Connect with us

Sách hay

Suleiman Vĩ đại

Được phát hành

,

Tác phẩm nghiên cứu sâu sắc về cuộc đời và triều đại của Sultan Suleiman I. Sách đưa người đọc đến với năm tháng đỉnh cao của đế chế khi Suleiman củng cố quyền lực của mình và mở rộng lãnh thổ Ottoman qua nhiều chiến dịch quân sự vang dội ở châu Âu, Trung Đông và Bắc Phi.

“Chủng tộc sắt đá” đã xuất hiện trong lòng châu Á từ lâu, lang thang từ Caspian đến Thái Bình Dương, vượt qua các sa mạc và thung lũng, thành lập các đế chế, tiếp nhận và từ bỏ các tôn giáo.

Các vị vua và hoàng đế này, hoặc chí ít là những vị vua châu Âu, là người kế thừa thế hệ các quân vương có truyền thống chiến đấu để duy trì hoặc thường hơn là mở rộng lãnh thổ của họ. Các vua chúa Trung Đông, những người đến sau tương đối muộn, những người vốn được định sẵn như Suleiman là sẽ giành được quyền lực và vinh quang vô song, đã bất ngờ xuất hiện trên chiến trường trong lúc họ đang nghiền nát và chinh phục các phần lãnh thổ của Đế quốc Đông La Mã.

Ngày nay, chúng ta khó lòng mà hình dung ra cú sốc khi người Thổ đặt chân đến các cửa ngõ châu Âu, hay nỗi sợ hãi mà họ tiếp tục gây ra cho đến thế kỷ XVIII và các thời kỳ sau đó nữa, trong một cộng đồng dân chúng luôn coi họ là những kẻ man rợ tàn bạo.

Vi dai anh 1
Tranh vẽ mô tả cuộc chiến giữa đế chế Seljuk với đế chế Byzantine.

Trong gần mười thế kỷ, người Thổ, “một trong những chủng tộc thiện chiến của thế giới cổ đại,” đã gây chiến trên các thảo nguyên Thượng Á. Những người Thổ đầu tiên, Tabghach (To-Pa trong tiếng Trung Quốc), từ dãy núi Altay và lưu vực Orkhon và Selenge đã chiếm đóng miền Bắc Trung Quốc vào thế kỷ thứ V và sau đó hòa nhập vào dân bản địa.

Một trăm năm sau, những người Thổ khác đã chinh phục Mông Cổ trước tiên, rồi tới Turkestan. Những vị chủ nhân của một đế chế rộng lớn trải dài từ Hàn Quốc đến Iran sử dụng bảng chữ cái Sogdian, tiền thân của chữ rune. Đế chế này biến mất khi người thành lập Bumin qua đời vào năm 552. Sau đó, lãnh thổ bị chia làm hai:

Con trai của Bumin là Muhan cai trị Vùng Biên giới phía Đông của người Tiên Sơn ở Mông Cổ; và con trai thứ hai của hoàng đế là Istami cai trị Vùng biên giới phía Tây trên thảo nguyên Siberia và Transoxania.

Những dòng chữ ở Orkhon được khắc vào khoảng năm 730 có ghi lại ký ức về cuộc phiêu lưu vĩ đại bằng lời thơ hùng tráng: “Hỡi các thủ lĩnh người Thổ! Ôi Oguz! Hỡi thần dân, hãy lắng nghe! Chừng nào bầu trời chưa sụp đổ và trái đất chưa tách rời, thì ai mà có thể đánh đổ các thể chế của đất nước các bạn, hỡi người dân Thổ?…

Ta không trở thành Vua của một dân tộc giàu có mà là Vua của một dân tộc đói khát, trần trụi và khốn khổ. Bọn ta đồng lòng, em trai ta, Vương công Koltegin, và ta sẽ không để vinh quang và danh tiếng mà cha chú bọn ta đã giành được cho dân tộc ta bị hủy hoại.

Vì tình yêu của người dân xứ Thổ mà đêm ngày ta không thể yên lòng… và bây giờ em trai Koltegin của ta đã chết. Tâm hồn ta giờ đây đầy thống khổ, đôi mắt ta như mù lòa, tâm trí ta tê liệt. Tâm hồn ta đang day dứt… Tổ tiên ta đã chinh phục và bình định được nhiều dân tộc ở mọi ngóc ngách trên thế giới, khiến họ phải cúi đầu và quỳ gối trước mình. Từ vùng núi Khinghan đến Cổng Sắt, sức mạnh của liên minh người Thổ Ottoman di cư ngày càng lớn…”

Rồi đế chế này cũng sụp đổ vào năm 740. Trong khi đó, nhóm người Toukiue phương Tây đầu tiên đã bị người Uighur (Duy Ngô Nhĩ) thay thế trong một thế kỷ.

Đế quốc Uighur vay mượn các loại hình nghệ thuật và tôn giáo Manichaeism (Ma ni giáo) từ bên ngoài Iran (các ốc đảo Turfan và Beshbalik ở Iran) và ngày càng trở nên văn minh hơn. Sau đó, nó bị người Kirghiz vượt mặt và rồi biến mất, chỉ để tái sinh thành một quốc gia Phật giáo ở Turkestan thuộc Trung Quốc. Ở phương Tây, các bộ lạc người Thổ chuyển sang đạo Hồi. Chính từ đây mà thế giới không ngừng chiến tranh và không ngừng thay đổi; triều đại Ghaznavid, Ghourid và Seljuk cũng sớm nổi lên.

“Chủng tộc sắt đá” đã xuất hiện trong lòng châu Á từ lâu, lang thang từ Caspian đến Thái Bình Dương, vượt qua các sa mạc và thung lũng, thành lập các đế chế, tiếp nhận và từ bỏ các tôn giáo. Giờ đây, trên thảo nguyên khắc nghiệt của Tiểu Á, họ đã tìm thấy một đất nước có khí hậu giống Trung Á và chấm dứt cuộc hành trình lang thang của mình. Đế quốc Seljuk được thành lập, với các thủ lĩnh vĩ đại (Alp Arslan, Melikshah) và các nhà cầm quyền tài ba (Nizam al-Mulk), sau đó tan rã thành các công quốc đối địch. Cuối cùng vào đầu thế kỷ XIII, Osmanli hay Ottoman mới xuất hiện.

Nguồn: https://znews.vn/mot-chung-toc-sat-da-post1530774.html

Tiếp tục đọc
Nhấn vào đây để bình luận

You must be logged in to post a comment Login

Leave a Reply

Sách hay

Cuốn sách ‘năm lần, bảy lượt’ không thể chuyển thể thành phim

Được phát hành

,

Bởi

“A Confederacy of Dunces” của John Kennedy Toole là tác phẩm châm biếm đoạt giải Pulitzer được Hollywood chú ý và muốn chuyển thể thành phim nhiều lần nhưng không thành công.

“A Confederacy of Dunces” thường được ca ngợi là một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất của Mỹ và ảnh hưởng tới nhiều tiểu thuyết hiện đại. Ảnh: Pbs.

Một số cuốn sách được định sẵn sẽ thu hút độc giả qua nhiều thế hệ, nhưng khi được đưa lên màn ảnh, chúng lại không thể tạo ra được điều kỳ diệu tương tự.

Một ví dụ như vậy là A Confederacy of Dunces (tạm dịch là Liên minh những kẻ ngu đần) của tác giả John Kennedy Toole. Cuốn tiểu thuyết đoạt giải Pulitzer này là tác phẩm đã tồn tại trong nhiều thập kỷ được độc giả yêu mến. Mặc dù vậy, những nỗ lực chuyển thể cuốn sách của Hollywood gặp thất bại liên tiếp, biến quá trình này thành một câu chuyện cảnh báo trong ngành giải trí.

A Confederacy of Dunces có gì?

Được xuất bản vào năm 1980, A Confederacy of Dunces là tác phẩm nổi tiếng sau khi tác giả John Kennedy Toole qua đời. Chiến thắng này là nhờ nỗ lực của mẹ ông không ngừng ủng hộ cuốn sách sau cái chết bi thảm của con trai vào năm 1969.

Lấy bối cảnh ở New Orleans, cuốn tiểu thuyết kể về Ignatius J. Reilly, một nhân vật lập dị, vĩ đại, người có thái độ khinh thường đối với xã hội hiện đại và những cuộc phiêu lưu kỳ lạ tạo nên một bức tranh phong phú về sự châm biếm, trí tuệ và lòng nhân đạo.

Những cuộc phiêu lưu hỗn loạn của Ignatius, khi anh ta điều hướng môi trường xung quanh mình bằng cả sự phi lý và trí tuệ, đã gây ấn tượng với độc giả. Cuốn sách đã giành được Giải thưởng Pulitzer cho Tiểu thuyết năm 1981 và kể từ đó trở thành một tác phẩm được yêu thích.

Sự hài hước sắc sảo, lời chỉ trích xã hội và những nhân vật khó quên khiến nó trở thành một cuốn sách khó có thể sao chép.

Sach chuyen the phim anh 1

A Confederacy of Dunces nổi tiếng và giành giải Pulitzer nhiều năm sau khi tác giả John Kennedy Toole qua đời. Ảnh: Americanmagazine.

Những nỗ lực thất bại của Hollywood

Con đường chuyển thể A Confederacy of Dunces trải qua rất nhiều chông gai. Trong nhiều năm, các đạo diễn, nhà sản xuất và diễn viên đã cố gắng đưa Ignatius J. Reilly vào cuộc sống, nhưng dự án này đã gặp phải vận rủi và bất đồng sáng tạo ở mọi ngã rẽ.

Một trong những nỗ lực đầu tiên vào những năm 1980 liên quan đến huyền thoại hài kịch John Belushi, người có tính cách dường như được thiết kế riêng cho vai diễn Ignatius. Thật không may, cái chết không đúng lúc của Belushi đã kết thúc tham vọng chuyển thể bộ phim trước khi nó có thể bắt đầu.

Sau đó, những cái tên như John Candy, Chris Farley và Will Ferrell đều là những lựa chọn tiềm năng cho vai chính. Các đạo diễn như Harold Ramis và Steven Soderbergh đều quan tâm đến dự án. Tuy nhiên, những bất đồng sáng tạo, vấn đề với kịch bản và thậm chí là các cuộc chiến pháp lý đã liên tục làm trì hoãn quá trình phát triển của bộ phim.

Vào những năm 2000, một nỗ lực đặc biệt đầy tham vọng đã được khởi xướng với Steven Soderbergh và David Gordon Green chỉ đạo, với sự tham gia của Will Ferrell trong vai Ignatius, Mos Def và Drew Barrymore trong các vai phụ. Tuy nhiên, quá trình sản xuất lại một lần nữa đổ vỡ do các vấn đề về tài chính và bất đồng về kịch bản.

Cho đến nay, không có phiên bản nào của bộ phim vượt qua được giai đoạn tiền sản xuất.

Tại sao lại khó thích nghi đến vậy?

Một phần khiến A Confederacy of Dunces được yêu thích đến vậy là sự phức tạp của nó. Ignatius J. Reilly là một nhân vật không giống bất kỳ ai khác – hào nhoáng, đáng giận và kỳ lạ là đáng thông cảm. Tính cách huênh hoang và những trò hề kỳ lạ của anh ta gắn liền sâu sắc với bức tranh văn hóa phong phú của New Orleans, gần như là một nhân vật chỉ có ở trong sách.

Việc chuyển tải sự cân bằng phức tạp giữa châm biếm, chiều sâu nhân vật và bối cảnh thành một bộ phim dài 2 giờ là một thách thức to lớn. Hơn nữa, sự hài hước của cuốn sách rất trí tuệ và tinh tế, với phần lớn sự quyến rũ của nó đến từ những độc thoại nội tâm và logic kỳ lạ của Ignatius.

Việc nắm bắt được sự hài hước đó trên màn ảnh mà không làm loãng bản chất được xem là rất khó nắm bắt đối với các nhà làm phim. Như nhà sản xuất Scott Kramer, một trong nhiều người gắn bó với dự án, đã từng nói: “Ignatius vừa là nhân vật thông minh nhất vừa là nhân vật kỳ cục nhất. Việc có được tông điệu phù hợp là điều gần như không thể”.

Sach chuyen the phim anh 2

Bức tượng của nhân vật Ignatius J. Reilly được xem là bản sắc văn hóa của thành phố New Orleans. Ảnh: Atlasobscura.

Tác động văn hóa của cuốn sách

A Confederacy of Dunces thường được ca ngợi là một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất của Mỹ và ảnh hưởng của nó có thể được nhìn thấy trong nhiều tác phẩm tiểu thuyết hiện đại. Độc giả xem lại hành trình của Ignatius như lời nhắc nhở về sự phi lý của cuộc sống và tầm quan trọng của việc tìm thấy yếu tố hài hước trong hỗn loạn.

Ở New Orleans, cuốn sách đã trở thành một phần không thể thiếu trong bản sắc văn hóa của thành phố. Một bức tượng của Ignatius J. Reilly được dựng trong thành phố, kỷ niệm bối cảnh của cuốn tiểu thuyết và tác động lâu dài của nó. Người hâm mộ từ khắp nơi trên thế giới đến thăm địa điểm này để tỏ lòng tôn kính với thiên tài của Toole.

Một cuốn sách không nên chuyển thể thì tốt hơn?

Có lẽ A Confederacy of Dunces là một trong số ít những cuốn sách tốt hơn là không nên chuyển thể. Sự xuất sắc của nó nằm ở cách Toole kể câu chuyện cụ thể, và bất kỳ nỗ lực nào để diễn giải lại nó cho một phương tiện truyền thông khác đều có nguy cơ mất đi giọng văn độc đáo đó.

Trong khi Hollywood thích khai thác văn học để tạo ra những bộ phim bom tấn, một số câu chuyện được đánh giá cao nhất ở dạng gốc của chúng.

Đối với những người hâm mộ cuốn sách, nỗ lực chuyển thể không thành công gần như là một huy hiệu danh dự. Chúng là minh chứng cho thực tế một số tác phẩm nghệ thuật quá độc đáo đến mức không thể sao chép.

Và có lẽ đó là di sản thực sự của A Confederacy of Dunces: một kiệt tác kiên cường đến mức chỉ có thể tồn tại trên trang giấy.

Nguồn: https://znews.vn/cuon-sach-nam-lan-bay-luot-khong-the-chuyen-the-thanh-phim-post1530369.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Ngôn ngữ là phát minh vĩ đại nhất của loài người

Được phát hành

,

Bởi

Ngôn ngữ là đặc điểm nổi bật nhất của loài người, định hình cách chúng ta tư duy hay rộng lớn hơn là định hình xã hội, văn hóa.

Ngôn ngữ là đặc điểm nổi bật nhất của loài người, định hình cách chúng ta tư duy hay rộng lớn hơn là định hình xã hội, văn hóa.

Ngôn ngữ là phát minh vĩ đại nhất của loài người

Ngôn ngữ là đặc điểm nổi bật nhất của loài người, định hình cách chúng ta tư duy hay rộng lớn hơn là định hình xã hội, văn hóa.

Audiobook

Nguồn: https://znews.vn/ngon-ngu-la-phat-minh-vi-dai-nhat-cua-loai-nguoi-post1531055.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Sài Gòn đi qua ký ức

Được phát hành

,

Bởi

Chắt lọc 30 tản văn hay của nhà văn, nhà báo Lê Văn Nghĩa, sách bao quát các chủ đề: Di tích lịch sử – Văn hóa – Ẩm thực – Nghệ thuật, ghép nối thành thước phim tài liệu sống động trải dài từ đất Sài Gòn hơn nửa thế kỷ trước cho đến Thành phố Hồ Chí Minh của hiện tại.

Đi đâu cũng nghe, cũng thấy bước chân những người mở cõi, nhưng ngoài tên đường Lũy Bán Bích, đâu rồi những tấm bia ghi dấu vết kỷ niệm của các địa danh lịch sử, danh nhân từ thời lập đất Sài Côn – Đề Ngạn?

Chiều mưa lại đi ngang con đường Lũy Bán Bích quận Tân Bình. Nhìn bảng tên một con đường hiếm hoi mang tên một lũy thành ngày xưa, chợt nhớ đến vùng đất Sài Gòn với những bước chân mở cõi của các bậc tôi thần nhà Nguyễn – vâng mệnh Chúa – tìm đường hướng về phương Nam.

Lũy Bán Bích (lũy Nguyễn Cửu Đàm) đắp năm 1772 trên cơ sở của lũy Lão Cầm, huyện Tân Bình (1772), chạy dài từ chùa Cây Mai, vòng qua đồng Tập Trận, tới rạch Nhiêu Lộc thì theo đường sông xuống rạch Thị Nghè rồi chấm dứt nơi cầu Bông.

Cầu này có tên là cầu Hoa (hay cầu Cao Mên) nhưng trùng tên với một người vợ của vua Minh Mạng nên cải thành cầu Bông. “Cây cầu Cao Mên, thấy làm nguyên cột vắp ván trai” (Cổ Gia Định phong cảnh vịnh). Từ những cái tên, những phế tích còn sót lại sau nhiều cuộc bể dâu ẩn chứa từng quặng tầng lịch sử của đất phương Nam khởi nguồn từ Sài Côn – Prey Nokor.

Trước hết, vùng đất Sài Gòn xưa mang ơn vị quan nhà Nguyễn đã đến và xây dựng vùng đất này: Thống suất thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh – Năm 1698, “lấy đất Nông Nại đặt làm Phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn lập Phủ Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn”. Nhà Bè nước chảy chia hai / Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.

Sai Gon anh 1
Ảnh minh họa. Nguồn: Freepik.

Trước đây, vùng đất này đã có người Việt định cư từ cuối thế kỷ XVI nhưng phải đợi đến chúa Nguyễn định danh thì vùng đất này mới là của người Việt. Sau khi dựng dinh Phiên Trấn, chúa Nguyễn còn cho phép quan chức tại Phủ Gia Định được quyền chiêu dụ người Việt đang lưu trú tại Lục Chân Lạp về định cư sẽ được miễn thuế ba năm… Bước chân của Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược là bước ngoặt quan trọng đối với vùng Sài Gòn và toàn cõi Nam Bộ.

Dạo bước ngang con đường nhỏ Nam Quốc Cang nhớ ngày xưa đã có một ngôi chợ được gọi theo tên của Dinh Điều Khiển (góc Nguyễn Trãi – Phạm Ngũ Lão). Đường Lê Thánh Tôn, trước Bảo tàng Cách mạng, trong công viên Bách Tùng Diệp ta thấy một cây đa to rũ nhánh – dấu vết một ngôi chợ nổi tiếng mang tên Cây Da Còm ngày cũ. Cây da thằng mọi, coi bán đủ thuốc xiêm, cau mít (Cổ Gia Định phong cảnh vịnh).

Đình Tân Kiểng (Chợ Quán) còn đó nhưng chợ Tân Kiểng chỉ còn lại cái tên. Chợ Phố Sài Gòn, do Trần Thắng Tài (Trần Thượng Xuyên) thành lập trong khoảng những năm 1679-1731 bây giờ là khu vực ngay tòa nhà Bưu Điện quận 5. Đi ngang Hòa Hưng làm sao không nhớ đến Gia Định xử sĩ Sùng Đức Võ Trường Toản, thầy của Gia Định tam gia Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh.

Các công thần nhà Nguyễn đã xây dựng cũng như đã hy sinh cùng nhân dân bảo vệ Sài Gòn – Gia Định trước cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp. Đại đồn Chí Hòa với tên tuổi của Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Duy, Trương Công Định luôn làm con cháu đất Sài Gòn hãnh diện về tiết tháo của người xưa.

Đi về miệt Gia Định, nhìn thấy cổng Lăng Ông sao lại không cảm khái nhớ đến Quan lớn Thượng Lê Văn Duyệt – người làm Tổng trấn Gia Định Thành trước sau hai thời kỳ – một Tổng trấn lâu năm nhất, được nhân dân nhớ ơn nhiều nhất vì tinh thần “chí công vô tư”, đặt phép nước cao hơn lệnh vua, biết “mở cửa” giao thương, tận dụng sức làm kinh tế của thương nhân…

Theo dòng lịch sử Nam tiến của dân tộc Việt bắt đầu từ khi chúa Nguyễn lập Phủ Gia Định, phủ Gia Định / Nhà đủ người no chốn chốn / Xứ Sài Gòn, xứ Sài Gòn / Ăn ở vui thú nơi nơi (Cổ Gia Định phong cảnh vịnh). Năm 1708 Mạc Cửu dâng Hà Tiên cho chúa Nguyễn. Năm 1755, Quốc vương Chân Lạp nhượng đất Tầm Bôn và Lôi Lạp cho Võ Vương. Đất Ba Thắc (Sóc Trăng – Bạc Liêu), Trà Vang (Trà Vinh, Bến Tre) sáp nhập vào phần giang sơn chúa Nguyễn từ năm 1757.

Mạc Thiên Tích mất năm 1780 không con nối dõi nên chúa Nguyễn đã thu phục Hà Tiên. Từ đây việc mở mang bờ cõi kéo dài trên 800 năm (từ năm 939) của Việt Nam với hình dạng như ngày nay đã hoàn thành. Dù trải qua nhiều phong ba bão táp của chiến tranh nhưng người miền Nam cũng như người Sài Gòn vẫn luôn nhớ ơn tiên hiền mở cõi đã giữ vững và xây dựng đất phương Nam theo ước vọng người xưa…

Đi đâu cũng nghe, cũng thấy bước chân những người mở cõi, nhưng ngoài tên đường Lũy Bán Bích, đâu rồi những tấm bia ghi dấu vết kỷ niệm của các địa danh lịch sử, danh nhân từ thời lập đất Sài Côn – Đề Ngạn? Ta có quyền quên chăng?

Nguồn: https://znews.vn/sai-gon-buoc-chan-mo-coi-post1530739.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng