Connect with us

Sách hay

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận

Được phát hành

,

Ông Chung nói số phận của ông cũng giống Viện William Joiner trong suốt hơn 30 năm qua. Đó là một quá trình cảm nghiệm khi “đọc lại” (thứ mà người Mỹ thường gọi là) “Vietnam war”, hay “chiến tranh Việt Nam”.

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận - Ảnh 1.

Đón Phó thủ tướng (nay là Chủ tịch nước) Nguyễn Xuân Phúc tại Trung tâm William Joiner – Ảnh: Dịch giả Nguyễn Bá Chung cung cấp

Nghe nói bên đó, họ gọi ông là “Chung mũ cối”?”. Từ màn hình FaceTime bên kia địa cầu, nhà thơ, dịch giả Nguyễn Bá Chung cười lớn: “Đúng. Từ lúc đồng hành cùng Viện Nghiên cứu chiến tranh và hậu quả xã hội William Joiner, dịch các tác phẩm văn học Việt để giới thiệu tại Mỹ, tôi bị gắn mác “tuyên truyền cho Cộng sản”. Họ ghét bỏ, kỳ thị, bôi nhọ, chẳng thiếu thứ gì”. “Họ là ai?”. Một bộ phận người Mỹ gốc Việt. Một bộ phận người Mỹ bảo thủ. Họ còn là một ai đó khác nữa.

Ông Chung nói số phận của ông cũng giống Viện William Joiner trong suốt hơn 30 năm qua. Đó là một quá trình cảm nghiệm khi “đọc lại” (thứ mà người Mỹ thường gọi là) “Vietnam war”, hay “chiến tranh Việt Nam”.

Được đặt theo tên một cựu binh Mỹ trở về từ chiến tranh Việt Nam, Viện William Joiner (tên cũ là Trung tâm William Joiner) là trung tâm nghiên cứu có một không hai trên thế giới: trực thuộc một đại học công (Đại học Massachusetts Boston), nhận tiền tài trợ của ngân quỹ tiểu bang nhưng lại mang màu sắc phản chiến.

Bằng các hoạt động kiên trì của mình, nó là cầu nối duy nhất giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Mỹ trong thời kỳ cấm vận.

Việt Nam từ xa Tổ quốc

Nguyễn Bá Chung theo gia đình di cư từ Bắc vào Nam năm 1955 lúc 6 tuổi. Lớn lên trong bối cảnh trường học cũng như các cuộc thảo luận công khai ở miền Nam thời đó, giống nhiều người khác, ông cũng tin tưởng vào cuộc đấu tranh tự do dân chủ mà chính quyền miền Nam trước năm 1975 đưa ra để chống lại Bắc Việt.

Nhưng rồi phong trào Phật giáo diễn ra năm 1963 đã dấy lên “sự xét lại” đầu tiên trong tâm trí của ông về chính quyền miền Nam Việt Nam.

Là con một, Nguyễn Bá Chung được miễn quân dịch. Cuối năm 1971, ông rời Việt Nam sang Mỹ theo một học bổng văn chương tại Đại học Brandeis ở Massachusetts. Tại đây, ông bắt đầu được tiếp cận những cuốn sách do người Tây phương viết về cuộc chiến ở Việt Nam.

Ông nói: “Tôi bắt đầu nhìn cuộc chiến với một góc nhìn khác. Cùng những người Mỹ tiến bộ, yêu chuộng hòa bình, phong trào phản chiến dâng cao tại Mỹ trong thập niên 1960, 1970, tôi cũng tham gia những hoạt động đòi lính Mỹ rút khỏi Việt Nam khi đó”.

Ngày 30-4-1975, chiến tranh Việt Nam kết thúc. Tiếng súng không còn nhưng Chính phủ Mỹ áp dụng lệnh cấm vận đối với Việt Nam.

“Giống như đa số các cựu binh, chiến tranh súng đạn đã chấm dứt từ năm 1975, hoặc sớm hơn tùy mỗi cá nhân, nhưng cuộc chiến tranh không súng đạn vẫn tiếp tục kéo dài”, dịch giả Nguyễn Bá Chung mường tượng.

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận - Ảnh 3.

Hàng trăm cuộc gặp gỡ giữa nhà văn hai nước Việt – Mỹ được tổ chức trong 30 năm qua – Ảnh: Nhà thơ Trần Anh Thái cung cấp

Nhà thơ cựu binh Mỹ Kevin Bowen, nguyên giám đốc Trung tâm William Joiner, trong một bài viết kể lại đã có những nỗ lực trong việc thành lập một trung tâm mang tên William Joiner để tiếp tục công việc bảo vệ những người lính giải ngũ – còn nhiều dang dở (vì William Joiner qua đời năm 1981), đồng thời phát triển các nghiên cứu và tài liệu giáo trình để giúp cho nước Mỹ hiểu cuộc chiến tranh Việt Nam và những hậu quả của nó, song không hề dễ dàng.

Rồi Trung tâm William Joiner được thành lập vào tháng 10-1982, bắt đầu những hoạt động đầu tiên, một trong số đó là tổ chức một hội nghị quốc tế về chất độc da cam và tổ chức một chuyến sang Việt Nam sau lễ Giáng sinh năm 1985.

Theo lời miêu tả của Kevin Bowen, chuyến đi trở lại Việt Nam lần thứ 2 năm 1986 đã biến đổi ông một lần nữa.

Hồi còn trẻ, Kevin Bowen có làm thơ nhưng từ chiến trường trở về, ông không viết được nữa. Ông gọi mình là “một nhà thơ bị ngắt quãng”.

Kevin muốn làm một điều gì đó để hàn gắn vết thương giữa hai quốc gia, giữa những người lính ở hai chiến tuyến. Là nhà thơ, ông nghĩ ngay tới văn chương.

Sau cuộc gặp với nhà văn Lê Lựu và đạo diễn Hồ Quang Minh trong chuyến trở lại Việt Nam đó, Kevin bày tỏ ý định gây quỹ mời nhà văn Việt sang Mỹ giao lưu. Năm 1988, nhà văn Lê Lựu và Ngụy Ngữ là hai nhà văn Việt Nam đầu tiên sang Mỹ trong thời gian cấm vận đó.

Phong trào phản chiến ở Mỹ khi đó vẫn đang phát triển, ý tưởng của Kevin Bowen nhanh chóng được một số người ủng hộ. Các cuộc giao lưu văn học diễn ra ngày càng mạnh.

Kevin nghĩ đã đến lúc phải dịch và xuất bản rộng hơn. Trung tâm William Joiner cần tìm một người thông dịch mà cả nước Mỹ khó có thể “bói” ra một người như vậy. Nguyễn Bá Chung đồng ý, dù lúc đó công việc điện toán cũng rất bận.

“Lý do tôi nhận lời, thực ra cũng chẳng phải bắt nguồn từ một điều gì to tát. Chỉ là công việc đó giúp tôi giải quyết nhu cầu của bản thân: sự tò mò về chiến tranh Việt Nam. Cho tới lúc đó, tôi vẫn không thể hiểu vì sao nước Mỹ lại thua trận.

Cá nhân tôi muốn gặp những nhà văn Việt Nam, đọc và dịch tác phẩm của họ, xem thử có câu trả lời nào ở đó không” – dịch giả Nguyễn Bá Chung cho biết. Bên cạnh đó, cách đối xử nồng hậu của Kevin Bowen với nhà văn Việt khiến ông xúc động.

Một con người có lòng với đất nước mình như vậy, sao ông lại không đồng hành? Để rồi nối tiếp hơn 10 năm làm thông dịch thiện nguyện, ông Chung nghỉ hẳn công việc điện toán lương cao làm chính thức cho trung tâm. Tới nay cũng hơn ba mươi năm có lẻ.

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận - Ảnh 4.

Chân dung một số nhà văn, nhà thơ Việt Nam do nhà thơ cựu binh Mỹ Kevin Bowen vẽ. Từ trái qua, trên xuống: nhà thơ Chính Hữu, nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà văn Bảo Ninh, nhà văn Phan Thị Vàng Anh, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, nhà văn Đỗ Chu, GS Hoàng Ngọc Hiến, nhà văn Lê Văn Thảo

Văn học khai mở

Trò chuyện với Tuổi Trẻ, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều – chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam – kể lại hành trình các nhà văn ở cả hai phía trong chặng đường “đi qua biển” để tìm kiếm sự thấu hiểu và chia sẻ. Sau chiến tranh, những cựu binh Mỹ tìm đến Việt Nam trước khi các nhà văn Việt tìm đến Mỹ. Họ muốn đi tới hòa bình thực sự và ý nghĩa.

Trong bối cảnh mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ vẫn còn căng thẳng, các nhà chính trị của hai đất nước chưa thể đến với nhau, các thương gia cũng chưa thể đến với nhau, các nhà văn đã bắc những nhịp cầu. Văn học chỉ ra rằng cái Đẹp (văn chương) sẽ xóa đi mọi giới hạn, chia cắt và biên giới.

Năm 1991, cuộc gặp gỡ chính thức giữa các nhà văn ở hai chiến tuyến được diễn ra tại Hà Nội. Trong cuộc gặp các nhà văn cựu binh Mỹ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cười và nói: “Các bạn ăn trái cây đi, những trái cây này không nhiễm chất độc da cam”. Những nhà văn cựu binh Mỹ đã cười trong nước mắt.

Qua lời kể của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, những chuyến đi mở đầu đó thực sự quá nhiều khó khăn. Khi các nhà văn Việt tiếp đón các nhà văn cựu binh Mỹ, không ít người Việt, kể cả nhà văn, không chấp nhận sự tiếp đón nồng ấm ấy.

Có những chuyến đi đến Mỹ, các nhà văn Việt Nam bị biểu tình, tấn công. “Nhưng quả thực, khi những giọng nói của văn học vang lên thì sự nghi ngờ tan biến” – chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nhớ lại.

Văn học bắc nhịp cầu bước qua thù hận - Ảnh 5.

Nhà thơ Kevin Bowen (trái) và dịch giả Nguyễn Bá Chung

Năm 1994, Nhà xuất bản của Đại học Massachusetts Boston cho ra mắt tập thơ Việt đầu tiên: Thơ từ tài liệu chiến trường – Poems from the captured doccument do nhà thơ Bruce Weigl và tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh dịch.

Tác giả là những người lính giải phóng Việt Nam. Các nhà văn Mỹ và bạn đọc Mỹ đã vô cùng bất ngờ. Đây là những bài thơ nằm trong tài liệu mà Bộ Quốc phòng Mỹ thu được trong chiến tranh. Khi các nhà văn của Trung tâm William Joiner đọc các trang tài liệu đó đã phát hiện rất nhiều các bài thơ chép tay của những người lính.

“Họ nhận ra trong tâm hồn những người lính Việt chứa đựng giấc mơ gì khi bước vào cuộc chiến. Đó là được trở về quê sau chiến tranh để chăm sóc cha mẹ, lấy vợ lấy chồng, sinh con đẻ cái, cày cấy và gieo gặt”.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhận xét: “Những tác phẩm văn chương của cả hai phía là chiếc chìa khóa vàng mở tung cánh cửa hai nền văn hóa trong suốt cuộc chiến tranh. Để rồi con đường mà các nhà văn cựu binh Mỹ và nhà văn người lính Việt đã khai mở và dấn bước là con đường không thể khác giữa các dân tộc, nhất là các dân tộc từng là kẻ thù của nhau”.

Tôi nhớ mãi chuyến đi tới Mỹ lần đầu cách đây 30 năm. Khi bước vào sân nhà Kevin Bowen, cậu con trai 3 tuổi của Kevin nhoẻn cười và giơ bàn tay nhỏ xíu lên vẫy chào chúng tôi. Kevin dẫn tôi vào bếp nhà ông và chỉ cho tôi những chai nước mắm ông mua từ chợ ở phố Tàu. Ông biết người Việt không thể thiếu nước mắm trong bữa ăn. Chỉ thế thôi đã làm tôi nhận ra sự hận thù phải gác lại phía sau”.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam)

Những nhịp cầu nối tiếp

Tới nay Viện William Joiner là trung tâm duy nhất dịch những tác phẩm của những người lính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (hơn 20 tác phẩm) và là chiếc cầu đưa hơn 60 nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ Việt Nam sang Mỹ giao lưu. Qua những bản dịch đó, qua những cuộc qua lại đó, người Mỹ hiểu phong trào đấu tranh của Việt Nam, hiểu tâm hồn Việt Nam.

“Việc dịch văn học có một giá trị to lớn, một phần nào đó đã củng cố thêm vị thế của Việt Nam trong cuộc chiến tranh với Mỹ và khó có thể phản bác được. Đó là đóng góp rất lớn của Viện William Joiner đối với công cuộc hòa giải này” – dịch giả Nguyễn Bá Chung nói.

Các nhà văn Việt Nam và Mỹ đã bước đi những bước đầu tiên trong việc dựng lên cây cầu của hòa bình và tình yêu thương con người giữa hai dân tộc. Nhưng cây cầu đó vẫn phải tiếp tục được xây thêm những nhịp cầu mới.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều gọi Viện William Joiner là trung tâm xây cầu bền bỉ và dũng cảm nhất trên đất Mỹ và nhà thơ Kevin Bowen là một trong những kiến trúc sư làm nên cây cầu đó. Viện William Joiner đang đứng trước nhiều thách thức để tồn tại.

Trong khi đó, những nhà văn Mỹ yêu Việt Nam như quê hương thứ hai của mình mỗi ngày một già yếu.

“Phải nói rằng khởi đầu cho việc xây dựng cây cầu “đi qua biển’’ là Viện William Joiner, đứng đầu là nhà thơ Kevin. Còn bây giờ, tôi nghĩ người chủ động xây tiếp những nhịp cầu phải là Hội Nhà văn Việt Nam.

Với tình cảm và trách nhiệm của cá nhân, tôi sẽ kêu gọi các nhà văn Việt Nam cũng như những người quan tâm làm điều đó bằng tất cả các cách mà chúng tôi có thể” – nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nói.

“Trong nhiều năm, những chuyến đi của các nhà văn Việt Nam tới Mỹ mang ý nghĩa “hồi phục” cho chúng tôi rất lớn.

Nhìn thấy bạn bè, cùng nghe nhạc, nghe thơ ở sân sau, thăm đền chùa, thắp hương, nhìn thấy con của những người bạn lớn lên, bạn bè tôi trở thành ông bà.

Nói về đất nước của chúng tôi, những cái đúng và sai của họ. Những bài thơ, bộ phim, âm nhạc của họ. Việt Nam đã trở nên một nơi giống như để hành hương. Tôi không chắc là chúng tôi tìm kiếm cái gì. Có thể là sự hiểu nhau. Hòa bình. Tình yêu. Sự mở mắt”.

Nhà thơ Kevin Bowen chia sẻ trong bài viết về hành trình của Trung tâm William Joiner nhân 20 năm hoạt động trao đổi nghệ thuật.

Những dự án dịch văn học Việt Nam, chủ yếu là thơ, do Viện William Joiner thực hiện trong hơn 30 năm qua gồm: tuyển tập song ngữ – Thơ từ tài liệu chiến trường (Poems from captured documents, 1994), Người đàn bà gánh nước sông – thơ Nguyễn Quang Thiều (The women carry river water, 1997), Sông núi – Thơ Việt Nam qua những cuộc chiến 1948 – 1993 (Mountain river: Vietnamese poetry from the wars 1948 – 1993, 1998), Đường xa – thơ Nguyễn Duy (Distant road – Selected poems of Nguyen Duy, 1999), Thơ thiền Lý Trần (Early Zen Poems from Vietnam, 2005), Từ góc sân nhà em – thơ Trần Đăng Khoa (From the corner of my yard, 2006)… Về văn xuôi, viện có dịch tiểu thuyết Thời xa vắng (A time far past, 1997) của nhà văn Lê Lựu.

Nguồn: https://tuoitre.vn/van-hoc-bac-nhip-cau-buoc-qua-thu-han-20210426160612715.htm

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng