Connect with us

Sách hay

Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII

Được phát hành

,

Ấn phẩm được thực hiện để giúp các cấp, các ngành cùng toàn thể cán bộ, đảng viên và Nhân dân học tập, quán triệt và triển khai thực hiện các văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.

Phần thứ nhất trong chuyên đề “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”.

Lễ thượng cờ trên đỉnh Fansipan. Ảnh: Việt Linh.

I. Những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền.

1. Sự hình thành và phát triển tư tưởng, quan điểm về nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại

Nhà nước pháp quyền được thể hiện trên hai phương diện: (1) Tư tưởng, lý thuyết, quan điểm; (2) Tổ chức quyền lực nhà nước với những mô hình đa dạng, phong phú và có lịch sử lâu đời. Các tư tưởng, lý thuyết, quan điểm và mô hình đó đều hướng vào một ý niệm chung về cách thức tổ chức đời sống chính trị – xã hội theo các yêu cầu bảo đảm dân chủ, công bằng, vì con người trên cơ sở pháp luật; xác lập nguyên tắc thượng tôn pháp luật trong mối quan hệ pháp luật – quyền lực nhà nước – quyền con người.

Thượng tôn pháp luật với tính chất là hạt nhân của tư tưởng pháp quyền ra đời sớm nhất ở nhà nước Hy Lạp cổ đại. Ở phương Đông, trước hết là trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, tư tưởng dùng pháp luật để trị quốc cũng đã hình thành, phát triển và có những thời điểm đã trở thành quốc sách cai trị của các vương triều. Tư tưởng La Mã cổ đại đã coi pháp luật là hạt nhân của Nhà nước. Vì vậy, ở đó đã sớm hình thành một nền pháp luật trên cơ sở những nền văn hóa phát triển của các đế chế La Mã và Byzantine, với những chế định pháp luật, hệ thống tố tụng phát triển làm công cụ quản lý xã hội và thúc đẩy vai trò của người dân trong đời sống chính trị.

Thời kỳ trung đại kéo dài hàng nghìn năm ở phương Đông và hàng trăm năm ở phương Tây, dưới ách thống trị của các chế độ chuyên chế vương quyền và thần quyền đầy bạo lực và cuồng tín tôn giáo đã làm cho những tư tưởng pháp quyền có được từ thời cổ đại bị đẩy lùi đáng kể, dẫn đến tình trạng kém phát triển kéo dài. Thời kỳ này, pháp quyền không chỉ là tư tưởng, quan điểm, học thuyết mà đã trở thành hiện thực chính trị – pháp lý với sự ra đời của bản Đại hiến chương về các quyền tự do năm 1215 của nước Anh, còn gọi là Hiến chương Magna Carta.

Trong thời kỳ cận đại, khi mà các yếu tố của chủ nghĩa tư bản đã hình thành và phát triển đòi hỏi một trật tự pháp lý mới phù hợp với thế giới quan của giai cấp tư sản mà theo Ph. Ăngghen là thế giới quan pháp lý. Vì thế, các giá trị tư tưởng pháp quyền ra đời từ thời kỳ cổ đại và trung đại được phục hưng và phát triển. Nhà nước được coi là khế ước của xã hội dựa trên nhu cầu bảo đảm và bảo vệ quyền con người; kiểm soát và cân bằng quyền lực để kiểm soát quyền lực. Các giá trị của pháp luật như công bằng, lẽ phải, gắn với các giá trị đạo đức đã từng bước được khẳng định trong các học thuyết chính trị – pháp lý của lịch sử tư tưởng cận đại.

Trong thời kỳ hiện đại, đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới thứ hai, vấn đề nhà nước pháp quyền tiếp tục được đặt ra trong những điều kiện mới, nhấn mạnh nhiều hơn đến bảo đảm, bảo vệ quyền con người, chủ nghĩa Hiến pháp và tất cả được đặt trong tổng thể của vấn đề quản trị tốt. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948, sau đó là hai bản công ước quan trọng về quyền con người đã được Liên hợp quốc ban hành vào năm 1966 là: Công ước về các quyền dân sự và chính trị; Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đã khẳng định giá trị phổ quát, ý nghĩa toàn cầu của quyền con người và trách nhiệm của các quốc gia trong việc thúc đẩy quyền con người.

Ngày nay, pháp quyền đã trở thành một trong những nguyên tắc phổ biến của quản trị nhà nước dân chủ dựa trên cơ sở thượng tôn hiến pháp và pháp luật, vì con người và bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Các tư tưởng, quan điểm về nhà nước pháp quyền được phổ biến, phát triển trong các cộng đồng quốc tế và ở các quốc gia.

2. Các nguyên tắc pháp quyền và đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền

Các nguyên tắc pháp quyền

Nguyên tắc pháp quyền theo cách tiếp cận tổng quát là nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo về tính tối thượng của pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội. Theo cách tiếp cận các yếu tố cấu thành pháp quyền, các nguyên tắc pháp quyền cơ bản trong quản lý nhà nước, tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước gồm: (1) Pháp luật phải rõ ràng, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận; được tôn trọng và thực hiện nghiêm minh, công bằng, bình đẳng, nhất quán; (2) Quyền lực nhà nước được tổ chức và vận hành trong giới hạn, bị kiểm soát, ràng buộc bởi hiến pháp và pháp luật; (3) Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ.

Ngoài ra, các học thuyết, tư tưởng, quan điểm về nhà nước pháp quyền dưới ảnh hưởng của chế độ chính trị, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội cụ thể của từng giai đoạn lịch sử và từng quốc gia, khu vực còn đưa ra những yêu cầu, giá trị đặc trưng về nguyên tắc pháp quyền, như thượng tôn hiến pháp, dân chủ, chủ quyền nhân dân, bảo vệ công lý, phân quyền, độc lập của tòa án, sự tham gia của giá trị đạo đức… nhưng nhìn chung đều thống nhất và phù hợp với các nguyên tắc pháp quyền cơ bản nêu trên

Các đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền

Dưới đây là những đặc trưng đã được thừa nhận rộng rãi:

(1) Khẳng định chủ quyền của Nhân dân và vai trò chủ thể của Nhân dân đối với quyền lực nhà nước. Nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước thông qua các hình thức dân chủ, là nguồn gốc chính danh và hợp pháp của quyền lực nhà nước.

(2) Đề cao vai trò của hiến pháp và pháp luật trong hoạt động quyền lực và trong đời sống xã hội, bảo đảm thượng tôn hiến pháp.

Nhà nước phải đặt mình dưới hiến pháp và pháp luật, chịu sự ràng buộc của hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp được coi là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của nền dân chủ và chế độ pháp quyền, thể hiện ý chí, lợi ích của Nhân dân, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tôn trọng, thực hiện, bảo vệ sự tôn nghiêm của hiến pháp được coi là quyền và trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi thiết chế nhà nước, tổ chức và công dân. Giám sát tính hợp hiến trong các hoạt động quyền lực nhà nước và bảo vệ sự tôn nghiêm của hiến pháp là để bảo đảm, bảo vệ sự toàn vẹn của chế độ nhà nước, chế độ chính trị và chế độ xã hội.

(3) Tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, các giá trị công bằng, công lý.

Yêu cầu về tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người được hình thành trong bước chuyển lịch sử từ “con người – thần dân” sang “con người – công dân” trong nhà nước với các nội dung như quyền được sống, được tự do mưu cầu hạnh phúc, được bình đẳng, có đủ cơ hội để phát triển mọi khả năng của mình, được pháp luật bảo đảm và bảo vệ. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948, các công ước quốc tế của Liên hợp quốc năm 1966 về các quyền dân sự, chính trị và về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đều hướng trách nhiệm của nhà nước vào việc tạo lập môi trường đầy đủ và thuận lợi nhất cho việc thực hiện trên thực tế quyền con người, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, ngăn chặn các hành vi xâm phạm hoặc hạn chế bất hợp pháp quyền con người, đề cao công bằng và bình đẳng, chống mọi biểu hiện phân biệt đối xử về quyền và sự bất công dựa trên chủng tộc, tôn giáo, giới tính. Quyền con người là giá trị gắn liền với pháp quyền, là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của nhà nước pháp quyền. Quyền con người được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo hiến pháp và pháp luật. Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân đều phải tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Tư tưởng đề cao các giá trị công bằng, công lý, quyền con người thể hiện tập trung ở chỗ, công bằng, công lý, quyền con người là các giá trị cao cả của xã hội, gắn liền với pháp quyền; hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội phải dựa trên pháp luật; pháp luật phải công bằng, hợp lý và có mục tiêu trọng tâm là bảo vệ quyền con người; nhà nước có trách nhiệm công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người; tư pháp có sứ mệnh, trọng trách bảo vệ công lý, quyền con người; tư tưởng công bằng, bảo vệ công lý, quyền con người là nền tảng của việc xây dựng tố tụng tư pháp.

(4) Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, thống nhất, đồng bộ, minh bạch, dễ tiếp cận và được thực hiện nghiêm minh, nhất quán, hiệu quả.

Bảo đảm dân chủ, công bằng, nhân đạo, thống nhất là mục tiêu của điều chỉnh pháp luật, là yêu cầu đối với quá trình kiến tạo pháp luật, đồng thời là cơ sở để bảo vệ công lý và quyền con người trong nhà nước pháp quyền. Tính minh bạch đòi hỏi pháp luật phải dễ hiểu, được công bố rộng rãi, giúp định hướng hành vi phù hợp pháp luật, bảo đảm tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người khác, đồng thời quy trình lập pháp, thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp phải công khai, rõ ràng. Yêu cầu về thủ tục công bằng và chặt chẽ là sự biểu hiện rõ nét nhất nội hàm của nhà nước pháp quyền, giúp người dân biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình để có hành vi phù hợp với pháp luật. Tính dễ tiếp cận là đòi hỏi pháp luật thực sự hướng đến con người trong thực tế, liên quan đến các vấn đề lớn như giải thích pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, dịch vụ tư vấn pháp luật và luật sư, trợ giúp pháp lý cho các đối tượng chính sách xã hội. Tính đầy đủ, kịp thời là yêu cầu xuất phát từ việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân, không tạo ra những khoảng trống, bất cập trong hệ thống pháp luật có thể hạn chế hoặc phương hại đến việc thực hiện các lợi ích chính đáng hợp hiến, hợp pháp của người dân và xã hội. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật phải được thực hiện nghiêm minh, nhất quán và hiệu quả để bảo đảm vai trò, hiệu lực của pháp luật và ý thức thượng tôn pháp luật.

(5) Phân quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước.

Bản chất của quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân chia thành những nhánh quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thống nhất là mặt bản chất của quyền lực nhà nước, phân quyền luôn được hiểu là cơ chế có tính chất tổ chức pháp lý để bảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước.

Kinh nghiệm tổ chức quyền lực trong nhà nước pháp quyền tại các quốc gia trên thế giới cho thấy, cơ chế phân quyền, ngoài các đặc trưng phổ biến nêu trên, còn có nhiều biến thể mang dấu ấn và đặc thù quốc gia, dân tộc, văn hóa, chính trị, đặc điểm của hệ thống pháp luật.

(6) Độc lập xét xử của tòa án.

Độc lập xét xử của tòa án được hiểu ở hai mức độ: Sự độc lập giữa các tòa án bên trong hệ thống của mình; Sự độc lập của các thẩm phán khi xét xử. Độc lập xét xử của tòa án là điều kiện để thực hiện chức năng quan trọng của nhà nước – chức năng thực hiện pháp luật công bằng, nghiêm minh, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân, duy trì và bảo vệ công lý.

Tính phổ biến và tính đặc thù của nhà nước pháp quyền

Tính phổ biến của nhà nước pháp quyền trước hết thể hiện đây là giá trị, tinh hoa của nhân loại, được hình thành, phát triển trong lịch sử lâu dài, được kiểm nghiệm và thể nghiệm trong thực tiễn tổ chức, vận hành quyền lực nhà nước. Tính phổ biến của nhà nước pháp quyền thể hiện qua việc được ghi nhận trong hiến pháp của các quốc gia trên thế giới: Trong số 125 hiến pháp của các nước đã có 96 hiến pháp ghi nhận về nhà nước pháp quyền.

Tính đặc thù xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế – xã hội; đặc điểm văn hóa, trong đó có văn hóa chính trị và văn hóa pháp lý; truyền thống tổ chức đời sống các cộng đồng dân cư, tính chất và đặc điểm của hệ thống pháp luật…

Khi áp dụng mô hình nhà nước pháp quyền, các quốc gia đều căn cứ trước hết từ những giá trị chung trên cơ sở kết hợp với đặc thù quốc gia, dân tộc. Sự kết hợp đó không cản trở lẫn nhau, trong đó yếu tố không thể thiếu trong nhà nước pháp quyền là những yếu tố mang tính phổ biến, được đặt trong mối liên hệ thống nhất và hài hòa với các yếu tố có tính đặc thù quốc gia.

Nguồn: https://zingnews.vn/van-de-ly-luan-co-ban-ve-nha-nuoc-phap-quyen-post1382331.html

Tiếp tục đọc
Nhấn vào đây để bình luận

You must be logged in to post a comment Login

Leave a Reply

Sách hay

Nghệ thuật tranh kiếng trong ‘Nhà gia tiên’

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, nghệ thuật tranh kiếng gắn liền với văn hóa thờ tự và nhiều khía cạnh khác trong đời sống và sinh hoạt của nhiều gia đình Nam bộ.

Phim điện ảnh Nhà gia tiên do Huỳnh Lập đạo diễn gần cán mốc 200 tỷ, gây sốt phòng vé thời gian qua tuy nội dung còn gây tranh cãi song được đánh giá cao ở phần tái dựng bối cảnh. Trong đó, chi tiết nhân vật chính Mỹ Tiên (Phương Mỹ Chi) được ông mình, một người coi sóc đền miếu (nghệ sĩ Trung Dân đóng) kể về nghệ thuật làm tranh kiếng để lại ấn tượng.

Để tái hiện nghệ thuật dân gian này trên màn ảnh rộng, đoàn phim đã mời một nghệ nhân từ Long An thực hiện các tác phẩm tranh kiếng, cũng như đến làng nghề Bà Vệ (An Giang) tìm kiếm, phục chế những bức tranh cũ mục nát, bị vứt bỏ.

Chia sẻ với Tri Thức – Znews, Thạc sĩ Văn hóa học, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Nam Bộ cho rằng việc tranh kiếng xuất hiện trong phim là một yếu tố không quá bất ngờ. “Bộ phim kể về câu chuyện diễn ra trong một không gian truyền thống với những nội dung phong hóa xưa… mà tranh kiếng là loại công nghệ phẩm ‘trang trí’ không chỉ ở những không gian thờ tự mà cả các không gian sinh hoạt trong nhiều gia đình Nam Bộ”, bà nói.

Sự ra đời và phát triển của tranh kiếng Nam Bộ

Theo nhà nghiên cứu, tranh kiếng có mặt ở cung đình Huế từ thời Minh Mạng – Thiệu Trị, song đó là các sản phẩm mỹ nghệ nhập khẩu. Mãi đầu thế kỷ XX, các di dân Quảng Đông đến lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, mới bắt đầu mở các tiệm kiếng, buôn bán các loại kiếng tráng thủy để soi mặt, lộng khuôn hình, tủ, khung cửa chớp, cửa gió… và các loại tranh kiếng: các bức đại tự và các bức thư họa dùng trong việc khánh chúc tân gia, khai trương, mừng thọ… Tranh kiếng Nam bộ ra đời từ đây.

Đến những năm 1920, nghề vẽ tranh kiếng chuyển địa bàn về Lái Thiêu (Thủ Dầu Một). Sau đó, khoảng những năm 1940-1950, nghề làm tranh kiếng lan tỏa khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trụ lại ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang ngày nay), Chợ Mới (An Giang), Chợ Trạm (Long An), Tây Ninh… và thâm nhập vào cộng đồng Khmer tạo nên dòng tranh kiếng Khmer Nam bộ ở Trà Vinh và Sóc Trăng…

Tranh kiếng Nam bộ chiếm tỷ lệ lớn là tranh thờ: Trước nhất là tranh thờ Tổ tiên với loại tranh Đại tự, Cửu huyền thất tổ, Sơn thủy (biểu đạt ý nghĩa hiếu đạo của câu ca dao nổi tiếng: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra), Lão mai (nhằm biểu ý “Cây có cội”), Tre tàn măng mọc (động viên nỗ lực vươn lên của thế hệ hậu bối). Đặc biệt là tranh chân dung của tổ tiên quá vãng.

Thứ hai là tranh thờ các đối tượng thuộc tín ngưỡng dân gian như tranh Ông Địa, Ông Táo, các thần độ mạng… Thứ ba là tranh thờ của các tôn giáo: tranh thờ của Phật giáo như Phật, Bồ Tát, Tổ sư…; tranh thờ của Đạo giáo như Lão Tử cưỡi trâu, Bát Tiên…, tranh thờ của tín đồ Công giáo; tranh “Thiên nhãn” của đạo Cao Đài… Riêng tranh thờ của cộng đồng Khmer Nam bộ cũng như của cộng đồng người Hoa tạo thành một dòng độc đáo có đặc trưng về đề tài cũng như kỹ pháp tạo hình.

Ngoài ra, tranh kiếng trang trí nội ngoại thất, tranh khánh chúc và đặc biệt là loại tranh trang trí xe bán mì, hủ tíu.

“Tranh kiếng là loại tranh vẽ ngược và tô vẽ ở phía sau mặt kiếng, nên tinh hoa nhất trong nghệ thuật này là tài năng vẽ tranh, vờn màu, sắp xếp bố cục chính phụ sao cho có được một bức tranh đúng với mục đích sử dụng của nó và đẹp mắt về mặt mỹ thuật”, tác giả Huỳnh Thanh Bình chia sẻ. Thách thức lớn nhất của người nghệ nhân tranh kiếng là phải tạo nên những mẫu tranh đáp ứng được đa dạng yêu cầu về đề tài, về chủng loại; và cần sở đắc một vốn liếng chữ Hán để thể hiện thành những câu đối, những đại tự, những tấm hoành, tấm biển tương thích cho từng nội dung tranh.

Ở Nam bộ, hầu như tranh kiếng có mặt ở mọi gia đình, thậm chí nơi đình, đền, chùa, miếu. Việc sử dụng tranh kiếng cho nhu cầu thờ tự, trang trí hoặc chúc tụng… đã trở thành tập quán. Chính vì vậy, tranh kiếng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa vùng đất này.

Nghệ thuật gắn liền với văn hóa thờ tự

Thờ tự tổ tiên là tập tục quan trọng trong đời sống văn hóa của xứ ta. Nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống là không gian tâm linh chiếm vị trí trung tâm trong mỗi ngôi nhà. Theo đó, việc trang nghiêm nơi thờ tự tổ tiên luôn được coi trọng. Theo tác giả sách Tranh dân gian Nam Bộ, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, theo sự phát triển của tranh kiếng, các bộ tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng ra đời và dần dần thay thế loại tranh thờ tổ tiên ở dạng bích họa hoặc tranh thờ cẩn ốc xà cừ hay các bức chạm gỗ sơn son thiếp vàng hay sơn then thiếp vàng.

“Từ bấy đến nay, tranh thờ tổ tiên vẽ trên kiếng đã không ngừng canh cải, tạo tác nên nhiều loại khác nhau”, bà Huỳnh Thanh Bình cho hay. Có loại chỉ là những bức đại tự, có loại chỉ là “bài vị” với dòng chữ Cửu Huyền thất tổ, đặc biệt là những bộ tranh vẽ cảnh sơn thủy hoặc có loại phát triển từ bộ tranh Tứ thời Mai-Lan-Cúc-Trúc

nha gia tien anh 4

Nhà nghiên cứu, tác giả Huỳnh Thanh Bình với tác phẩm Tranh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Quỳnh My.

Cửu huyền thất tổ – bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện trong Nhà gia tiên – là một kiểu loại của bộ tranh thờ tổ tiên thuộc loại tranh đại tự, với dòng chữ “Cửu Huyền thất tổ”. Loại tranh này phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cộng đồng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo và cả cộng đồng tín đồ đạo Cao Đài Tây Ninh.

Ở loại tranh này thì mỗi bộ gồm năm tấm ghép lại: Tấm biển nằm trên cùng, ghi tên tộc họ: “Nguyễn phủ đường”, “Lê phủ đường”…, hay “Đức lưu phương” hoặc “Phước Lộc Thọ”. Bức chính nằm giữa tranh, ghi bốn chữ Cửu huyền thất tổ và được trang trí bằng đồ hình tứ linh.

Bao quanh tấm tranh chính là bốn tấm tranh khác: bức thượng thổ ở phía trên (vẽ hình cuốn thư, hay năm sản xuất); bức hạ thổ ghép dưới đáy (thường trang trí hoa-điểu hay mâm ngũ quả) và đôi liễn, đặt dọc hai bên tấm chính, nội dung tôn vinh công đức của cha mẹ, tổ tiên.

Ngoài ra còn có bộ tranh thờ tổ tiên ba bức hay giản tiện hơn, loại tranh kiếng thờ tổ tiên này được thu gọn thành một bức duy nhất, đơn giản với chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” ở chính giữa; hai bên là hai câu đối:

“Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,

Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu”.

Hay “Kính cửu huyền thiên niên bất tận

Trọng thất tổ nội ngoại tương đồng”.

Loại tranh thờ Cửu huyền thất tổ còn thấy trong bộ ba bức chín tròng với bức chính ở giữa từng chữ Cửu huyền thất tổ được thể hiện trong những ô tròn ở cả dạng thức Hán tự lẫn quốc ngữ trên nền sơn thủy hay dọc theo cội lão mai…

Ngày nay, tranh kiếng bị các loại tranh công nghiệp cạnh tranh. Song theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, tranh kiếng vẽ thủ công vẫn được công chúng hâm mộ. Đây đó, nghề vẽ tranh kiếng vẫn còn tồn tại; thậm chí có nơi phát triển có quy mô hơn trước, và tiếp thu các kỹ thuật in lụa, in 3D…

Tác giả Huỳnh Thanh Bình sinh năm 1985, hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM. Bà từng xuất bản một số tác phẩm như Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-tranh-kieng-trong-nha-gia-tien-post1535551.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzeimer

Được phát hành

,

Bởi

“Tăng cường trí nhớ, phòng bệnh Alzheimer” của Tiến sĩ Y khoa Richard Restak là một tác phẩm toàn diện, khám phá cách trí nhớ hoạt động và cách tối ưu hóa khả năng ghi nhớ.

Phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ.

Những lo lắng về trí nhớ phổ biến đến mức nào?

Có nhiều lý do để quan tâm đến trí nhớ của bạn. Hãy xem xét những điều này: phát triển một trí nhớ siêu việt giúp tăng cường sự chú ý, tập trung, khả năng trừu tượng hóa, gọi tên, hình dung không gian, khả năng sử dụng lời nói, ngôn ngữ và tiếp thu từ. Nói ngắn gọn, trí nhớ chính là chìa khóa cho việc tăng cường trí não.

Ở Mỹ ngày nay, tất cả những người trên 50 tuổi đều đang sống trong nỗi sợ hãi mang tên Big A – bệnh Alzheimer. Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ (bữa tối, tiệc cocktail, v.v.) mang bầu không khí như một phân đoạn từ chương trình đố vui hằng tuần “Chờ đã… Đừng nói là” của đài NPR. Đó là chương trình mà các khách mời sẽ ganh đua với nhau trong những cuộc thi căng thẳng để trở thành người đầu tiên nghĩ ra tên của những thứ như diễn viên đóng một vai nào đó trong loạt phim truyền hình ngắn mới nhất mà mọi người đang say mê theo dõi.

Gần như chắc chắn là ai đó sẽ lấy điện thoại di động ra để kiểm tra độ chính xác của người trả lời đầu tiên. Nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh nhất kẻo người khác nghi ngờ bạn đang có những triệu chứng ban đầu của Big A.

Tri nho anh 1

Trí nhớ là một phần vô cùng quan trọng của con người. Ảnh: Nativespeaker.

Mặc dù bệnh Alzheimer không phổ biến như nhiều người vẫn lo sợ, nhưng người ta đang ngày càng bày tỏ lo lắng về chứng mất trí nhớ mà họ cảm nhận được với bạn bè của mình. Chúng cũng là những lời than thở phổ biến nhất mà những người trên 55 tuổi chia sẻ với bác sĩ của họ.

Những lo lắng về trí nhớ như vậy thường phi lý và khơi dậy sự lo lắng không cần thiết. Sự lo lắng phổ biến này đã góp phần tạo ra một mối quan ngại rộng rãi về trí nhớ và các dấu hiệu suy giảm trí nhớ. Một trong những lý do của sự hoảng loạn này là sự nhầm lẫn trong tư duy của nhiều người về cách chúng ta hình thành ký ức.

Hãy cố gắng nhớ lại một chuyện gì đó đã xảy ra với bạn vào đầu ngày hôm nay. Nó không nhất thiết phải là một chuyện đặc biệt – bất kỳ sự kiện thông thường nào cũng được. Giờ hãy xem ký ức đó đã hình thành như thế nào.

Theo yêu cầu của tôi, bạn đã truy xuất ký ức về một chuyện gì đó mà có lẽ bạn sẽ không nghĩ tới nếu tôi không thúc giục bạn nhớ lại nó và bạn không nỗ lực để truy xuất nó.

Về bản chất, trí nhớ là trải nghiệm lại một chuyện gì đó trong quá khứ dưới dạng một hồi ức. Về mặt hoạt động, ký ức là sản phẩm cuối cùng của những nỗ lực của chúng ta trong hiện tại nhằm truy xuất những thông tin được lưu trữ trong não mình.

Ký ức – tương tự những giấc mơ và hành động tưởng tượng – khác nhau tùy theo mỗi người. Ký ức của tôi khác biệt rõ rệt với ký ức của bạn vì chúng dựa trên trải nghiệm sống cá nhân của chúng ta.

Ký ức cũng khác với hình ảnh hoặc video về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù các phiên bản dựa trên công nghệ này của quá khứ có thể đóng vai trò là công cụ kích thích trí nhớ, nhưng bản thân chúng không phải là ký ức.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-ban-nen-quan-tam-den-tri-nho-cua-minh-post1535566.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Vương miện xanh

Được phát hành

,

Bởi

Tập sách là hành trình từ hậu trường sân khấu các cuộc thi người đẹp, nơi người thắng cuộc được yêu quý nhưng cũng hứng chịu các phán xét khắt khe của công chúng, đến các dự án xanh của Hoa hậu Môi trường Thế giới Nguyễn Thanh Hà.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất.

Năm 2022, tôi bước lên bục cao sân khấu Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam.

Năm 2023, tôi tiếp tục trở thành người Việt Nam đầu tiên chinh phục vương miện Miss Eco International 2023 (Hoa hậu Môi trường Thế giới) tại Cairo, Ai Cập giữa những phấn khích và xúc động.

Chiếc vương miện đã thay đổi tôi. Từ một cô bé vô tư trong chiếc “tổ kén” gia đình nuôi dưỡng gần 20 năm qua, nay tôi bước ra thế giới rộng lớn và choáng ngợp với những điều không thể ngờ đến. Thế giới đã “dạy” tôi lớn lên, trước những vô lo, niềm vui, nỗi buồn, cảm xúc của tuổi vừa rời ghế nhà trường.

Nhiệm kỳ hoa hậu của tôi đã kết thúc, nhưng tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh trên con đường đã chọn, đó là tình yêu, là trái tim, là thanh xuân, là giá trị sống.

Hai năm nhìn lại, tôi tự hỏi về bản thân, về phiên bản khác của chính mình giữa có và không có vương miện, giữa những gì tôi đạt được và đánh mất. Thế giới đó, có gì ở lại cùng tôi? Có gì đã khiến tôi dũng cảm đi tiếp trong khoảng thời gian đầy khó khăn đó?

Hoa hau anh 1

Hoa hậu môi trường thế giới 2023 Nguyễn Thanh Hà. Ảnh: Vietnam.vn.

Một mình trên sân khấu

Ngay khi vừa đạt cột mốc “đủ tuổi”, tôi lập tức đăng ký cuộc thi Hoa hậu Môi trường Việt Nam. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ rằng, phải thực hiện ước mơ của mình ngay khi có cơ hội. Ước mơ làm hoa hậu? Không hẳn! Đó là ước mơ được làm gì đó, thật cụ thể, thật thiết thực cho môi trường sống này, cho hành tinh này.

Nếu trở thành hoa hậu, tôi sẽ có ưu thế hơn, có thể xuất hiện trước nhiều người để bày tỏ những vấn đề về môi trường, đánh động sự quan tâm của nhiều người hơn. Nghĩ là làm, thật may mắn, tôi đã thành công và đăng quang khi lần đầu thử sức ở một đấu trường sắc đẹp mà mục tiêu không phải để trở thành người đẹp được ca ngợi hay được công nhận về nhan sắc. Tôi chỉ muốn nhắm tới sứ mệnh vì môi trường như chính danh hiệu mà cuộc thi đã trao.

Tôi bỗng nhớ đến câu nói trong Nhà Giả Kim: “Khi bạn thực sự mong muốn một điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại giúp bạn đạt được nó”. Phải chăng, tôi thành công vì tôi khao khát điều đó mãnh liệt?

Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã nhiều lần tự đặt câu hỏi cho bản thân: Là một người trẻ lớn lên trong điều kiện sống đầy đủ, được ăn ngon mặc đẹp và có nhiều cơ hội học tập hơn thế hệ ông bà, ba mẹ ngày xưa, liệu tôi có thể làm ngơ trước những mối đe dọa đang rình rập môi trường sống của chúng ta như rác thải, ô nhiễm, hạn mặn, lũ lụt, phá rừng hay hiệu ứng nhà kính không? Chính vì vậy, tôi đã quyết định tham gia cuộc thi Hoa hậu Môi trường. Hai chữ “môi trường” trong danh hiệu chính là nguồn sức mạnh và động lực để tôi hành động.

Ban đầu, tôi cũng mang trong mình rất nhiều lo ngại: Liệu mình có đủ khả năng không? Liệu có thể vượt qua những thí sinh tài năng khác? Tuy nhiên, tôi nhận ra, niềm khao khát mạnh mẽ muốn thử thách bản thân và tìm kiếm những cơ hội mới để trưởng thành còn lớn hơn. Điều thôi thúc tôi tham gia không chỉ là mong muốn thể hiện bản thân, mà còn ở khát khao được lan tỏa những giá trị tích cực về bảo vệ môi trường đến cộng đồng.

Nguồn: https://znews.vn/chiec-vuong-mien-thay-doi-cuoc-doi-hoa-hau-moi-truong-the-gioi-post1535563.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng