Connect with us

Sách hay

Sức cuốn hút kỳ thú của tiếng Việt

Được phát hành

,

Nhà thơ, nhà báo Lê Minh Quốc vừa cho ra mắt bộ sách Văn hóa Việt nhìn từ tiếng Việt (NXB Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh) mà anh gọi là kết quả của ‘một lối tự học’. Dịp này, tác giả dành cho Tuổi Trẻ một cuộc trao đổi thú vị.

Sức cuốn hút kỳ thú của tiếng Việt - Ảnh 1.

Bộ sách gồm ba tập, mỗi tập có nhan đề riêng, không đánh số thứ tự – Ảnh: TRẦN THANH

Người Việt có thể chơi chữ với bất kỳ “mẫu tự” nào

* Bộ sách khá dày. Gồm ba tập. Mỗi tập trên dưới 80.000 chữ! Thế mà anh lại còn… “dọa” mọi người trong Lời nói đầu: “Có điều đây vẫn là bộ sách chưa kết thúc. Vẫn tiếp tục. Vẫn còn viết. Viết thêm nữa”!

– Ngay từ thời đi bộ đội rồi mãi đến nay, khi đi đến chỗ đông người, bao giờ trong túi áo tôi cũng có cuốn sổ nhỏ và cây bút. 

Đó là thói quen đặng kịp thời ghi lại từ mới, cách nói mới mà mình nhặt nhạnh lúc tình cờ nghe được. 

Sau này, khi báo Tuổi Trẻ Cười chọn tôi đứng chuyên mục “Lắt léo chữ nghĩa” (năm 2015), tôi bắt đầu chính thức đem vốn từ đó sử dụng dần. Như thế vẫn chưa đủ. Phải kể đến các nguồn từ điển, tự vị xưa nay mà tôi đã nhọc công sưu tập. 

Như thế vẫn chưa đủ. Thỉnh thoảng, tôi còn vào các trang mạng xã hội, tìm xem hiện nay có từ gì mới được sử dụng để học hỏi thêm. Kể cả đọc lại tác phẩm văn học trước đây, để xem thời đó các nhà văn đã sử dụng những từ gì mà nay ít ai còn nhớ đến.

Có thể nói, với tôi, đây là một quá trình tự học, dần dà tôi càng bị cuốn hút theo sự kỳ thú của tiếng Việt.

* Vừa là nhà thơ, nhà báo vừa làm công việc biên khảo, anh không chỉ đọc mà còn có hơn 40 năm viết lách nữa. Điều gì khiến anh tâm đắc nhất khi đi cùng năm tháng với sự cuốn hút đó?

– Qua việc tự học này, với tôi bất kỳ từ nào mà mình tìm hiểu và giải thích được cũng lấy làm tâm đắc. 

Thí dụ, tôi đã học được hàng trăm từ qua các câu cửa miệng như “Làm trai chớ hề bầu chủ, làm gái chớ làm mụ dầu”, “Con mày không bằng con bòi”, “Mép thợ ngôi”… 

Hoặc câu thơ của Nguyễn Bính: “Mặt hồ vừa đúc khối tiền sen/ Bươm bướm đông như đám rước đèn”… 

Thế thì, những “mụ dầu” đó, “con mày” đó, “thợ ngôi” đó, “tiền sen” đó… nghĩa là gì? Hàng loạt câu hỏi tương tự được đặt ra và sẽ được giải thích trong bộ sách này. Tôi tin rằng khi đọc, bạn đọc sẽ cực kỳ thú vị.

* Rất nhiều sách bàn về tiếng Việt không dễ đọc chút nào. Ngay như tựa đề của từng tập sách cũng khiến bạn đọc đôi chút… hoang mang.

– Tôi chọn cách viết theo lối “gặp đâu xâu đó, chữ nọ xọ chữ kia, chuyện kia tăm tia chuyện nớ”, như một cách trò chuyện thân tình, trao đổi thân mật, học hỏi lẫn nhau, không ngoài mục đích lôi cuốn người đọc. 

Khi đặt tên sách theo lối không “đụng hàng”, ngụ ý chia sẻ rằng người Việt có thể chơi chữ với bất kỳ “mẫu tự” nào. Há chẳng phải là một phần của lối lắt léo trìu mến, cái cắc cớ thân thương của tiếng Việt đấy sao?

Không cớ gì khi bàn về tiếng Việt, người Việt lại gây khó cho nhau, khiến người đọc cảm thấy khô khan, thậm chí khó hiểu và không hào hứng góp thêm câu chuyện cho rôm rả?

Do vậy trong bộ sách này, chẳng có tập nào sau, tập nào trước; chẳng có bài nào trước, bài nào sau. Các bài đều hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Khó có thể phân biệt một cách chi li, cụ thể. Toàn bộ các bài viết, tôi chọn theo lối thể hiện “lan man” như thế.

Sức cuốn hút kỳ thú của tiếng Việt - Ảnh 2.

Nhà thơ, nhà báo Lê Minh Quốc

Lời ăn tiếng nói của người Việt tinh tế, khéo léo và gợi cảm; phong phú, đa dạng và không “đóng khung” trong một “công thức” máy móc, cố định nào cả.

Mong nhiều người tìm về hồn tiếng Việt

* Bàn về văn hóa là một công việc không hề đơn giản. Vì văn hóa vốn phức tạp, đa diện, nhiều tầng… Có người so sánh với công việc của người khai thác quặng mỏ. Vậy đâu là phần đào quặng (sưu tập, thống kê…), đâu là phần sàng lọc (phân loại, hệ thống hóa…) và đâu là phần tinh luyện (phát hiện, khái quát hóa những vấn đề có tính quy luật) của tác giả trong công trình này?

– Từ bộ sách này và những gì đang tiếp tục viết, tôi bước đầu nhận ra rằng:

1. Cùng một sự vật/sự việc nhưng người Việt mỗi thời có cách nói, cách diễn đạt và dùng từ khác nhau. Có nhiều từ dần dần đi vào lãng quên, có còn chăng là ở ca dao, tục ngữ, thành ngữ. Thí dụ, thành ngữ “Bẻ no mà đếm”, ta hiểu thế nào cho đúng? “No” từ thời Alexandre de Rhodes (1651) đến thời Việt Nam tự điển (Khai Trí Tiến Đức, 1931) và hiện nay đã khác nhau xa lắm.

2. Sự thay đổi này khiến ta gặp lại cũng từ ngữ đó nhưng nay mỗi người hiểu mỗi phách; hoặc do không hiểu nên người đương thời đã thay bằng từ khác, dẫn đến “dị bản” là lẽ tất nhiên. Thí dụ, “Vênh váo như bố vợ cậu ấm” hay “Vênh váo như bố vợ phải đấm”; “Làm cách sạch ruột” hay “Làm khách sạch ruột”?…

3. Thành ngữ, tục ngữ ra đời gắn với phong tục, tập quán, nghi lễ, quy chế nhà nước… Và khi các hoạt động đó không còn nữa thì tự thân những câu cửa miệng đó cũng đi vào quên lãng. Vậy, khi ta tìm về chúng, chính là lúc ta tìm về và hiểu được nét văn hóa của một thời đã qua.

4. Từ lời ăn tiếng nói thể hiện qua câu cửa miệng, ta dễ dàng nhận ra tính chất “nước đôi” của người Việt. Cách nói nước đôi này, ông cha ta từng bảo: “Làm trai cứ nước hai mà nói”. Nhìn rộng ra là cả nghệ thuật trong giữ nước và dựng nước đấy chứ? Hiểu như thế, vì tôi luôn nghĩ câu cửa miệng có tính khái quát ở mức độ cao, chứ không bó gọn trong một sự việc cụ thể. 

Sức sống của nó chính là ở đó. Cách nói này, theo tôi, người Việt mình còn sử dụng cực kỳ hiểm/hiểm hóc trong nghệ thuật phê phán, châm biếm. Chính vì thế, tìm về tiếng cười của người Việt, ta sẽ thấy thiên hình vạn trạng, đa thanh đa sắc, biến hóa khôn lường…

Cũng xin thưa, một vài “gạch đầu dòng” này, có thể nhiều người cho rằng chẳng có gì là “mới mẻ”, là “phát hiện”. Nhưng với tôi là những gì rút ra từ cả quá trình tự học, nay chia sẻ lại, chứ không có gì khác.

* Trở lại câu chuyện, vì sao anh nói: “Đây là bộ sách vẫn chưa kết thúc”?

– Tôi luôn nghĩ rằng công việc của mình không hề đơn độc, vì rằng một khi bàn về tiếng Việt, đó cũng là mối quan tâm của nhiều người. Điều mong mỏi nhất mà tôi luôn nghĩ đến là ngày sẽ có thêm nhiều người cũng làm công việc như mình.

Tất nhiên, ngoài vốn sống, chúng ta còn có thể nhờ cậy đến các bậc thầy đã đi trước chính là các nguồn tài liệu và nhất là một tình yêu vô bờ bến dành cho tiếng Việt. Tình yêu này, chính động lực để ta có thể – nói như nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo là tìm về “linh hồn tiếng Việt” của chúng ta!

Vị trí thượng thừa của chữ “ăn”

* Bộ sách góp “vốn liếng” gì cho bạn đọc qua từng trang sách theo anh?

– Nếu đọc kỹ, ta sẽ thấy nội dung sách xoay quanh một chữ “ăn”: Dích dắc dập dìu dư dí dỏm – bàn về ăn học, ăn ở; Chơi chữ chanh chua chan chát chữ – bàn về ăn uống, ăn chơi; Lưỡi lươn lẹo lẹ làng lắt léo – bàn về ăn nói, cười chơi. Tất nhiên sự phân chia này, chỉ có tính cách tương đối, không thể tách bạch rạch ròi.

Theo những gì đã khảo sát, tôi mạo muội nghĩ: “Ăn” là một từ có vị trí độc đáo, đặc biệt, “thượng thừa”, “cao thủ” trong trùng trùng điệp điệp vốn từ tiếng Việt xưa nay, nó đã chi phối, quán xuyến sinh hoạt, thậm chí tính cách của dân tộc ta.

* Đó là lý do của vấn đề “văn hóa nhìn từ tiếng Việt”?

– Ý tôi là, khi đọc bộ sách Văn hóa Việt, nhìn từ tiếng Việt, bạn đọc sẽ tham khảo thêm ít nhiều những câu chuyện lịch sử, xã hội, văn học, chính trị… liên quan đến từ ngữ nào đó.

Điều này có lợi ở chỗ, ta thấy rằng một từ đã xuất hiện không chỉ là một “xác chữ”, nó còn gắn bó với đời sống sinh hoạt một thời/nhiều thời của cư dân vùng miền đó. Nếu không biết thấu đáo, ta sẽ không cảm nhận hết “phần hồn” của từ đó.

Nguồn: https://tuoitre.vn/suc-cuon-hut-ky-thu-cua-tieng-viet-20211211221153688.htm

Sách hay

Con người hiện đại có thể học được gì từ Quỷ Cốc Tử

Được phát hành

,

Bởi

Trong thế giới hiện đại, “Quỷ Cốc Tử mưu lược toàn thư” không chỉ là một di sản văn hóa mà còn là “Trí tuệ kỳ thư” mang tính ứng dụng cao.

Trong thế giới hiện đại, “Quỷ Cốc Tử mưu lược toàn thư” không chỉ là một di sản văn hóa mà còn là “Trí tuệ kỳ thư” mang tính ứng dụng cao.

Con người hiện đại có thể học được gì từ Quỷ Cốc Tử

Trong thế giới hiện đại, “Quỷ Cốc Tử mưu lược toàn thư” không chỉ là một di sản văn hóa mà còn là “Trí tuệ kỳ thư” mang tính ứng dụng cao.

Audiobook

Nguồn: https://znews.vn/con-nguoi-hien-dai-co-the-hoc-duoc-gi-tu-quy-coc-tu-post1512001.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Dám nghi, dám nghĩ, dám nghỉ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách này ghi chép những câu chuyện nhỏ về cuộc sống của tác giả quanh vấn đề Dám Nghi – Dám Nghĩ – Dám Nghỉ ở ba nơi: Mekong – Sài Gòn – San Francisco.

Thấy trên bảng có hai bài toán thống kê, chàng sinh viên nghĩ rằng chúng là bài tập về nhà. Vài ngày sau, anh nộp bài cho giáo sư với lời giải thích “bài tập lần này hơi khó hơn bình thường” nên anh nộp trễ.

Truyền thông nói gì về giới hạn?

Họ nhắc đến những trải nghiệm thương đau như là nấu hỏng, chi phí tốn kém, hay phải lau dọn bếp khá là mệt đằng sau. Kiểu là như vậy đấy.

Tôi bảo với cô nhà báo rằng, tôi sẽ ái ngại nếu những người thân quen quanh tôi, người mà biết hết mọi nốt thăng, nốt trầm, nốt lỗi trong đời tôi đọc bài báo này. Tôi hỏi cô có cách nào chỉnh sửa được không. Cô cười giải thích với tôi rằng, chúng ta nên nghĩ ở góc độ người đọc.

Người đọc báo mạng cần thông tin chính xác (tức không đưa thông tin sai), nhưng súc tích ngắn gọn và họ sẽ tiếp tục đọc thêm nhiều bài khác. Người đọc báo mạng không cần tôi giải thích mọi ngóc ngách ưu khuyết về cuộc đời tôi, tôi đâu phải là nhân vật của công chúng. Cô nhà báo gợi ý tôi xem bản nháp có chỗ nào chưa đúng thì sửa chữa, chứ chưa đủ thì rất khó để viết thành đủ.

Gioi han anh 1
Ảnh minh hoạ. Nguồn: BBC.

Bên cạnh nhu cầu đọc nhanh của độc giả, việc thuyết phục tòa soạn cho nhiều “đất” để viết dài là một vấn đề khác. Tôi tuy vẫn ái ngại, nhưng thấy cô nói có lý. Tri thức của độc giả đến từ việc họ đọc đa dạng nội dung, và đọc nhiều mỗi ngày. Nếu tôi có duyên được đóng góp một bài đúng-tuy-chưa-đủ thì cũng là một vinh dự rồi. Vậy thôi tôi đồng ý cho đăng.

Nhân nói chuyện về báo, tôi muốn chia sẻ một bài báo tôi đọc gần đây. Năm 1939, tại giảng đường Đại học UC Berkeley, một sinh viên tiến sĩ tên là George Dantzig đến lớp trễ. Thấy trên bảng có hai bài toán thống kê, chàng sinh viên nghĩ rằng chúng là bài tập về nhà. Vài ngày sau, anh nộp bài cho giáo sư với lời giải thích “bài tập lần này hơi khó hơn bình thường” nên anh nộp trễ.

Ông giáo sư giật mình, không phải vì chàng sinh viên nộp bài trễ mà vì anh đã… nộp bài. Bài toán viết trên bảng hôm ấy không phải là bài tập về nhà. Chúng là hai bài toán thống kê nổi tiếng nhân loại chưa có đáp án. Ông giáo sư viết trên bảng cho lớp biết, và anh sinh viên George Dantzig đã… giải ra.

Nguồn: https://znews.vn/chang-sinh-vien-nham-de-toan-noi-tieng-nhan-loai-voi-bai-tap-ve-nha-post1511859.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1
Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2
Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng