyến đi mở đầu đó thực sự quá nhiều khó khăn. Khi các nhà văn Việt tiếp đón các nhà văn cựu binh Mỹ, không ít người Việt, kể cả nhà văn, không chấp nhận sự tiếp đón nồng ấm ấy.

Có những chuyến đi đến Mỹ, các nhà văn Việt Nam bị biểu tình, tấn công. “Nhưng quả thực, khi những giọng nói của văn học vang lên thì sự nghi ngờ tan biến” – chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nhớ lại.

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận - Ảnh 5.

Nhà thơ Kevin Bowen (trái) và dịch giả Nguyễn Bá Chung

Năm 1994, Nhà xuất bản của Đại học Massachusetts Boston cho ra mắt tập thơ Việt đầu tiên: Thơ từ tài liệu chiến trường – Poems from the captured doccument do nhà thơ Bruce Weigl và tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh dịch.

Tác giả là những người lính giải phóng Việt Nam. Các nhà văn Mỹ và bạn đọc Mỹ đã vô cùng bất ngờ. Đây là những bài thơ nằm trong tài liệu mà Bộ Quốc phòng Mỹ thu được trong chiến tranh. Khi các nhà văn của Trung tâm William Joiner đọc các trang tài liệu đó đã phát hiện rất nhiều các bài thơ chép tay của những người lính.

“Họ nhận ra trong tâm hồn những người lính Việt chứa đựng giấc mơ gì khi bước vào cuộc chiến. Đó là được trở về quê sau chiến tranh để chăm sóc cha mẹ, lấy vợ lấy chồng, sinh con đẻ cái, cày cấy và gieo gặt”.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhận xét: “Những tác phẩm văn chương của cả hai phía là chiếc chìa khóa vàng mở tung cánh cửa hai nền văn hóa trong suốt cuộc chiến tranh. Để rồi con đường mà các nhà văn cựu binh Mỹ và nhà văn người lính Việt đã khai mở và dấn bước là con đường không thể khác giữa các dân tộc, nhất là các dân tộc từng là kẻ thù của nhau”.

Tôi nhớ mãi chuyến đi tới Mỹ lần đầu cách đây 30 năm. Khi bước vào sân nhà Kevin Bowen, cậu con trai 3 tuổi của Kevin nhoẻn cười và giơ bàn tay nhỏ xíu lên vẫy chào chúng tôi. Kevin dẫn tôi vào bếp nhà ông và chỉ cho tôi những chai nước mắm ông mua từ chợ ở phố Tàu. Ông biết người Việt không thể thiếu nước mắm trong bữa ăn. Chỉ thế thôi đã làm tôi nhận ra sự hận thù phải gác lại phía sau”.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam)

Những nhịp cầu nối tiếp

Tới nay Viện William Joiner là trung tâm duy nhất dịch những tác phẩm của những người lính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (hơn 20 tác phẩm) và là chiếc cầu đưa hơn 60 nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ Việt Nam sang Mỹ giao lưu. Qua những bản dịch đó, qua những cuộc qua lại đó, người Mỹ hiểu phong trào đấu tranh của Việt Nam, hiểu tâm hồn Việt Nam.

“Việc dịch văn học có một giá trị to lớn, một phần nào đó đã củng cố thêm vị thế của Việt Nam trong cuộc chiến tranh với Mỹ và khó có thể phản bác được. Đó là đóng góp rất lớn của Viện William Joiner đối với công cuộc hòa giải này” – dịch giả Nguyễn Bá Chung nói.

Các nhà văn Việt Nam và Mỹ đã bước đi những bước đầu tiên trong việc dựng lên cây cầu của hòa bình và tình yêu thương con người giữa hai dân tộc. Nhưng cây cầu đó vẫn phải tiếp tục được xây thêm những nhịp cầu mới.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều gọi Viện William Joiner là trung tâm xây cầu bền bỉ và dũng cảm nhất trên đất Mỹ và nhà thơ Kevin Bowen là một trong những kiến trúc sư làm nên cây cầu đó. Viện William Joiner đang đứng trước nhiều thách thức để tồn tại.

Trong khi đó, những nhà văn Mỹ yêu Việt Nam như quê hương thứ hai của mình mỗi ngày một già yếu.

“Phải nói rằng khởi đầu cho việc xây dựng cây cầu “đi qua biển’’ là Viện William Joiner, đứng đầu là nhà thơ Kevin. Còn bây giờ, tôi nghĩ người chủ động xây tiếp những nhịp cầu phải là Hội Nhà văn Việt Nam.

Với tình cảm và trách nhiệm của cá nhân, tôi sẽ kêu gọi các nhà văn Việt Nam cũng như những người quan tâm làm điều đó bằng tất cả các cách mà chúng tôi có thể” – nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nói.

“Trong nhiều năm, những chuyến đi của các nhà văn Việt Nam tới Mỹ mang ý nghĩa “hồi phục” cho chúng tôi rất lớn.

Nhìn thấy bạn bè, cùng nghe nhạc, nghe thơ ở sân sau, thăm đền chùa, thắp hương, nhìn thấy con của những người bạn lớn lên, bạn bè tôi trở thành ông bà.

Nói về đất nước của chúng tôi, những cái đúng và sai của họ. Những bài thơ, bộ phim, âm nhạc của họ. Việt Nam đã trở nên một nơi giống như để hành hương. Tôi không chắc là chúng tôi tìm kiếm cái gì. Có thể là sự hiểu nhau. Hòa bình. Tình yêu. Sự mở mắt”.

Nhà thơ Kevin Bowen chia sẻ trong bài viết về hành trình của Trung tâm William Joiner nhân 20 năm hoạt động trao đổi nghệ thuật.

Những dự án dịch văn học Việt Nam, chủ yếu là thơ, do Viện William Joiner thực hiện trong hơn 30 năm qua gồm: tuyển tập song ngữ – Thơ từ tài liệu chiến trường (Poems from captured documents, 1994), Người đàn bà gánh nước sông – thơ Nguyễn Quang Thiều (The women carry river water, 1997), Sông núi – Thơ Việt Nam qua những cuộc chiến 1948 – 1993 (Mountain river: Vietnamese poetry from the wars 1948 – 1993, 1998), Đường xa – thơ Nguyễn Duy (Distant road – Selected poems of Nguyen Duy, 1999), Thơ thiền Lý Trần (Early Zen Poems from Vietnam, 2005), Từ góc sân nhà em – thơ Trần Đăng Khoa (From the corner of my yard, 2006)… Về văn xuôi, viện có dịch tiểu thuyết Thời xa vắng (A time far past, 1997) của nhà văn Lê Lựu.

Nguồn: https://tuoitre.vn/van-hoc-bac-nhip-cau-buoc-qua-thu-han-20210426160612715.htm

Sách hay

Dám làm

Được phát hành

,

Bởi

“Dám làm: Những bài học về lãnh đạo của tôi tại GE” ghi lại những kinh nghiệm và bài học của Jeff Immelt, cựu CEO của General Electric (GE), từ thời gian lãnh đạo tập đoàn này.

Tôi là một gã chăm “cày cuốc” đích thực, một tín đồ chân chính, đã có hình xăm “thịt viên” của GE (cách người trong nhà gọi logo của công ty) bên eo trái để làm bằng chứng.

Năm 2001, tôi trở thành CEO của một công ty, nơi nhận thức không tương đương với hiện thực. Công ty tôi kế thừa từ Jack Welch có một văn hóa hùng mạnh và những con người tuyệt vời. Nhưng chúng tôi đã cạn kiệt ý tưởng. Một năm trước, khi đang điều hành GE Healthcare, tôi đã cố mua một công ty siêu âm tên Acuson, nhưng Jack gạt đi vì nó nằm ở Mountain View, California và “dân ở đấy điên lắm”.

Tôi không đồng tình; địa điểm của nó sẽ cho chúng tôi một bàn đạp (như nó đã mang lại cho đối thủ Siemens của chúng tôi, tập đoàn về sau đã mua lại nó) tại Thung lũng Silicon, thiên đường của đổi mới. Trong khi một số người trong nội bộ GE tin rằng công ty chắc chắn sẽ ăn nên làm ra mãi mãi, song tôi lại lo lắng rằng chúng tôi đã trở nên quá trì trệ và thiếu óc tò mò.

Than chu anh 1

Hình ảnh Jeff Immelt gắn liền với thương hiệu GE. Ảnh: CNBC.

Trong ít nhất một thập kỷ, chúng tôi đã sử dụng gã khổng lồ dịch vụ tài chính GE Capital để thúc đẩy tăng trưởng và hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp của mình. Nhưng khi tôi tiếp quản chức vụ, rất hiếm nhà quan sát hiểu được rằng chúng tôi đã đầu tư ít ỏi đến mức nào vào các doanh nghiệp công nghiệp đó.

Chúng tôi là một tập đoàn đa ngành cồng kềnh, ôm đồm đủ mọi thứ từ động cơ phản lực đến mạng truyền hình hay hợp đồng bảo hiểm cho chó mèo. Tuy nhiên, chúng tôi được định giá như một công ty công nghệ, về cơ bản là được giao dịch ở mức cao hơn đáng kể so với giá trị của các doanh nghiệp mà chúng tôi có.

Vì vậy, khi lên làm CEO, tôi đã nỗ lực cải tổ công ty, tái đầu tư vào danh mục đầu tư công nghiệp, cải thiện công nghệ và mở rộng dấu ấn toàn cầu của chúng tôi. Và tôi đã làm điều đó mà không hở một lời tiêu cực nào về Jack Welch.

Đó là một lựa chọn đầy rủi ro. Rất khó thúc đẩy thay đổi trong khi đội ngũ của bạn cảm thấy mọi thứ đều đã hoàn hảo. Nhưng vào thời điểm đó, cách tiếp cận này có vẻ đúng đắn. Người tiền nhiệm của tôi được xem là CEO tốt nhất trong lịch sử. Hy vọng của tôi là bảo tồn di sản của ông bằng cách khắc phục những chỗ mà tôi thấy là đã hỏng hóc trước khi chúng kịp hủy hoại chúng tôi.

Nhưng quá thường xuyên trong nhiệm kỳ của tôi, mong muốn bảo vệ GE bằng cách phát triển nó phải bị đặt xuống hàng thứ yếu khi các cuộc khủng hoảng đe dọa thành công của công ty – và nhiều khi là chính sự tồn vong của nó.

Đối với tôi, GE là một câu chuyện không thể đậm tính cá nhân hơn. Tôi là con trai của người đã làm đại diện thu mua của GE suốt 38 năm. Trước khi trở thành CEO, tôi đã bước lên từng nấc thang trong công ty, học hỏi tại ba mảng của GE. Tôi là một gã chăm “cày cuốc” đích thực – một tín đồ chân chính, đã có hình xăm “thịt viên” của GE (cách người trong nhà gọi logo của công ty) bên eo trái để làm bằng chứng. (Tôi sẽ nói thêm về vụ đó sau).

Tôi là gã cuối tuần nào cũng làm việc, là gã không bao giờ tiêu một xu để trang trí văn phòng của riêng hắn, là gã mang tem mình tự mua đến công ty để dán lên thư cá nhân. Nếu tôi có một câu thần chú, thì đó sẽ là: Tôi không phải trung tâm, GE mới là trung tâm.

Nguồn: https://znews.vn/than-chu-cua-ceo-tap-doan-da-quoc-gia-post1533409.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Bộ não đau buồn

Được phát hành

,

Bởi

Sách mang đến một góc nhìn mới nhưng không kém phần hấp dẫn về ảnh hưởng của nỗi đau đối với bộ não và phương pháp bộ não mã hóa tình yêu của con người đối với người thân, giúp chúng ta hiểu rõ nguồn gốc của nỗi đau khi không còn người thân bên cạnh và giải pháp vượt qua các cảm xúc khủng hoảng đó.

Bạn đang sử dụng bản đồ não để đi tới đi lui trong không gian quen thuộc này, thân thể bạn sẽ đến nơi mà não bạn đã gửi nó đi.

Khi giải thích mặt sinh học thần kinh của nỗi đau buồn, tôi thường bắt đầu bằng một phép ẩn dụ dựa trên một trải nghiệm quen thuộc. Tuy nhiên, để phép ẩn dụ này dễ hiểu, bạn phải chấp nhận một giả thiết. Giả thiết ấy là có kẻ nào đó đã trộm mất chiếc bàn ăn nhà bạn.

Tưởng tượng là bạn trở mình dậy khát khô lúc nửa đêm. Bạn bước khỏi giường và đi tới phía bếp lấy một ly nước. Xuống hành lang, bạn băng qua phòng ăn tối đen về phía nhà bếp. Đúng lúc hông bạn đáng ra sắp va vào góc cứng bàn ăn, bạn cảm thấy… hừm, bạn cảm thấy gì? Không gì hết. Bạn đột nhiên nhận ra là bạn không cảm thấy có bất cứ điều gì ở chỗ cao ngang hông bạn.

Đó là điều bạn nhận ra được, bạn không cảm thấy có điều gì đó, điều gì đó cụ thể. Chuyện vắng mặt thứ gì đó là điều đã thu hút bạn chú ý. Điều này thật lạ kỳ, ta thường nghĩ phải là điều gì đó mới thu hút ta chú ý, làm sao không gì cả có thể thu hút ta chú ý?

Ban do anh 1

Não bộ có một cơ chế vận hành đặc biệt. Ảnh: Science Magazinee.

Vâng, thực tế là bạn không chỉ bước đi trong mỗi thế giới này. Hay chính xác hơn, hầu hết thời gian là bạn đang cùng bước đi trong hai thế giới. Trong đó một thế giới là bản đồ thực tế ảo được tạo nên hoàn toàn trong đầu bạn. Não bạn đang dịch chuyển con người bạn xuyên qua bản đồ ảo mà nó đã tạo ra, đó là lý do tại sao bạn có thể đi lại quanh nhà khá dễ dàng trong bóng đêm; bạn hiện không sử dụng thế giới bên ngoài để định hướng. Bạn đang sử dụng bản đồ não để đi tới đi lui trong không gian quen thuộc này, thân thể bạn sẽ đến nơi mà não bạn đã gửi nó đi.

Bạn có thể coi bản đồ não ảo về thế giới này như bản đồ Google trong đầu bạn. Bạn đã từng bao giờ trải nghiệm làm theo chỉ dẫn di chuyển bằng giọng nói mà hoàn toàn không chú ý nơi mình đang lái xe tới chưa? Có lúc giọng nói yêu cầu bạn rẽ vào một con đường, song bạn phát hiện ra đó thực ra là đường cho xe đạp.

GPS và thế giới thực không phải lúc nào cũng khớp nhau. Giống bản đồ của Google, bản đồ não dựa trên thông tin trước đó nó có về khu vực. Tuy nhiên, để giữ an toàn cho bạn, não có những khu vực chuyên dành phát hiện lỗi, nhận biết bất kỳ tình huống nào bản đồ não và thế giới thực không khớp nhau. Nó chuyển sang thông tin thị giác nhận vào mỗi khi một lỗi được phát hiện (và nếu trời tối, thì ta sẽ quyết định bật đèn).

Ta dựa vào bản đồ não vì việc dẫn dắt cơ thể theo bản đồ tâm trí sẽ bớt tốn công tính toán lại rất nhiều so với xuyên qua ngôi nhà quen thuộc như thể đó là trải nghiệm đầu tiên, như thể mỗi lần lại phải khám phá lại vị trí của ô cửa, bức tường và đồ nội thất, rồi quyết định làm sao định vị và đi qua từng thứ.

Không ai mong đợi bàn ăn nhà họ bị trộm mất. Và càng không ai mong đợi người thân yêu mất. Ngay cả khi một người bị bệnh trong một thời gian rất dài, cũng không ai biết được để bước tiếp trên thế giới này mà không có họ thì sẽ ra sao.

Là một nhà khoa học, đóng góp của tôi là nghiên cứu nỗi đau buồn từ góc độ của não, từ góc độ mà não đang cố giải quyết một vấn đề khi đối diện việc người quan trọng nhất cuộc đời ta không còn.

Nỗi đau buồn là một vấn đề đau lòng thắt ruột mà não phải giải quyết và việc đau buồn đòi hỏi bạn phải học cách sống trong một thế giới vắng mặt người bạn yêu thương đậm sâu, người đã khắc ghi vào hiểu biết trong bạn về thế giới. Điều này có nghĩa là đối với não, người thân yêu của bạn mất đi nhưng đồng thời cũng còn mãi, và bạn đang bước xuyên qua hai thế giới cùng một lúc. Bạn đang phải lèo lái cuộc sống của mình dù thực tế là nó đã bị cướp mất khỏi bạn, một giả thiết vô nghĩa, vừa khó hiểu vừa khó chịu.

Nguồn: https://znews.vn/vi-sao-ban-di-chuyen-duoc-trong-bong-dem-post1533397.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Rủi ro từ những đồng tiền ảo như Pi, Bitcoin

Được phát hành

,

Bởi

Những loại tiền ảo như Pi, Ethereum, Bitcoin có thể tồn tại nhiều rủi ro từ pháp lý, bảo mật cho đến biến động thị trường.

pi network anh 1

Ảnh minh họa Pi Network. Nguồn: The Crypto Times.

Tiền ảo, đặc biệt là Bitcoin và Pi, đã trở thành một hiện tượng tài chính toàn cầu, thu hút sự chú ý của giới đầu tư cũng như các cơ quan quản lý. Tuy nhiên, đi kèm với sự phát triển nhanh chóng, tiền ảo cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đáng lo ngại, từ pháp lý, bảo mật, gian lận đến biến động thị trường.

Những vấn đề của tiền ảo

Một trong những vấn đề người chơi tiền ảo phải đối mặt là rủi ro pháp lý. Theo cuốn sách Cryptocurrencies and Cryptoassets của nhà xuất bản Taylor & Francis, Bitcoin từng bị sử dụng trong các giao dịch chợ đen, rửa tiền và trốn thuế. Điều này khiến nhiều chính phủ trên thế giới phải đưa ra các biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt.

Trung Quốc đã cấm hoàn toàn hoạt động giao dịch tiền ảo, trong khi Nhật Bản yêu cầu các sàn giao dịch phải tuân thủ quy định về chống rửa tiền (AML) và xác minh danh tính khách hàng (KYC). Việc thiếu đi một hệ thống pháp lý thống nhất giữa các quốc gia có thể đặt ra câu hỏi về tính thanh khoản và khả năng tồn tại lâu dài của tiền ảo.

Bên cạnh đó, rủi ro bảo mật là mối lo ngại thường trực. Mặc dù nền tảng Bitcoin chưa từng bị tấn công nghiêm trọng, nhưng các sàn giao dịch tiền ảo lại là mục tiêu thường xuyên của tin tặc.

pi network anh 2

Mark Karpeles, CEO Mt. Gox là người giúp sàn giao dịch này vươn lên vị trí số một vào năm 2013. Ảnh: Bloomberg.

“Sự sụp đổ của sàn Mt.Gox tại Nhật Bản do bị đánh cắp hàng triệu đôla Bitcoin là một minh chứng điển hình. Năm 2018, vụ tấn công vào sàn Coincheck khiến hơn 530 triệu USD tiền ảo bị thất thoát. Trong chín tháng đầu năm đó, tổng giá trị tiền ảo bị đánh cắp lên đến 927 triệu USD“, trích từ cuốn sách Cryptocurrencies and Cryptoassets.

Ngoài vấn đề bảo mật, gian lận cũng là một nguy cơ lớn đối với thị trường tiền ảo. Theo số liệu từ Anh, chỉ riêng trong tháng 6 và 7 năm 2018, có tới 203 vụ lừa đảo liên quan đến tiền điện tử với tổng thiệt hại hơn 2 triệu euro, trung bình mỗi nạn nhân mất hơn 10.000 euro.

Một rủi ro khác là tính biến động cao của tiền ảo. Bitcoin từng có thời điểm mất đến 61% giá trị chỉ trong một ngày vào năm 2013 và giảm tới 80% trong năm 2014. Năm 2018, thị trường tiền ảo tiếp tục chứng kiến sự lao dốc mạnh mẽ trước khi phục hồi dần vào giữa năm 2019. Giá trị của Bitcoin và các đồng tiền khác phụ thuộc phần lớn vào tâm lý thị trường và sự chấp nhận của người dùng, khiến chúng trở thành công cụ đầu tư có độ rủi ro cao.

Khi một sàn giao dịch phá sản, nhà đầu tư có thể mất trắng

Theo cuốn sách Cryptocurrency Risk and Governance Challenges (2023), nhiều nhà kinh tế học lo ngại rằng tiền điện tử không có đầy đủ đặc điểm của một loại tiền tệ thực sự mà chỉ là tài sản đầu cơ với mức độ rủi ro cao hơn nhiều so với các loại tài sản khác.

pi network anh 3

Cuốn sách Cryptocurrency Risk and Governance Challenges của nhà xuất bản Taylor & Francis. Ảnh: Amazon.

Ngân hàng Trung ương Malaysia (Bank Negara Malaysia) từng chỉ ra rằng trái ngược với vàng hay ngoại tệ, những tài sản có tính thanh khoản cao trong thời kỳ bất ổn, tiền điện tử chủ yếu được nắm giữ để đầu cơ, khiến giá trị của chúng dễ bị tổn thương trước sự thay đổi của thị trường. Nếu các bên tham gia không sẵn sàng chấp nhận giao dịch bằng tiền ảo, giá trị của chúng có thể trở nên vô nghĩa.

Những biến động giá mạnh, rủi ro bảo mật cũng là một vấn đề lớn đối với các nhà đầu tư tiền ảo. Theo cuốn The Book of Crypto của tác giả Henri Arslanian, các nền tảng giao dịch tiền ảo không có sự bảo vệ của các tổ chức bảo hiểm như FDIC (Mỹ) hay các hệ thống bảo đảm tiền gửi truyền thống. Khi một sàn giao dịch phá sản, nhà đầu tư có thể mất toàn bộ số tiền của mình.

Ngoài ra, nhiều dự án tiền ảo kêu gọi vốn bằng hình thức ICO (Initial Coin Offering) nhưng thực chất chỉ là mô hình lừa đảo Ponzi. Các nền tảng cho vay tiền ảo cũng đối mặt với nguy cơ sụp đổ do quản lý rủi ro kém, như trường hợp của nền tảng Cred – công ty tuyên bố phá sản vào năm 2020 khiến nhiều nhà đầu tư mất trắng.

Không thể phủ nhận rằng thị trường tiền điện tử vẫn còn nhiều rủi ro tiềm ẩn. Dữ liệu từ báo cáo của Fidelity năm 2021 cho thấy hơn 90% tổ chức tài chính đang quan tâm đến loại tiền này nhưng mức độ tham gia vẫn còn hạn chế do tính bất ổn và thiếu khung pháp lý rõ ràng.

Nguồn: https://znews.vn/rui-ro-tu-nhung-dong-tien-ao-nhu-pi-bitcoin-post1533272.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng