Cựu nhân viên CIA Edward Snowden từng tham gia website hẹn hò và yêu cô gái anh đánh giá là “điểm 10 hoàn hảo”.
Tôi có tham gia vào website HotOrNot.com, trang mạng được ưa chuộng nhất trong số các mạng hàng đầu những năm 2000 như RateMyFace và AmIHot. (Các tính năng hiệu quả nhất của các mạng nói trên được anh chàng Mark Zuckerberg kết hợp thành một mạng tên là FaceMash, sau này trở thành Facebook).
Điểm 10 hoàn hảo
HotOrNot được ưa chuộng nhất trong số các website xếp hạng trước khi có Facebook vì một lý do đơn giản: Đó là mạng tốt nhất trong số ít các mạng có tính năng hỗ trợ chuyện hẹn hò.
Bìa sách “BỊ theo dõi – Bí mật an ninh mạng”. Ảnh: Phanbook.
Về cơ bản, nó hoạt động bằng cách cho phép người dùng bình chọn những bức ảnh của nhau: Hot hoặc Not. Một chức năng bổ sung cho những người dùng có đăng ký như tôi là khả năng liên hệ với những người dùng có đăng ký khác, nếu như cả hai đều đánh giá những bức ảnh của nhau là Hot và nhấp vào mục chọn Meet Me – Hẹn Gặp.
Tiến trình tầm thường và thô sơ này chính là cách mà tôi gặp được Lindsay Mills, bạn gái và tình yêu của đời tôi.
Bây giờ xem lại những bức ảnh hồi đó, tôi thấy thú vị khi nhận ra Lindsay lúc mười chín tuổi là một cô gái rụt rè, vụng về, và e lệ đến dễ thương. Nhưng với tôi lúc đó, cô gái tóc vàng ấy đúng là một ngọn núi lửa âm ỉ chờ bùng nổ.
Hơn nữa, bản thân những bức ảnh chụp lại rất hay: chúng có chất nghệ thuật nghiêm túc, dạng chân dung tự khắc họa hơn là những bức ảnh selfie. Chúng bắt mắt và thu hút. Chúng rụt rè bỡn cợt với ánh sáng và bóng tối. Thậm chí những bức ảnh đó còn có một gợi ý thú vị về bối cảnh liên quan: có một bức được chụp trong hiệu ảnh nơi cô làm việc, và trong một bức khác cô thậm chí còn không quay mặt về phía máy ảnh.
Tôi đánh giá cô ấy là Hot, điểm mười hoàn hảo. Thật ngạc nhiên, chúng tôi lại hợp nhau (cô ấy đánh giá tôi tám điểm, là thiên thần), và thế là chúng tôi bắt chuyện ngay. Lindsay lúc đó đang học nhiếp ảnh nghệ thuật. Cô ấy có website riêng, tại đây cô duy trì việc viết nhật ký và đăng nhiều ảnh hơn: rừng, hoa, nhà máy bỏ hoang, và – điều tôi thích nhất – những bức ảnh chân dung tự chụp.
Tôi lùng sục trên mạng và sử dụng từng dữ kiện mới tìm được về Lindsay để tạo ra một bức tranh đầy đủ hơn: thành phố mà cô ấy sinh ra (Laurel, Maryland), tên trường học của cô ấy (MICA, Học viện Mỹ thuật Maryland). Cuối cùng, tôi thú nhận đã rình mò cô ấy trên mạng. Tôi thấy mình giống như một kẻ đáng ghét, nhưng Lindsay đã cắt lời tôi. “Tôi cũng đang lùng tìm thông tin về anh đó, ông lớn ạ”, cô ấy nói, và tuôn ra một loạt các dữ kiện về tôi.
Đây là một trong những lời dễ thương nhất mà tôi từng nghe, nhưng tôi lại ngại không muốn gặp Lindsay trực tiếp. Chúng tôi lên lịch hẹn gặp, và ngày ấy càng đến gần thì tôi càng thêm lo lắng. Việc biến một quan hệ trên mạng thành cuộc gặp gỡ ngoài đời đúng là một đề nghị đáng sợ. Nó vẫn đáng sợ ngay cả trong một thế giới không có những kẻ giết người bằng rìu và quân lừa đảo. Theo kinh nghiệm của tôi, ta liên lạc càng nhiều với ai đó trên mạng thì ta sẽ càng thất vọng khi gặp họ trực tiếp. Những điều dễ nói nhất trước màn hình trở thành khó nói nhất khi mặt đối mặt.
Khoảng cách dễ tạo thân tình: Không ai nói chuyện cởi mở cho bằng lúc họ ở một mình trong phòng, tán gẫu với một người không thấy mặt đang ở một mình trong căn phòng khác. Nhưng gặp gỡ người đó là ta liền dè dặt ngay. Cách nói của ta trở nên thận trọng và nhạt nhẽo hơn, một cuộc trò chuyện tầm thường về những vấn đề chung chung.
Cuộc hẹn đầu tiên
Trên mạng, Lindsay và tôi đã thành bạn tâm giao, và tôi sợ mất đi mối quan hệ đó ở ngoài đời. Nói cách khác, tôi sợ mình bị từ chối.
Tôi không nên sợ làm chi.
Lindsay đã nói với tôi là sẽ đến đón tôi tại căn hộ của má tôi – cô ấy khăng khăng đòi lái xe. Đúng giờ hẹn tôi đã đứng ngoài trời chạng vạng lạnh lẽo, dùng điện thoại hướng dẫn cô ấy đi qua những con đường giống hệt nhau, mang tên na ná nhau của khu chung cư mới của má. Tôi đang để để ý tìm một chiếc Chevy Cavalier ‘98 màu vàng ánh, thì bỗng dưng lóa mắt vì một tia đèn pha từ lề đường chiếu thẳng vào mặt. Lindsay đang nhá đèn xe với tôi qua lớp tuyết.
“Cài dây an toàn đi”. Đó là những lời đầu tiên Lindsay nói trực tiếp khi tôi lên xe. Rồi cô hỏi, “Giờ tính đi đâu đây?”
Lúc đó tôi mới chợt nhận ra là bất kể bao điều đã suy nghĩ về Lindsay, tôi lại không hề nghĩ một chút nào về mục đích cuộc hẹn.
Nếu tôi mà lâm vào tình huống này với bất kỳ phụ nữ nào khác, thì tôi đã ứng biến để chống chế rồi. Nhưng với Lindsay thì khác. Với cô ấy, chuyện này không thành vấn đề. Cô lái xe đưa tôi đi trên con đường yêu thích – Lindsay có một con đường yêu thích – và chúng tôi trò chuyện cho đến khi xe chạy mãi đến tận Guilford và kết thúc ở bãi đậu xe của siêu thị Laurel Mall. Chúng tôi chỉ ngồi trong xe trò chuyện.
Thật tuyệt. Nói chuyện mặt đối mặt hóa ra chỉ là sự nối dài của mọi cuộc điện thoại, email và tán gẫu trên mạng của chúng tôi. Cuộc hẹn đầu tiên này là sự tiếp nối của lần tiếp xúc trên mạng đầu tiên của hai đứa và khởi đầu một cuộc trò chuyện sẽ kéo dài chừng nào chúng tôi còn muốn nói.
Chúng tôi kể về gia đình mình, hoặc những gì còn lại của một gia đình. Ba má của Lindsay cũng đã ly dị: hai ông bà ở cách nhau hai mươi phút đi xe, và khi còn bé, Lindsay cứ phải qua lại như con thoi giữa hai người. Áo quần vật dụng của cô luôn sẵn sàng trong một túi xách. Thứ Hai, thứ Tư và thứ Sáu, cô ngủ trong phòng của mình ở nhà má. Thứ Ba, thứ Năm và thứ Bảy, cô ngủ trong phòng của mình ở nhà ba. Chủ nhật là ngày bi kịch, vì cô phải chọn lựa.
Cô ấy bảo gu ăn mặc của tôi rất kém, và chê trang phục hẹn hò của tôi: bên ngoài một chiếc sơ-mi in hoa văn hình ngọn lửa kim loại, cổ bẻ cài nút, trong là chiếc áo thun ba lỗ và dưới là quần jeans (tôi xin lỗi). Cô kể tôi nghe về hai anh chàng khác mà cô ấy đang hẹn hò, những người cô có nhắc tới trên mạng, và người giỏi thủ đoạn như Machiavelli cũng phải đỏ mặt trước những phương cách mà tôi rắp tâm phá hoại hai anh chàng này (tôi không xin lỗi). Tôi cũng kể với cô ấy mọi chuyện, kể cả việc tôi sẽ không thể nói về công việc của tôi – công việc mà tôi thậm chí chưa bắt đầu.
Đúng là tự phụ đến lố bịch, và cô ấy đã làm cho tôi thấy rõ điều đó bằng cách gật đầu một cách nghiêm túc.
Máy dò nói dối
Tôi nói với Lindsay là tôi lo lắng về cuộc kiểm tra sắp tới bằng máy dò nói dối mà việc chứng nhận an ninh đòi hỏi, và cô đề nghị tập dượt với tôi – một kiểu dạo đầu ngớ ngẩn.
Cái triết lý sống của cô chính là cách tập dượt hoàn hảo: Cho biết những gì bạn muốn, cho biết bạn là ai, không bao giờ xấu hổ. Nếu người khác từ chối bạn, đó là vấn đề của họ. Tôi chưa bao giờ thấy thoải mái khi ở cạnh người khác như thế này, và tôi chưa bao giờ sẵn lòng chịu nghe người khác chỉ trích lỗi lầm của mình như thế này. Tôi thậm chí còn để cho Lindsay chụp ảnh tôi.
Trong đầu tôi chỉ toàn là giọng nói của cô ấy trong lúc tôi lái xe đến khu nhà phức hợp của NSA (National Security Agency – Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ) có cái tên kỳ cục là Friendship Annex cho cuộc phỏng vấn cuối cùng để chứng nhận an ninh. Tôi thấy mình trong một căn phòng không cửa sổ, bị trói như một con tin vào một chiếc ghế văn phòng rẻ tiền.
Xung quanh ngực và bụng là những ống đo nhịp thở. Những chiếc kẹp trên đầu ngón tay đo mức hoạt động của điện trên da, vòng đo huyết áp quanh cánh tay đo nhịp tim, và một tấm cảm biến trên chiếc ghế sẽ phát hiện mọi cựa quậy và xê dịch của tôi. Tất cả các thiết bị này – bọc, kẹp, gắn và thắt chặt khắp người tôi – được kết nối với chiếc máy dò nói dối to lớn màu đen nằm trên chiếc bàn trước mặt.
Ngồi sau cái bàn này, trên một chiếc ghế đẹp hơn, là chuyên viên kiểm tra nói dối. Bà ta làm tôi nhớ đến một giáo viên từng dạy tôi – tôi đã dành phần lớn cuộc kiểm tra này để cố nhớ ra tên cô giáo đó, hoặc cố gắng không nhớ. Bà chuyên viên kiểm tra bắt đầu đặt câu hỏi.
Những câu đầu tiên không cần phải động não: Có phải tên tôi là Edward Snowden không? Có phải 21/06/83 là ngày sinh của tôi không? Rồi tới: Tôi có bao giờ phạm tội nghiêm trọng không? Tôi có bao giờ gặp vấn đề với chuyện cờ bạc không? Tôi có từng gặp vấn đề với rượu hoặc dùng các dược phẩm bất hợp pháp không? Tôi có từng làm nhân viên của một thế lực nước ngoài không? Tôi có bao giờ ủng hộ việc dùng bạo lực lật đổ chính phủ Hoa Kỳ không?
Các câu trả lời duy nhất được chấp nhận đều mang tính nhị phân: “Có” và “Không”. Tôi đã trả lời “Không” rất nhiều, và tiếp tục chờ đợi những câu hỏi mà tôi đã lo sợ. “Tôi có bao giờ lên mạng bài bác năng lực và tính cách của nhân viên quân y ở Fort Benning không?” “Anh trước đây đã tìm kiếm cái gì trên hệ thống mạng của Phòng thí nghiệm Hạt nhân Los Alamos?” Nhưng những câu hỏi đó không hề được nêu ra, và tôi chưa kịp nhận biết thì cuộc kiểm tra đã kết thúc.
Tôi đã đạt tiêu chuẩn một cách xuất sắc.
Theo yêu cầu, tôi phải trả lời tổng cộng ba loạt câu hỏi và cả ba lần tôi đều đạt, vậy có nghĩa là tôi không chỉ đủ điều kiện được cấp chứng nhận TS/SCI, mà tôi còn qua được phần “kiểm tra toàn diện bằng máy dò nói dối” – chứng nhận an ninh cao nhất xứ này.
Tôi đã có người bạn gái tôi yêu và tôi đã thành công như ý.
Tôi lúc đó hai mươi hai tuổi.
Trailer Snowden
Trailer “Snowden” (2016 – phim lấy cảm hứng về cuộc đời của Edward Snowden). Video: Youtube.
“Dám làm: Những bài học về lãnh đạo của tôi tại GE” ghi lại những kinh nghiệm và bài học của Jeff Immelt, cựu CEO của General Electric (GE), từ thời gian lãnh đạo tập đoàn này.
Tôi là một gã chăm “cày cuốc” đích thực, một tín đồ chân chính, đã có hình xăm “thịt viên” của GE (cách người trong nhà gọi logo của công ty) bên eo trái để làm bằng chứng.
Năm 2001, tôi trở thành CEO của một công ty, nơi nhận thức không tương đương với hiện thực. Công ty tôi kế thừa từ Jack Welch có một văn hóa hùng mạnh và những con người tuyệt vời. Nhưng chúng tôi đã cạn kiệt ý tưởng. Một năm trước, khi đang điều hành GE Healthcare, tôi đã cố mua một công ty siêu âm tên Acuson, nhưng Jack gạt đi vì nó nằm ở Mountain View, California và “dân ở đấy điên lắm”.
Tôi không đồng tình; địa điểm của nó sẽ cho chúng tôi một bàn đạp (như nó đã mang lại cho đối thủ Siemens của chúng tôi, tập đoàn về sau đã mua lại nó) tại Thung lũng Silicon, thiên đường của đổi mới. Trong khi một số người trong nội bộ GE tin rằng công ty chắc chắn sẽ ăn nên làm ra mãi mãi, song tôi lại lo lắng rằng chúng tôi đã trở nên quá trì trệ và thiếu óc tò mò.
Hình ảnh Jeff Immelt gắn liền với thương hiệu GE. Ảnh: CNBC.
Trong ít nhất một thập kỷ, chúng tôi đã sử dụng gã khổng lồ dịch vụ tài chính GE Capital để thúc đẩy tăng trưởng và hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp của mình. Nhưng khi tôi tiếp quản chức vụ, rất hiếm nhà quan sát hiểu được rằng chúng tôi đã đầu tư ít ỏi đến mức nào vào các doanh nghiệp công nghiệp đó.
Chúng tôi là một tập đoàn đa ngành cồng kềnh, ôm đồm đủ mọi thứ từ động cơ phản lực đến mạng truyền hình hay hợp đồng bảo hiểm cho chó mèo. Tuy nhiên, chúng tôi được định giá như một công ty công nghệ, về cơ bản là được giao dịch ở mức cao hơn đáng kể so với giá trị của các doanh nghiệp mà chúng tôi có.
Vì vậy, khi lên làm CEO, tôi đã nỗ lực cải tổ công ty, tái đầu tư vào danh mục đầu tư công nghiệp, cải thiện công nghệ và mở rộng dấu ấn toàn cầu của chúng tôi. Và tôi đã làm điều đó mà không hở một lời tiêu cực nào về Jack Welch.
Đó là một lựa chọn đầy rủi ro. Rất khó thúc đẩy thay đổi trong khi đội ngũ của bạn cảm thấy mọi thứ đều đã hoàn hảo. Nhưng vào thời điểm đó, cách tiếp cận này có vẻ đúng đắn. Người tiền nhiệm của tôi được xem là CEO tốt nhất trong lịch sử. Hy vọng của tôi là bảo tồn di sản của ông bằng cách khắc phục những chỗ mà tôi thấy là đã hỏng hóc trước khi chúng kịp hủy hoại chúng tôi.
Nhưng quá thường xuyên trong nhiệm kỳ của tôi, mong muốn bảo vệ GE bằng cách phát triển nó phải bị đặt xuống hàng thứ yếu khi các cuộc khủng hoảng đe dọa thành công của công ty – và nhiều khi là chính sự tồn vong của nó.
Đối với tôi, GE là một câu chuyện không thể đậm tính cá nhân hơn. Tôi là con trai của người đã làm đại diện thu mua của GE suốt 38 năm. Trước khi trở thành CEO, tôi đã bước lên từng nấc thang trong công ty, học hỏi tại ba mảng của GE. Tôi là một gã chăm “cày cuốc” đích thực – một tín đồ chân chính, đã có hình xăm “thịt viên” của GE (cách người trong nhà gọi logo của công ty) bên eo trái để làm bằng chứng. (Tôi sẽ nói thêm về vụ đó sau).
Tôi là gã cuối tuần nào cũng làm việc, là gã không bao giờ tiêu một xu để trang trí văn phòng của riêng hắn, là gã mang tem mình tự mua đến công ty để dán lên thư cá nhân. Nếu tôi có một câu thần chú, thì đó sẽ là: Tôi không phải trung tâm, GE mới là trung tâm.
Sách mang đến một góc nhìn mới nhưng không kém phần hấp dẫn về ảnh hưởng của nỗi đau đối với bộ não và phương pháp bộ não mã hóa tình yêu của con người đối với người thân, giúp chúng ta hiểu rõ nguồn gốc của nỗi đau khi không còn người thân bên cạnh và giải pháp vượt qua các cảm xúc khủng hoảng đó.
Bạn đang sử dụng bản đồ não để đi tới đi lui trong không gian quen thuộc này, thân thể bạn sẽ đến nơi mà não bạn đã gửi nó đi.
Khi giải thích mặt sinh học thần kinh của nỗi đau buồn, tôi thường bắt đầu bằng một phép ẩn dụ dựa trên một trải nghiệm quen thuộc. Tuy nhiên, để phép ẩn dụ này dễ hiểu, bạn phải chấp nhận một giả thiết. Giả thiết ấy là có kẻ nào đó đã trộm mất chiếc bàn ăn nhà bạn.
Tưởng tượng là bạn trở mình dậy khát khô lúc nửa đêm. Bạn bước khỏi giường và đi tới phía bếp lấy một ly nước. Xuống hành lang, bạn băng qua phòng ăn tối đen về phía nhà bếp. Đúng lúc hông bạn đáng ra sắp va vào góc cứng bàn ăn, bạn cảm thấy… hừm, bạn cảm thấy gì? Không gì hết. Bạn đột nhiên nhận ra là bạn không cảm thấy có bất cứ điều gì ở chỗ cao ngang hông bạn.
Đó là điều bạn nhận ra được, bạn không cảm thấy có điều gì đó, điều gì đó cụ thể. Chuyện vắng mặt thứ gì đó là điều đã thu hút bạn chú ý. Điều này thật lạ kỳ, ta thường nghĩ phải là điều gì đó mới thu hút ta chú ý, làm sao không gì cả có thể thu hút ta chú ý?
Não bộ có một cơ chế vận hành đặc biệt. Ảnh: Science Magazinee.
Vâng, thực tế là bạn không chỉ bước đi trong mỗi thế giới này. Hay chính xác hơn, hầu hết thời gian là bạn đang cùng bước đi trong hai thế giới. Trong đó một thế giới là bản đồ thực tế ảo được tạo nên hoàn toàn trong đầu bạn. Não bạn đang dịch chuyển con người bạn xuyên qua bản đồ ảo mà nó đã tạo ra, đó là lý do tại sao bạn có thể đi lại quanh nhà khá dễ dàng trong bóng đêm; bạn hiện không sử dụng thế giới bên ngoài để định hướng. Bạn đang sử dụng bản đồ não để đi tới đi lui trong không gian quen thuộc này, thân thể bạn sẽ đến nơi mà não bạn đã gửi nó đi.
Bạn có thể coi bản đồ não ảo về thế giới này như bản đồ Google trong đầu bạn. Bạn đã từng bao giờ trải nghiệm làm theo chỉ dẫn di chuyển bằng giọng nói mà hoàn toàn không chú ý nơi mình đang lái xe tới chưa? Có lúc giọng nói yêu cầu bạn rẽ vào một con đường, song bạn phát hiện ra đó thực ra là đường cho xe đạp.
GPS và thế giới thực không phải lúc nào cũng khớp nhau. Giống bản đồ của Google, bản đồ não dựa trên thông tin trước đó nó có về khu vực. Tuy nhiên, để giữ an toàn cho bạn, não có những khu vực chuyên dành phát hiện lỗi, nhận biết bất kỳ tình huống nào bản đồ não và thế giới thực không khớp nhau. Nó chuyển sang thông tin thị giác nhận vào mỗi khi một lỗi được phát hiện (và nếu trời tối, thì ta sẽ quyết định bật đèn).
Ta dựa vào bản đồ não vì việc dẫn dắt cơ thể theo bản đồ tâm trí sẽ bớt tốn công tính toán lại rất nhiều so với xuyên qua ngôi nhà quen thuộc như thể đó là trải nghiệm đầu tiên, như thể mỗi lần lại phải khám phá lại vị trí của ô cửa, bức tường và đồ nội thất, rồi quyết định làm sao định vị và đi qua từng thứ.
Không ai mong đợi bàn ăn nhà họ bị trộm mất. Và càng không ai mong đợi người thân yêu mất. Ngay cả khi một người bị bệnh trong một thời gian rất dài, cũng không ai biết được để bước tiếp trên thế giới này mà không có họ thì sẽ ra sao.
Là một nhà khoa học, đóng góp của tôi là nghiên cứu nỗi đau buồn từ góc độ của não, từ góc độ mà não đang cố giải quyết một vấn đề khi đối diện việc người quan trọng nhất cuộc đời ta không còn.
Nỗi đau buồn là một vấn đề đau lòng thắt ruột mà não phải giải quyết và việc đau buồn đòi hỏi bạn phải học cách sống trong một thế giới vắng mặt người bạn yêu thương đậm sâu, người đã khắc ghi vào hiểu biết trong bạn về thế giới. Điều này có nghĩa là đối với não, người thân yêu của bạn mất đi nhưng đồng thời cũng còn mãi, và bạn đang bước xuyên qua hai thế giới cùng một lúc. Bạn đang phải lèo lái cuộc sống của mình dù thực tế là nó đã bị cướp mất khỏi bạn, một giả thiết vô nghĩa, vừa khó hiểu vừa khó chịu.
Những loại tiền ảo như Pi, Ethereum, Bitcoin có thể tồn tại nhiều rủi ro từ pháp lý, bảo mật cho đến biến động thị trường.
Ảnh minh họa Pi Network. Nguồn: The Crypto Times.
Tiền ảo, đặc biệt là Bitcoin và Pi, đã trở thành một hiện tượng tài chính toàn cầu, thu hút sự chú ý của giới đầu tư cũng như các cơ quan quản lý. Tuy nhiên, đi kèm với sự phát triển nhanh chóng, tiền ảo cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đáng lo ngại, từ pháp lý, bảo mật, gian lận đến biến động thị trường.
Những vấn đề của tiền ảo
Một trong những vấn đề người chơi tiền ảo phải đối mặt là rủi ro pháp lý. Theo cuốn sách Cryptocurrencies and Cryptoassets của nhà xuất bản Taylor & Francis, Bitcoin từng bị sử dụng trong các giao dịch chợ đen, rửa tiền và trốn thuế. Điều này khiến nhiều chính phủ trên thế giới phải đưa ra các biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt.
Trung Quốc đã cấm hoàn toàn hoạt động giao dịch tiền ảo, trong khi Nhật Bản yêu cầu các sàn giao dịch phải tuân thủ quy định về chống rửa tiền (AML) và xác minh danh tính khách hàng (KYC). Việc thiếu đi một hệ thống pháp lý thống nhất giữa các quốc gia có thể đặt ra câu hỏi về tính thanh khoản và khả năng tồn tại lâu dài của tiền ảo.
Bên cạnh đó, rủi ro bảo mật là mối lo ngại thường trực. Mặc dù nền tảng Bitcoin chưa từng bị tấn công nghiêm trọng, nhưng các sàn giao dịch tiền ảo lại là mục tiêu thường xuyên của tin tặc.
Mark Karpeles, CEO Mt. Gox là người giúp sàn giao dịch này vươn lên vị trí số một vào năm 2013. Ảnh: Bloomberg.
“Sự sụp đổ của sàn Mt.Gox tại Nhật Bản do bị đánh cắp hàng triệu đôla Bitcoin là một minh chứng điển hình. Năm 2018, vụ tấn công vào sàn Coincheck khiến hơn 530 triệu USD tiền ảo bị thất thoát. Trong chín tháng đầu năm đó, tổng giá trị tiền ảo bị đánh cắp lên đến 927 triệu USD“, trích từ cuốn sách Cryptocurrencies and Cryptoassets.
Ngoài vấn đề bảo mật, gian lận cũng là một nguy cơ lớn đối với thị trường tiền ảo. Theo số liệu từ Anh, chỉ riêng trong tháng 6 và 7 năm 2018, có tới 203 vụ lừa đảo liên quan đến tiền điện tử với tổng thiệt hại hơn 2 triệu euro, trung bình mỗi nạn nhân mất hơn 10.000 euro.
Một rủi ro khác là tính biến động cao của tiền ảo. Bitcoin từng có thời điểm mất đến 61% giá trị chỉ trong một ngày vào năm 2013 và giảm tới 80% trong năm 2014. Năm 2018, thị trường tiền ảo tiếp tục chứng kiến sự lao dốc mạnh mẽ trước khi phục hồi dần vào giữa năm 2019. Giá trị của Bitcoin và các đồng tiền khác phụ thuộc phần lớn vào tâm lý thị trường và sự chấp nhận của người dùng, khiến chúng trở thành công cụ đầu tư có độ rủi ro cao.
Khi một sàn giao dịch phá sản, nhà đầu tư có thể mất trắng
Theo cuốn sách Cryptocurrency Risk and Governance Challenges (2023), nhiều nhà kinh tế học lo ngại rằng tiền điện tử không có đầy đủ đặc điểm của một loại tiền tệ thực sự mà chỉ là tài sản đầu cơ với mức độ rủi ro cao hơn nhiều so với các loại tài sản khác.
Cuốn sách Cryptocurrency Risk and Governance Challenges của nhà xuất bản Taylor & Francis. Ảnh: Amazon.
Ngân hàng Trung ương Malaysia (Bank Negara Malaysia) từng chỉ ra rằng trái ngược với vàng hay ngoại tệ, những tài sản có tính thanh khoản cao trong thời kỳ bất ổn, tiền điện tử chủ yếu được nắm giữ để đầu cơ, khiến giá trị của chúng dễ bị tổn thương trước sự thay đổi của thị trường. Nếu các bên tham gia không sẵn sàng chấp nhận giao dịch bằng tiền ảo, giá trị của chúng có thể trở nên vô nghĩa.
Những biến động giá mạnh, rủi ro bảo mật cũng là một vấn đề lớn đối với các nhà đầu tư tiền ảo. Theo cuốn The Book of Crypto của tác giả Henri Arslanian, các nền tảng giao dịch tiền ảo không có sự bảo vệ của các tổ chức bảo hiểm như FDIC (Mỹ) hay các hệ thống bảo đảm tiền gửi truyền thống. Khi một sàn giao dịch phá sản, nhà đầu tư có thể mất toàn bộ số tiền của mình.
Ngoài ra, nhiều dự án tiền ảo kêu gọi vốn bằng hình thức ICO (Initial Coin Offering) nhưng thực chất chỉ là mô hình lừa đảo Ponzi. Các nền tảng cho vay tiền ảo cũng đối mặt với nguy cơ sụp đổ do quản lý rủi ro kém, như trường hợp của nền tảng Cred – công ty tuyên bố phá sản vào năm 2020 khiến nhiều nhà đầu tư mất trắng.
Không thể phủ nhận rằng thị trường tiền điện tử vẫn còn nhiều rủi ro tiềm ẩn. Dữ liệu từ báo cáo của Fidelity năm 2021 cho thấy hơn 90% tổ chức tài chính đang quan tâm đến loại tiền này nhưng mức độ tham gia vẫn còn hạn chế do tính bất ổn và thiếu khung pháp lý rõ ràng.