Connect with us

Sách hay

Trẻ có cần đọc truyện ‘đáng sợ’ đến ‘rợn sống lưng’ không?

Được phát hành

,

Việc đọc những câu chuyện “rợn sống lưng” với trẻ con có thể dạy chúng một số bài học quan trọng.

Trẻ có cần đọc truyện đáng sợ đến rợn sống lưng không? - Ảnh 1.

Minh họa truyện Những nhạc sĩ thành Bremen của Lev Kaplan

Nếu bạn muốn con mình trở nên thông minh, hãy đọc truyện cổ tích cho chúng nghe. Nếu bạn muốn con mình trở nên cực kỳ thông minh, hãy đọc cho chúng nghe thêm nhiều truyện cổ tích

A.Einstein

Những nỗi sợ ở trẻ con

Đã là sinh vật là biết thích và biết sợ. Mèo thích chuột và sợ chó. Chuột thích thóc và sợ mèo… Cho đến nay khoa học vẫn chưa đọc được tâm trí các động vật khác để biết khi lớn chúng sợ gì, khi bé chúng sợ gì. Ta chỉ mới biết sơ lược ở người, rằng:

– Trẻ bé tí sợ cái bất an, lạ lẫm. Khi được 8-9 tháng tuổi, trẻ bắt đầu “biết lạ”, không cho người lạ bế, thấy người lạ thì khóc, cho dù đó là cô giữ trẻ hay là bà bác phúc hậu. Trẻ sẽ mếu máo hay khóc ầm lên, đu bám chặt vào người mẹ để có được cảm giác an toàn.

– Trẻ chập chững sợ phải chia ly. Khoảng từ 10 tháng đến 2 tuổi, nhiều trẻ bắt đầu thấy sợ phải tách khỏi cha mẹ: không muốn mẹ thả mình ở trường mẫu giáo, không chịu ngủ giường riêng, đi đâu cũng nhằng nhẵng bám mẹ, đôi lúc khiến cha mẹ “phát điên” vì sự đeo bám dai dẳng ấy.

– Đám nhi đồng 4-6 tuổi sợ những thứ “giả vờ”. Tuy bản thân chúng rất giàu tưởng tượng và cũng hay giả vờ làm con này con nọ nhưng lại không biết phân biệt được thật – giả khi có người khác giả vờ. Thậm chí, sau một hồi tưởng tượng quá đà, các bạn nhỏ ấy lại sợ hãi những thứ do chính mình nghĩ ra, thí dụ ông Kẹ đang núp dưới giường, hoặc con ngáo ộp đang nằm trong tủ… Một số trẻ sợ bóng tối. Số khác sợ ác mộng. Số khác nữa sợ sấm sét, tiếng ồn từ máy xay đá, máy khoan…

– Lớn hơn 7 tuổi, trẻ bắt đầu sợ những thứ nguy hiểm của đời thực. Những ông Kẹ, ngáo ộp, khủng long không dọa chúng được nữa vì trẻ biết là không có thực. Cái sợ bây giờ là những thứ có thể xảy ra trong cuộc sống: sợ con gà con sẽ chết, sợ có đứa bắt nạt mình, sợ bị đau…

– Từ khoảng 10 tuổi, trẻ bắt đầu sợ… xã hội. Sợ người ngoài nhìn vào mình không ra gì. Sợ không biết mình có phù hợp với đám bạn kia không. Sợ khi phải lên trình diễn trước lớp. Sợ khi đổi sang trường mới, lớp mới, hay khi tham gia một cuộc thi…

Trẻ có cần đọc truyện đáng sợ đến rợn sống lưng không? - Ảnh 3.

Minh họa truyện cổ Hansel và Gretel của nghệ sĩ vĩ đại người Anh Arthur Rackham, 1909

Nỗi sợ của phụ huynh

Trẻ con non nớt và dễ bị hù dọa, nhưng có một “thú vui” hơi quái quỷ là thích nghe những chuyện đáng sợ. Ai đã sống ở nông thôn hẳn còn nhớ, có những đêm tắt đèn tối kin kít, chỉ lập lòe đom đóm ngoài vườn, một lũ trẻ con gần như ôm chặt lấy nhau để nghe một đứa thì thào kể chuyện ma.

Ở thành phố thì không gì thú bằng chui vào trong chăn bịt kín đầu đuôi, bên cạnh là tiếng ai đó giả giọng một gã khổng lồ hoặc một con sói đang chầm chậm đến gần đòi ăn thịt.

Một số phụ huynh sợ rằng những câu chuyện đáng sợ, nhiều chi tiết ác sẽ làm méo mó tâm hồn trẻ.

Họ ngại ngần khi phải đọc truyện cổ tích Hansel và Gretel cho con, băn khoăn có nên sửa lại chi tiết bà mẹ vứt hai con vào rừng không, và nên chăng đổi lại kết cục là mụ phù thủy tự nhiên không thích ăn thịt trẻ con nữa, chuyển sang thích ăn chay?

Họ lý luận: tuổi thơ là rất ngắn, giai đoạn đeo kính màu hồng rồi cũng chỉ có hơn chục năm, đến khi vào đời thì tự khắc đời dạy cho những bài học đen tối, con còn trong vòng tay bảo bọc thì ta cứ cho chúng đeo kính hồng.

Trẻ có cần đọc truyện đáng sợ đến rợn sống lưng không? - Ảnh 4.

Minh họa truyện Mèo đi hia của nghệ sĩ Ron Embleton, vẽ năm 1972

Tác dụng của những truyện “đáng sợ”

Tuy nhiên như đã nói, nhu cầu nghe những thứ đáng sợ ở trẻ con là có thật. Và theo các chuyên gia về văn học cho thiếu nhi, những truyện đau lòng như Hansel và Gretel là có mục đích quan trọng của nó cả.

Nhà tâm lý học Bruno Bettelheim từng cho rằng các câu chuyện khiến trẻ con sợ không những vô cùng lý thú mà còn giúp trẻ đi qua những giai đoạn phát triển then chốt. Bằng cách nào?

Ta hãy lấy thí dụ từ truyện Hansel và Gretel:

Hansel và Gretel là hai anh em con nhà nghèo. Nghèo tới mức vì thiếu bánh mì mà bà mẹ quyết ép ông bố bỏ hai con vào rừng. Bằng cách rắc sỏi đánh dấu đường, hai anh em lần về lại được nhà nhưng lại bị mẹ bỏ vào rừng tiếp.

Lần này Hansel rắc bánh mì đánh dấu đường về thì bị chim ăn hết. Hai anh em lạc vào rừng sâu, gặp một ngôi nhà làm bằng bánh mì, ngói lợp bằng bánh ngọt… của mụ phù thủy chuyên ăn thịt trẻ con.

Mụ nhốt Hansel lại trong cũi, sai bé Gretel hằng ngày nấu nướng vỗ béo ông anh để mụ còn làm thịt. Bằng mưu trí, bé Gretel đẩy được mụ phù thủy vào lò nướng bánh. Hai anh em thoát ra và còn lấy được bao nhiêu là ngọc. Quay về nhà thì bà mẹ ác độc đã chết, chỉ còn ông bố nhu nhược nhưng yêu con. Ba bố con sống hạnh phúc từ đấy.

Theo tiến sĩ giáo dục Lawrence Sipe, ở tuổi nào cũng thế, trẻ con đều sợ rằng mình không được yêu bằng anh chị em mình, và sợ nhất là bị lạc, hoặc bị bỏ rơi. Và đây chính là chỗ để các truyện cổ tích dụng võ: chúng cho trẻ đối mặt với những nỗi sợ ấy, và chiến thắng chúng.

Khi đọc Hansel và Gretel chẳng hạn, trẻ con khám phá cảm xúc buồn bã của mình khi tưởng tượng chính mình bị bỏ rơi, đồng thời trải qua cảm giác sung sướng đến run rẩy khi tưởng tượng chính mình mưu trí mà chiến thắng được cái ác.

Theo nhà tâm lý học Bettelheim, câu chuyện này đặc biệt có ý nghĩa với trẻ con khoảng 5 tuổi, bởi đó là cái tuổi mà chúng thực hiện những bước đi đầu tiên vào thế giới thực, và chúng cần một sự đảm bảo rằng rồi thì mọi việc cũng ổn.

Hay với những truyện cổ tích có môtip mẹ kế bắt nạt con chồng và thiên vị con mình, như trong Cinderella, trẻ con sẽ trải nghiệm cảm xúc khi đối đầu với sự ganh tị ngay trong nhà; câu chuyện trở thành sàn đấu cho một cuộc vật lộn nội tâm chống lại sự ganh ghét.

Tiến sĩ tâm lý học Sheldon Cashdan, tác giả của cuốn Mụ phù thủy phải chết: Ý nghĩa ẩn giấu của truyện cổ tích, nói:

“Khi đọc hay nghe truyện cổ tích, trẻ con sẽ tự động gán phần tốt đẹp trong chúng cho các nhân vật chính diện, và phần xấu ở chúng cho nhân vật phù thủy hoặc phản diện. Thế nên mỗi lần mụ phù thủy chết là một lần niềm tin của trẻ con vào khả năng chiến thắng những cảm xúc bất ổn được phục hồi một cách thần kỳ”.

Trẻ có cần đọc truyện đáng sợ đến rợn sống lưng không? - Ảnh 5.

Minh họa truyện Cô bé quàng khăn đỏ của A.E. Jackson

Nhưng đáng sợ là đáng sợ cỡ nào?

Tuy nhiên, không phải chuyện dữ dội và đáng sợ nào trong sách cũng là điều tốt. Theo một chuyên gia tâm lý, với trẻ từ 8 tuổi trở lên, bộ Harry Potter là rất nên đọc. “Câu chuyện diễn ra trong một vũ trụ có đạo đức, nơi cái xấu bị trừng trị hoặc ít nhất là có người chống lại”.

Có những tình tiết tưởng chừng đen tối, hoang mang, thậm chí đau buồn, nhưng truyện giúp trẻ con bộc lộ những cảm xúc ấy; và sau rốt chiến thắng bao giờ cũng đến, không dễ dàng nhưng sung sướng vô cùng. Trẻ con đọc Harry Potter học được nhiều bài học quý giá, đồng thời niềm tin vào cái tốt càng được củng cố.

Ngược lại, những truyện chỉ cốt lấy nước mắt của trẻ con, bắt nhân vật phải chia cách và chết tức tưởi vô duyên cớ, hoặc những truyện mà cái thiện đành chịu thua cái ác… thì không nên cho trẻ con đọc.

Bởi vì khi đó đọng lại trong đầu trẻ sẽ là nỗi sợ hãi rằng cái xấu vẫn còn sống, vẫn còn tiếp tục. Thêm nữa, nói chung trẻ con khi đọc sách “đáng sợ” thì không thấy sợ như khi xem phim. Một lý do: sách ít hình hơn. Bản thân họa sĩ cũng không thích vẽ cảnh ghê rợn. Thí dụ trong truyện Cô bé quàng khăn đỏ, chẳng bao giờ ta phải thấy cảnh con sói ăn thịt bà ngoại.

Trẻ có cần đọc truyện đáng sợ đến rợn sống lưng không? - Ảnh 6.

Minh họa truyện Nàng tiên cá của nghệ sĩ người Czech Josef Palecek, 1981

Để trẻ thấy sợ mà không sợ hãi

Với cùng một truyện, có phụ huynh thấy thế là “thường” với con mình, có phụ huynh tức điên sao lại có người dám viết sách làm cho con mình sợ thế, buồn thế. Tâm lý trẻ con cũng thay đổi tùy lúc. Có những khi chúng chẳng sợ gì cả, lại có khi sợ những thứ rất “vô duyên”.

Cách an toàn nhất cho trẻ đọc những truyện “đáng sợ” là để chúng ngồi vào lòng. Ngoài ra, theo tiến sĩ giáo dục Lawrence Sipe, sách là thứ có thể kiểm soát. “Trẻ biết rằng chúng có thể dừng ở bất kỳ trang nào chúng muốn dừng”.

Ông kể lại chuyện một cậu bé ở trường mẫu giáo thuộc thành phố New York, khi đọc cổ tích đến đoạn sợ quá đã ngồi hẳn lên sách để quái vật khỏi chui ra. Theo ông: “Một khi trẻ con cảm thấy mình kiểm soát được tình hình, những gì chúng sợ sẽ không còn đáng sợ nữa”.

Cuối cùng, hãy coi nỗi sợ, nỗi buồn trong truyện cho trẻ em là một thứ gia vị mạnh như ớt, như tiêu. Việc của người viết là gia giảm làm sao để hợp với vị giác non nớt nhưng tò mò và cần trưởng thành dần của trẻ.

Việc của cha mẹ là can đảm nhìn con mình sợ và buồn theo câu chuyện, khi biết rằng ở cuối những trang kia sẽ có một kết cục hồng hào.

“Trẻ con vừa thích vừa sợ truyện thần tiên. Chúng có một nhu cầu tự tại muốn trải nghiệm cảm xúc mạnh. Andersen làm bọn trẻ sợ nhưng tôi tin chắc không đứa nào vì thế mà ghét bỏ ông ngay cả sau này khi đã trưởng thành.

Những câu chuyện thần kỳ của ông có đầy những nhân vật siêu nhiên, chưa kể bọn thú biết nói và lũ xô chậu lắm lời. Không phải ai trong thế giới này đều vô hại và đàng hoàng. Kẻ xuất hiện thường xuyên nhất là tử thần, một nhân vật không ai có thể chặn đường, cứ bất chợt len lỏi vào chính giữa niềm hạnh phúc rồi mang đi người tốt nhất, được thương yêu nhất.

Andersen tôn trọng trẻ con. Ông trò chuyện với chúng không chỉ về các cuộc phiêu lưu đầy niềm vui của cuộc đời mà còn về nỗi đau, nỗi bất hạnh, về các thất bại thường là không đáng có.

Các câu chuyện thần tiên của ông tràn đầy các sinh vật tuyệt vời lại còn hiện thực hơn cả đống truyện cho trẻ con ngày nay, cứ than vãn về thực tế mà lảng tránh những điều kỳ tuyệt như dịch bệnh.

Andersen có đủ can đảm để viết các câu chuyện có hồi kết bất hạnh. Ông không tin rằng ta nên sống tốt vì sẽ có lợi (như cách các câu chuyện đạo lý ngày nay thường răn bảo mặc dù trong đời thật đâu phải lúc nào cũng như vậy) mà vì cái ác xuất phát từ sự cọc còi về trí tuệ và tình cảm và là một dạng đói nghèo phải tránh xa”.

(Nhà văn Wisława Szymborska viết trong tiểu luận “Tầm quan trọng của biết sợ hãi”)

Nguồn: https://tuoitre.vn/tre-co-can-doc-truyen-dang-so-den-ron-song-lung-khong-20200716154948703.htm

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng