Connect with us

Sách hay

Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII

Được phát hành

,

Ấn phẩm được thực hiện để giúp các cấp, các ngành cùng toàn thể cán bộ, đảng viên và Nhân dân học tập, quán triệt và triển khai thực hiện các văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.

Phần thứ nhất trong chuyên đề “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”.

Lễ thượng cờ trên đỉnh Fansipan. Ảnh: Việt Linh.

I. Những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền.

1. Sự hình thành và phát triển tư tưởng, quan điểm về nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại

Nhà nước pháp quyền được thể hiện trên hai phương diện: (1) Tư tưởng, lý thuyết, quan điểm; (2) Tổ chức quyền lực nhà nước với những mô hình đa dạng, phong phú và có lịch sử lâu đời. Các tư tưởng, lý thuyết, quan điểm và mô hình đó đều hướng vào một ý niệm chung về cách thức tổ chức đời sống chính trị – xã hội theo các yêu cầu bảo đảm dân chủ, công bằng, vì con người trên cơ sở pháp luật; xác lập nguyên tắc thượng tôn pháp luật trong mối quan hệ pháp luật – quyền lực nhà nước – quyền con người.

Advertisement

Thượng tôn pháp luật với tính chất là hạt nhân của tư tưởng pháp quyền ra đời sớm nhất ở nhà nước Hy Lạp cổ đại. Ở phương Đông, trước hết là trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, tư tưởng dùng pháp luật để trị quốc cũng đã hình thành, phát triển và có những thời điểm đã trở thành quốc sách cai trị của các vương triều. Tư tưởng La Mã cổ đại đã coi pháp luật là hạt nhân của Nhà nước. Vì vậy, ở đó đã sớm hình thành một nền pháp luật trên cơ sở những nền văn hóa phát triển của các đế chế La Mã và Byzantine, với những chế định pháp luật, hệ thống tố tụng phát triển làm công cụ quản lý xã hội và thúc đẩy vai trò của người dân trong đời sống chính trị.

Thời kỳ trung đại kéo dài hàng nghìn năm ở phương Đông và hàng trăm năm ở phương Tây, dưới ách thống trị của các chế độ chuyên chế vương quyền và thần quyền đầy bạo lực và cuồng tín tôn giáo đã làm cho những tư tưởng pháp quyền có được từ thời cổ đại bị đẩy lùi đáng kể, dẫn đến tình trạng kém phát triển kéo dài. Thời kỳ này, pháp quyền không chỉ là tư tưởng, quan điểm, học thuyết mà đã trở thành hiện thực chính trị – pháp lý với sự ra đời của bản Đại hiến chương về các quyền tự do năm 1215 của nước Anh, còn gọi là Hiến chương Magna Carta.

Trong thời kỳ cận đại, khi mà các yếu tố của chủ nghĩa tư bản đã hình thành và phát triển đòi hỏi một trật tự pháp lý mới phù hợp với thế giới quan của giai cấp tư sản mà theo Ph. Ăngghen là thế giới quan pháp lý. Vì thế, các giá trị tư tưởng pháp quyền ra đời từ thời kỳ cổ đại và trung đại được phục hưng và phát triển. Nhà nước được coi là khế ước của xã hội dựa trên nhu cầu bảo đảm và bảo vệ quyền con người; kiểm soát và cân bằng quyền lực để kiểm soát quyền lực. Các giá trị của pháp luật như công bằng, lẽ phải, gắn với các giá trị đạo đức đã từng bước được khẳng định trong các học thuyết chính trị – pháp lý của lịch sử tư tưởng cận đại.

Trong thời kỳ hiện đại, đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới thứ hai, vấn đề nhà nước pháp quyền tiếp tục được đặt ra trong những điều kiện mới, nhấn mạnh nhiều hơn đến bảo đảm, bảo vệ quyền con người, chủ nghĩa Hiến pháp và tất cả được đặt trong tổng thể của vấn đề quản trị tốt. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948, sau đó là hai bản công ước quan trọng về quyền con người đã được Liên hợp quốc ban hành vào năm 1966 là: Công ước về các quyền dân sự và chính trị; Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đã khẳng định giá trị phổ quát, ý nghĩa toàn cầu của quyền con người và trách nhiệm của các quốc gia trong việc thúc đẩy quyền con người.

Ngày nay, pháp quyền đã trở thành một trong những nguyên tắc phổ biến của quản trị nhà nước dân chủ dựa trên cơ sở thượng tôn hiến pháp và pháp luật, vì con người và bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Các tư tưởng, quan điểm về nhà nước pháp quyền được phổ biến, phát triển trong các cộng đồng quốc tế và ở các quốc gia.

Advertisement

2. Các nguyên tắc pháp quyền và đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền

Các nguyên tắc pháp quyền

Nguyên tắc pháp quyền theo cách tiếp cận tổng quát là nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo về tính tối thượng của pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội. Theo cách tiếp cận các yếu tố cấu thành pháp quyền, các nguyên tắc pháp quyền cơ bản trong quản lý nhà nước, tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước gồm: (1) Pháp luật phải rõ ràng, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận; được tôn trọng và thực hiện nghiêm minh, công bằng, bình đẳng, nhất quán; (2) Quyền lực nhà nước được tổ chức và vận hành trong giới hạn, bị kiểm soát, ràng buộc bởi hiến pháp và pháp luật; (3) Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ.

Ngoài ra, các học thuyết, tư tưởng, quan điểm về nhà nước pháp quyền dưới ảnh hưởng của chế độ chính trị, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội cụ thể của từng giai đoạn lịch sử và từng quốc gia, khu vực còn đưa ra những yêu cầu, giá trị đặc trưng về nguyên tắc pháp quyền, như thượng tôn hiến pháp, dân chủ, chủ quyền nhân dân, bảo vệ công lý, phân quyền, độc lập của tòa án, sự tham gia của giá trị đạo đức… nhưng nhìn chung đều thống nhất và phù hợp với các nguyên tắc pháp quyền cơ bản nêu trên

Các đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền

Advertisement

Dưới đây là những đặc trưng đã được thừa nhận rộng rãi:

(1) Khẳng định chủ quyền của Nhân dân và vai trò chủ thể của Nhân dân đối với quyền lực nhà nước. Nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước thông qua các hình thức dân chủ, là nguồn gốc chính danh và hợp pháp của quyền lực nhà nước.

(2) Đề cao vai trò của hiến pháp và pháp luật trong hoạt động quyền lực và trong đời sống xã hội, bảo đảm thượng tôn hiến pháp.

Nhà nước phải đặt mình dưới hiến pháp và pháp luật, chịu sự ràng buộc của hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp được coi là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của nền dân chủ và chế độ pháp quyền, thể hiện ý chí, lợi ích của Nhân dân, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tôn trọng, thực hiện, bảo vệ sự tôn nghiêm của hiến pháp được coi là quyền và trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi thiết chế nhà nước, tổ chức và công dân. Giám sát tính hợp hiến trong các hoạt động quyền lực nhà nước và bảo vệ sự tôn nghiêm của hiến pháp là để bảo đảm, bảo vệ sự toàn vẹn của chế độ nhà nước, chế độ chính trị và chế độ xã hội.

(3) Tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, các giá trị công bằng, công lý.

Advertisement

Yêu cầu về tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người được hình thành trong bước chuyển lịch sử từ “con người – thần dân” sang “con người – công dân” trong nhà nước với các nội dung như quyền được sống, được tự do mưu cầu hạnh phúc, được bình đẳng, có đủ cơ hội để phát triển mọi khả năng của mình, được pháp luật bảo đảm và bảo vệ. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948, các công ước quốc tế của Liên hợp quốc năm 1966 về các quyền dân sự, chính trị và về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đều hướng trách nhiệm của nhà nước vào việc tạo lập môi trường đầy đủ và thuận lợi nhất cho việc thực hiện trên thực tế quyền con người, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, ngăn chặn các hành vi xâm phạm hoặc hạn chế bất hợp pháp quyền con người, đề cao công bằng và bình đẳng, chống mọi biểu hiện phân biệt đối xử về quyền và sự bất công dựa trên chủng tộc, tôn giáo, giới tính. Quyền con người là giá trị gắn liền với pháp quyền, là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của nhà nước pháp quyền. Quyền con người được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo hiến pháp và pháp luật. Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân đều phải tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Tư tưởng đề cao các giá trị công bằng, công lý, quyền con người thể hiện tập trung ở chỗ, công bằng, công lý, quyền con người là các giá trị cao cả của xã hội, gắn liền với pháp quyền; hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội phải dựa trên pháp luật; pháp luật phải công bằng, hợp lý và có mục tiêu trọng tâm là bảo vệ quyền con người; nhà nước có trách nhiệm công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người; tư pháp có sứ mệnh, trọng trách bảo vệ công lý, quyền con người; tư tưởng công bằng, bảo vệ công lý, quyền con người là nền tảng của việc xây dựng tố tụng tư pháp.

(4) Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, thống nhất, đồng bộ, minh bạch, dễ tiếp cận và được thực hiện nghiêm minh, nhất quán, hiệu quả.

Bảo đảm dân chủ, công bằng, nhân đạo, thống nhất là mục tiêu của điều chỉnh pháp luật, là yêu cầu đối với quá trình kiến tạo pháp luật, đồng thời là cơ sở để bảo vệ công lý và quyền con người trong nhà nước pháp quyền. Tính minh bạch đòi hỏi pháp luật phải dễ hiểu, được công bố rộng rãi, giúp định hướng hành vi phù hợp pháp luật, bảo đảm tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người khác, đồng thời quy trình lập pháp, thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp phải công khai, rõ ràng. Yêu cầu về thủ tục công bằng và chặt chẽ là sự biểu hiện rõ nét nhất nội hàm của nhà nước pháp quyền, giúp người dân biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình để có hành vi phù hợp với pháp luật. Tính dễ tiếp cận là đòi hỏi pháp luật thực sự hướng đến con người trong thực tế, liên quan đến các vấn đề lớn như giải thích pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, dịch vụ tư vấn pháp luật và luật sư, trợ giúp pháp lý cho các đối tượng chính sách xã hội. Tính đầy đủ, kịp thời là yêu cầu xuất phát từ việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân, không tạo ra những khoảng trống, bất cập trong hệ thống pháp luật có thể hạn chế hoặc phương hại đến việc thực hiện các lợi ích chính đáng hợp hiến, hợp pháp của người dân và xã hội. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật phải được thực hiện nghiêm minh, nhất quán và hiệu quả để bảo đảm vai trò, hiệu lực của pháp luật và ý thức thượng tôn pháp luật.

(5) Phân quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước.

Bản chất của quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân chia thành những nhánh quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thống nhất là mặt bản chất của quyền lực nhà nước, phân quyền luôn được hiểu là cơ chế có tính chất tổ chức pháp lý để bảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước.

Advertisement

Kinh nghiệm tổ chức quyền lực trong nhà nước pháp quyền tại các quốc gia trên thế giới cho thấy, cơ chế phân quyền, ngoài các đặc trưng phổ biến nêu trên, còn có nhiều biến thể mang dấu ấn và đặc thù quốc gia, dân tộc, văn hóa, chính trị, đặc điểm của hệ thống pháp luật.

(6) Độc lập xét xử của tòa án.

Độc lập xét xử của tòa án được hiểu ở hai mức độ: Sự độc lập giữa các tòa án bên trong hệ thống của mình; Sự độc lập của các thẩm phán khi xét xử. Độc lập xét xử của tòa án là điều kiện để thực hiện chức năng quan trọng của nhà nước – chức năng thực hiện pháp luật công bằng, nghiêm minh, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân, duy trì và bảo vệ công lý.

Tính phổ biến và tính đặc thù của nhà nước pháp quyền

Tính phổ biến của nhà nước pháp quyền trước hết thể hiện đây là giá trị, tinh hoa của nhân loại, được hình thành, phát triển trong lịch sử lâu dài, được kiểm nghiệm và thể nghiệm trong thực tiễn tổ chức, vận hành quyền lực nhà nước. Tính phổ biến của nhà nước pháp quyền thể hiện qua việc được ghi nhận trong hiến pháp của các quốc gia trên thế giới: Trong số 125 hiến pháp của các nước đã có 96 hiến pháp ghi nhận về nhà nước pháp quyền.

Advertisement

Tính đặc thù xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế – xã hội; đặc điểm văn hóa, trong đó có văn hóa chính trị và văn hóa pháp lý; truyền thống tổ chức đời sống các cộng đồng dân cư, tính chất và đặc điểm của hệ thống pháp luật…

Khi áp dụng mô hình nhà nước pháp quyền, các quốc gia đều căn cứ trước hết từ những giá trị chung trên cơ sở kết hợp với đặc thù quốc gia, dân tộc. Sự kết hợp đó không cản trở lẫn nhau, trong đó yếu tố không thể thiếu trong nhà nước pháp quyền là những yếu tố mang tính phổ biến, được đặt trong mối liên hệ thống nhất và hài hòa với các yếu tố có tính đặc thù quốc gia.

Nguồn: https://zingnews.vn/van-de-ly-luan-co-ban-ve-nha-nuoc-phap-quyen-post1382331.html

Advertisement
Tiếp tục đọc
Quảng cáo
Nhấn vào đây để bình luận

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sách hay

Lịch sử chưa kể về ramen

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một khảo cứu thú vị về lịch sử món mì ramen ở Nhật Bản thông qua lăng kính phân tích và mối liên hệ chặt chẽ của món ăn với địa lý, chính trị, quan hệ đối ngoại, khoa học dinh dưỡng, truyền thông và bản sắc dân tộc.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 cho thấy Zhu Shun Shui đã chỉ cho Mitsukuni (cận vệ của Tokugawa Mitsukuni) cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa.

Mì ramen được giới thiệu lần đầu đến Nhật Bản vào năm 1665, năm 1884 hay năm 1910? Tiền thân của nó liệu có phải là món ăn được gọi với cái tên ūshin udon, Nankin soba hay Shina soba? Tùy thuộc vào câu trả lời mà chúng ta sẽ nghiệm suy về từng món ăn khác nhau với một giai thoại nguồn cội riêng, cùng một quỹ đạo lịch sử đặc thù mang đến các góc nhìn cụ thể về đất nước Nhật Bản. […]

Mi ra men anh 1

Bìa cuốn sách

Giai thoại đầu tiên, và cũng sống động nhất, đã xuất hiện ban đầu trong công trình nghiên cứu mang tính tiên phong về lịch sử của mì ramen (được xuất bản năm 1987) của nhà sử học về ẩm thực Kosuge Keiko, trong đó ấn định thời điểm món ăn này được trình làng là vào những năm 1660, đồng thời cho rằng Tokugawa Mitsukuni (tên khác là Mito Kōmon, 1628 − 1701) – vị lãnh chúa huyền thoại thời phong kiến (daimyō) nắm hàng thứ hai sau Mạc chủ (shōgun) (1) – là người đầu tiên thưởng thức món mì ramen ở Nhật Bản.

Là nhân vật lịch sử nổi tiếng ở Nhật và từng được một bộ phim truyền hình dài tập mô tả như một vị hảo hán, ở gần cuối mỗi tập phim, Tokugawa Mitsukuni thường tiết lộ danh tính của mình cho những kẻ xấu bằng cách để lộ ra hình ảnh chiếc inrō (hộp đựng trang trí sơn mài kích cỡ nhỏ) có khắc gia huy của dòng họ ông, cho thấy ông là vị daimyō trong vùng.

Advertisement

Câu thoại “Ngươi không nhận ra gia huy này sao?” (Kono mondokoro ga me ni hairanuka?) được Kaku-san (cận vệ của Mitsukuni) nhắc lại trong đoạn cao trào của mỗi tập phim nhằm khôi phục lại trật tự và cấp bậc, và khiến những kẻ bất lương ngang ngược phải lập tức cầu xin sự khoan hồng.

Một bản ghi chép còn bảo toàn được từ tháng 7 năm 1665 về các hoạt động của Mitsukuni cho thấy rằng Zhu Shun Shui – một người Trung Quốc tị nạn khỏi chính quyền nhà Minh sống ở Mito vào thời điểm đó (2) – đã chỉ cho Mitsukuni cách chế biến một món mì nước kiểu người Hoa nhiều khả năng chính là món mì ramen ngày nay (3).

Mặc dù Mitsukuni được biết đến nhiều nhất trong lịch sử Nhật Bản khi đã khởi xướng kế hoạch kỳ vĩ biên soạn nên Dai Nihon Shi – hay Lịch sử vĩ đại của Nhật Bản – một cuốn sách mất gần 250 năm và mười thế hệ để hoàn thành, ông cũng là một người ca tụng triết học Lý học (Neo- Confucianism) (4) và đã tìm đến Trung Quốc để được soi đường chỉ lối cách trị nước.

Ông do vậy đã tham vấn và kết giao với Zhu, người trước đó từng nắm chức thượng quan ở Trung Quốc dưới thời nhà Minh nhưng quyết định đến Nhật Bản vào năm 1665 do phải lưu vong khỏi chế độ cai trị của Mãn Châu.

Mi ra men anh 2

Lãnh chúa Tokugawa Mitsukuni. Nguồn: wikipedia.

Zhu trở thành một trong những cố vấn quan trọng nhất của Mitsukuni, và làm việc trong chính quyền cai trị của ông này trong 17 năm tiếp theo cho đến khi qua đời vào năm 1682. Vai trò quan trọng của Zhu trong đội ngũ cố vấn của vị daimyō đã giúp ông có được một cuộc sống thoải mái, cùng một bia mộ nổi bật còn tồn tại cho đến ngày nay trong khu nghĩa trang của gia tộc Tokugawa nhánh Mito (5).

Advertisement

Trong thời gian hầu cận daimyō, Zhu biết được rằng Mitsukuni là một người rất thích ăn udon – loại mì nước hiện vẫn phổ biến ở Nhật Bản – với sợi mì làm từ bột mì sử dụng với nước dùng dashi (làm từ cá ngừ khô và tảo bẹ).

Vào thế kỷ 17, người Nhật thường ăn mì udon với quả mơ ngâm (umeboshi) và vừng. Thấy vậy, Zhu đã gợi ý về năm thành phần thường được sử dụng trong món mì nước Trung Quốc để vị daimyō vùng Mito có thể thêm vào nhằm cải thiện hương vị của món ăn. Năm thành phần (ūshin) mà ông chủ ý đề xuất gồm: rễ kiệu (rakkyō), tỏi, hẹ tỏi (nira), hành lá và gừng (6).

Từ những dữ kiện này, nhà sử học về ẩm thực Kosuge phỏng đoán rằng Tokugawa Mitsukuni chính là cha đẻ của tập tục ăn mì nước Trung Quốc ở Nhật Bản. Sau này Bảo tàng Ramen ở Shin-Yokohama đã phổ biến rộng rãi câu chuyện trên, và kết quả là vào năm 2003, Tập đoàn Thực phẩm Nissin của Nhật Bản nhà sản xuất mì ramen ăn liền lớn nhất thế giới – trong một thời gian ngắn đã cho ra – mắt nhãn hiệu mì ăn liền U-shin có in hình gia huy của gia tộc Tokugawa, được điểm tô bằng giai thoại về Mitsukuni và Zhu.

Mặc dù khó xác định liệu món ăn từng được ưa chuộng bởi vị lãnh chúa nổi tiếng của vùng Mito kia tương thích ra sao với món ăn ngày nay được gọi với cái tên “mì ramen”, cần ghi nhớ rằng câu chuyện được lưu truyền rộng rãi ở trên về sự xuất hiện tại Nhật Bản của món mì nước kiểu người Hoa đã thiết lập nên một giai thoại nguồn cội trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên hiện đại – một thời đại được đánh dấu bằng việc người Nhật có xu hướng học hỏi người Trung Quốc.

Mặc dù câu chuyện trên được coi như một phiên bản bao trùm đầy lôi cuốn về nguồn gốc của món ăn, với đầy đủ các nhân vật ngoài đời thực cùng những tương tác tưởng tượng dựa trên các cách diễn giải không thành kiến đối với những ghi chép lịch sử, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhấn mạnh sự ngưỡng mộ của người Nhật đối với một nước Trung Quốc thời tiền Thanh.

Advertisement

—————-

1. Một tước hiệu đặc biệt dành cho những vị tướng quân có chức vụ cao nhất trong thời kỳ phong kiến của Nhật Bản. (ND)

2. Khi triều đại nhà Thanh củng cố quyền lực của mình lên miền nam Trung Quốc, một số học giả Nho giáo làm việc cho chính quyền nhà Minh đã trốn sang Đại Hàn và Nhật Bản để làm cố vấn.

3. Kosuge Keiko, Nippon Rāmen Monogatari: Chūka soba wa itsu doko de umareta ka (Tokyo: Shinshindō, 1987), tr.45-59.

4. Tư tưởng triết lý Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Lý học có thể được xem là nỗ lực hợp lý hóa cũng như thế tục hóa Nho giáo bằng cách loại bỏ các yếu tố mê tín, huyền bí của Đạo giáo và Phật giáo, vốn từng được đưa vào Nho giáo trong và sau đời nhà Hán. (ND)

Advertisement

5. Sĩ quan hải quân người Mỹ. (ND)

6. Cho đến năm 1854, khi Hiệp ước Perry đầu tiên có hiệu lực, triều đại Tokugawa ở Nhật Bản đã duy trì chính sách tránh tiếp xúc với các cường quốc phương Tây (ngoài Hà Lan) trong hơn hai thế kỷ để hạn chế tình trạng hỗn loạn do những nỗ lực cải đạo của các nhà truyền giáo Cơ đốc ở Nhật Bản. Riêng Hà Lan đã đồng ý giới hạn mối quan hệ giữa hai nước chỉ trong lĩnh vực thương mại, kết quả là Hà Lan trở thành quốc gia châu Âu duy nhất duy trì quan hệ thương mại và ngoại giao với Nhật Bản từ năm 1639 đến năm 1854.

Nguồn: https://znews.vn/giai-thoai-ve-su-xuat-hien-cua-mi-ramen-mon-an-quoc-dan-nhat-ban-post1455469.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Nóng giận là bản năng tĩnh lặng là bản lĩnh

Được phát hành

,

Bởi

Trong cuốn sách, tác giả Tống Mặc đã trò chuyện với độc giả về cách kiềm chế cơn nóng giận, học cách bao dung, kiểm soát cảm xúc của mình trước những tác động của cuộc sống.

Ai chẳng có lúc giận dữ, nóng giận là hạt mầm được gieo vào tâm ta từ lúc mới chào đời. Nhưng kìm chế cơn giận là bản lĩnh cần rèn luyện mỗi ngày.

Kim che con gian anh 1

Thái độ điềm tĩnh sẽ giúp con người dễ dàng vượt qua nghịch cảnh, đón nhận thử thách. Ảnh: P.G.

Điềm đạm là sự điềm tĩnh xuất phát từ nội tâm. Cổ nhân cho rằng: “Điềm tĩnh dưỡng thần, phật dịch ô vật.” Ý muốn nói, điềm tĩnh có thể dưỡng tâm, giúp con người không phụ thuộc vào thứ bên ngoài. Điềm tĩnh nói đến một thái độ sống “lùi”, vạn sự thuận theo tự nhiên, người giữ được tinh thần như vậy, chắc chắn có thể làm tốt việc dưỡng tâm.

Hiện giờ, ngày càng có nhiều người theo đuổi việc “dưỡng sinh”. Dưỡng sinh gồm có dưỡng tâm, dưỡng tính và dưỡng thân. Nhưng rất nhiều người chỉ quan tâm đến việc dưỡng thân, cho rằng chỉ cần chăm sóc cơ thể cho thật đẹp đẽ, khỏe mạnh, thì có thể hưởng thụ cuộc sống lâu dài. Cho nên, số người có thể kiên trì hàng ngày tập luyện thể thao, ăn uống lành mạnh thì nhiều, nhưng số người có thể kiên trì dưỡng tâm hàng ngày lại rất ít.

Advertisement

Có một bà mẹ cực kỳ chú trọng việc dưỡng sinh. Gặp ai cô ấy cũng thao thao bất tuyệt về đạo lý dưỡng sinh, về việc mỗi ngày phải ăn cái gì, ăn bao nhiêu, ăn thế nào, vận động bao lâu… Cô ấy nói hết lần này đến lần khác: Chỉ có làm như vậy, mới không bị bệnh! Nhưng mỗi lần nghe những điều này, tôi đều thấy rất lạ. Một người ngày nào cũng bận rộn chuẩn bị đồ ăn lành mạnh cho bản thân từ sáng đến tối, sợ mình ăn phải đồ ăn không tốt sẽ sinh bệnh, không thể sống thọ, ngày nào cũng lo lắng như vậy, liệu có vui vẻ được không?

Nếu như chúng ta dư ỡng sinh mà không bắt đầu từ việc dưỡng tâm dưỡng tính, trong lòng sẽ có nhiều phiền não, có nhiều ham muốn. Như vậy, “hạnh phúc” mà chúng ta được hưởng chỉ dừng ở mức ăn ngon mặc đẹp và cơ thể khỏe mạnh, đó không phải cuộc sống thăng hoa chân chính.

Đại sư Hoằng Nhất cho rằng điềm đạm là “điều đầu tiên của việc dưỡng tâm”. Điềm đạm mà ngài nói tới suy cho cùng là cần con người phải tĩnh tâm. Thế gian này bao chuyện phiền não, dễ ảnh hưởng đến tâm lý của con người.

Kim che con gian anh 2

Cuốn sách Nóng giận là bản năng, tĩnh lặng là bản lĩnh mang đến cho người đọc nhiều lời khuyên hữu ích. Ảnh: Chi.

Cho nên, nhiều người nghĩ rằng tâm mình không tĩnh là vì đang bị quá nhiều chuyện quấy nhiễu. Thật ra, ta bị quấy rầy không phải vì những chuyện phiền nhiễu trên đời, mà vì tâm không tĩnh. Khi chúng ta có thể tách khỏi tất cả sự vật bên ngoài, cho dù ở trong hoàn cảnh nào, ta cũng có thể hưởng thụ cuộc sống an nhàn thực sự.

Trong xã hội hiện thực này, rất nhiều chuyện sẽ làm cho chúng ta “dao động”.

Advertisement

Khi một người mỗi ngày kiếm được 10 đồng, chỉ đủ để ăn no, anh ta cảm thấy rất thoải mái, nhưng lại mơ mỗi ngày kiếm được 100 đồng; khi kiếm được 100 đồng mỗi ngày, anh ta lại cảm thấy mệt hơn trước rất nhiều, và không thấy hài lòng lắm, bởi vì có người mỗi ngày kiếm được 1.000 đồng.

Anh ta làm việc chăm chỉ hơn, cuối cùng cũng có thể kiếm 1.000 đồng mỗi ngày, anh ta bắt đầu mua xe, mua nhà, sống cuộc sống tốt đẹp mà anh ta từng ao ước, nhưng anh ta lại bắt đầu hướng về cuộc sống mỗi ngày kiếm được 10.000 đồng…

Chúng ta luôn rơi vào một vòng tròn kỳ lạ như vậy. Chúng ta luôn cho rằng khi đạt được điều gì mình mong đợi đã lâu, trong lòng sẽ cảm thấy yên tâm, hài lòng, từ đó có thể hạnh phúc. Nhưng sau khi đạt được điều mình muốn, ta lại có cảm giác cũng chỉ thế mà thôi. Những ham muốn lớn hơn nối tiếp nhau, mục tiêu ngày càng cao, và chúng ta càng ngày càng mệt hơn.

Do đó, một người sau khi có biệt thự, xe hơi, anh ta càng không hạnh phúc, bởi anh ta lo sợ một ngày nào đó sẽ mất đi cuộc sống như vậy, do đó đành phải dốc sức làm việc nhiều hơn, ép bản thân phải kiếm được 100.000 mỗi ngày, nếu chỉ kiếm được 80.000 thì thở dài ngao ngán.

Ngày nào cũng sống trong nỗi sợ mất đi danh lợi, gánh áp lực khủng khiếp, làm sao mà không sinh bệnh cho được? Dĩ nhiên, không phải con người không thể sống như vậy, danh lợi vốn là sự theo đuổi lớn nhất cuộc đời đối với một người bình thường.

Advertisement

Nhưng ý ở đây muốn nói, nếu như cuộc sống như vậy làm cho chúng ta cảm thấy thêm áp lực, thêm phiền muộn, không hề có cảm giác hạnh phúc, thì bạn hoàn toàn có thể suy nghĩ theo hướng khác.

Không nhất thiết phải từ bỏ những thứ như biệt thự, xe hơi, chỉ cần từ bỏ việc cố chấp gắn bó với những thứ này, dù kiếm được 1.000.000 mỗi ngày cũng không ngạo mạn, mà mỗi ngày kiếm được 10 đồng cũng không chán chường, muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, không cần gượng ép bản thân, bạn có thể cảm nhận được sự hạnh phúc ngay lập tức.

Người có nội tâm điềm đạm là người ngay cả khi mặc một chiếc áo vải, ăn một bữa cơm đạm bạc, vẫn có thể an nhàn thoải mái, không có chút cảm giác khó chịu hay không vui nào. Cho dù đối mặt với phiền não và sinh tử, họ cũng có thể thản nhiên đối diện, trong lòng không một chút gợn sóng đau khổ, không cần ăn ngon mặc đẹp vẫn cảm thấy yên bình và hạnh phúc.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/kim-che-con-gian-la-ban-linh-can-co-cua-nguoi-truong-thanh-post1455101.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tuổi ấy mình yêu

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn tản văn “Tuổi ấy mình yêu” ghi lại nhiều ký ức về Hà Nội của thế hệ 6X, 7X. Khi ấy thành phố tuy còn nhiều gian khó nhưng đầy lãng mạn với những biệt thự cổ rêu phong, cùng những thanh niên tha thiết yêu đời!

Dòng thời gian miên man đưa ta về những kỷ niệm ấu thơ không thể nào quên. Mùa hè nóng như đổ lửa, chẳng có điều hòa lẫn quạt điện, chỉ đành phe phẩy quạt nan xua đi cái nóng.

Tuoi ay minh yeu anh 1

Cảnh mấy đứa trẻ ngồi ở bể nước công cộng để mẹ tắm rửa là hình ảnh quen thuộc thời bao cấp. Ảnh: Fclikr.

Ở miền ôn đới mà nhiệt độ lên tới 40 thì không thể không coi là sự kiện. Vì thế mà ai chưa kịp trẻ lại, gầy đi, chết vì nóng thì cứ, rất nhiều người thích, tranh thủ cởi gần hết cho da có màu suy nghĩ. Cái màu này, Tây và ngay cả ta chưa từng trải đời này dăm chục năm tha hồ suy nghĩ cũng chả biết là màu gì.

[…]

Advertisement

Thành phố uể oải trong hơi nóng làm người cứ lơ mơ, thương chả ra thương nhớ chẳng ra nhớ, cứ dằng dai lừng khừng. Chẳng biết có phải dân ở những xứ nóng động cái là sùng sục hừng hực lên là vì một năm mấy mùa đã tha hồ uể oải rồi không?

Chiều qua thứ bảy, chỉ còn mấy tiếng nữa cửa hàng cửa họ đóng, đóng cửa luôn ngày chủ nhật là ngày đến Chúa cũng không làm gì (mà còn làm làm gì, sửa sai thế nào được nữa sau khi đã tạo ra con người) nhưng nắng vẫn còn chấp chới trên bờ tường, ngọn cây, mái nhà. Say nắng trưa rồi, không dám đi xa, chỉ lếch thếch ra đầu phố xem có quả dưa hấu nào nhẹ hơn một yến để tha về ăn giải nhiệt chờ mưa.

Mưa thì chưa, dưa thì không nhẹ, chẳng mua bán gì nữa, đi về. Ngang qua cái quán nhỏ đầu phố thấy bàn nào cũng có người ngồi lơ mơ. Có ông lẩn mẩn lúc quờ cốc cà phê đưa lên môi lúc sờ cây bút bi chơi đố chữ.

Có mẹ nạ dòng cháu sớm phom dáng cực kì hùng tráng vẫn chẳng ngần ngại gọi cốc kem to cho xứng người, ăn thi với cháu. Có bà già lim dim mắt xếp tà váy rồi ngồi vắt chân đầy vẻ quý phái khiêu khích kiểu Marlene Dietrich, thay vì điếu thuốc trên tay lại thấy phảy một cái quạt giấy thật là xinh.

Kỷ vật của những ngày nắng hạ Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Tuynidi gì đó đây, không biết cụ mua hay cụ trai nào tặng, mùa hạ vừa đi qua hay từ đời thăm thẳm nỗi niềm nào.

Advertisement

Bất chợt thấy mình chậm bước. Bất chợt hình dung lại, ngày xưa, cũng quạt giấy như này. Bà tóc bạc vấn lẳn trong vành khăn trắng để “trở” ai trong họ chẳng biết. Bà đứng chờ tàu điện chỗ Ô Cầu Dền. Bà luôn luôn có cái quạt trong tay phe phảy cho cháu bám quẩn bên chân.

Bà ngồi chân co chân duỗi đầu tấm phản sau này hạ xuống che cái hầm trú ẩn đào ngay dưới gậm giường rồi cúi người vuốt ngay ngắn ống quần, mở âu giầu, tỉ mẩn tiện miếng vỏ quạch, xé mảnh lá giầu không, bổ nhỏ miếng cau đã bổ sáu từ trước, quết chút vôi trắng, nhúm chút thuốc lào rồi đưa lên miệng, rồi bận bịu dọi lại vành cái quạt nan, xếp lại cái quạt giấy, lầm thầm không biết là mắng đứa cháu nào dùng đồ xong buông quăng bỏ vãi, vô ý vô tứ chẳng biết của bền tại người.

Chao ôi những buổi chiều Hà Nội hết chiến tranh, đã khó nghèo càng thêm khó nghèo vì mẹ mất, nhưng bà còn đó cho chị em mình nương dựa, bà còn đó, giữ lại cho chị em mình những gì còn có thể giữ được, là sự ngây ngô quý giá nhất của tuổi ấu thơ.

Tuoi ay minh yeu anh 2

Cuốn tản văn Tuổi ấy mình yêu của nhà văn Lê Minh Hà. Ảnh: NXB Trẻ.

Cũng cái quạt giấy này, trong bàn tay con gái những ngày cuối cùng đến lớp, giấy trang kim màu tím, nan tre, thằng bạn ngồi bên giằng lấy hỏng luôn chỗ tay cầm, những cái nan rời nhau ra, thế mà nó ra sức khoát tay quạt cho cả mình với nó. Tức mà nghĩ tới những ngày sắp xa đi, gặp lại không biết có đủ tự tin như giờ vẫn hay gây sự với nhau, nghĩ tới cái compa dở hơi nó vẫn nhường mình trong giờ hình học, thôi im vậy.

Bà già váy hoa vẫn đang lơ mơ bên cốc kem phe phẩy cái quạt giấy rõ là xinh. Uể oải thì mình đang uể oải lắm rồi, nhưng có mơ đâu, mà cảm như từ đâu xưa hơi gió từ cái quạt giấy muôn đời. Chỉ phảy nhẹ phảng phất thôi đã đủ làm xao động hơi nóng ngày tháng hạ vì cái mùi hơi thum thủm của những nan quạt vót từ tre ngâm ao bùn.

Advertisement

Ở Hà Nội giờ hay gặp các bà đi tập dưỡng sinh. Khi biểu diễn dưỡng sinh, các bà mặc cả bộ sa tanh đỏ, cứ từng lúc lại khuỵu đầu gối trong tư thế cảm tử lao về phía trước, trong tay là cái quạt hình thù như cái quạt giấy mình quen pạch một cái đồng loạt xòe ra.

Chưa tới gần nên không biết nan quạt bằng tre bằng gỗ hay bằng nhựa, nhưng cái quạt cũng màu đỏ rực, lại có tua rua, xòe ra đều còn hơn các diễn viên hội đoàn tập múa, chỉ còn thiếu hai bím tóc ngắn vểnh ngang tai và trẻ đi dăm chục tuổi là gần bằng diễn viên kinh kịch Bắc Kinh nhảy một cái, xoạc chân một cái, cao giọng á a a trên sân khấu Hà Nội một thời.

Về với Hà Nội, cứ lần nào nhìn thấy những mảnh tam giác đỏ rực ấy chói lọi trong nắng sớm cũng giật mình.

[…]

Nguồn: https://znews.vn/mua-he-da-xa-post1455038.html

Advertisement

Tiếp tục đọc

Xu hướng