Connect with us

Sách hay

Sự trỗi dậy và suy tàn của Đế chế thứ ba

Được phát hành

,

William L.Shirer đã có cơ hội được quan sát, tường thuật cuộc sống của Đức Quốc xã từ năm 1925 khi làm một phóng viên tác nghiệp ở đây. Sau chiến tranh, ông tham dự các phiên tòa xử tội phạm chiến tranh. Ông đã bỏ ra 5 năm rưỡi để rà soát từng đống tài liệu. Từ những nguồn này và cũng từ thông tin tự thu thập ở Đức và Châu Âu trong hơn 4 thập kỷ, ông đã tổng hợp nên một biên niên sử nhân loại.

Hitler bạo miệng tuyên bố rằng Đế chế Thứ Ba ra đời ngày 30 tháng 1 năm 1933 sẽ kéo dài 1.000 năm.

Vào đêm trước ngày ra đời Đế chế Thứ Ba, bầu không khí căng thẳng bao trùm thành phố Berlin. Hầu như mọi người đều biết rằng nền Cộng hòa Đức sắp cáo chung. Trong hơn một năm, chế độ này đã tàn lụi một cách nhanh chóng. Giống như người tiền nhiệm Franz von Papen, Tướng Kurt von Schleicher chẳng quan tâm mấy đến số phận của chế độ Cộng hòa và càng ít quan tâm hơn đến nền dân chủ. Cả hai đã giữ chức vụ Thủ tướng do Tổng thống Đức chỉ định mà không thông qua Nghị viện.

Ngày 28 tháng 1 năm 1933, Kurt von Schleicher đột nhiên bị vị Tổng thống già nua, Thống chế von Hindenburg, bãi nhiệm chức vụ Thủ tướng chỉ sau 57 ngày nắm quyền. Adolf Hitler, thủ lĩnh Quốc xã, Đảng lớn nhất của Đức, đòi nắm chức vụ Thủ tướng của một nước Cộng hòa dân chủ mà ông nguyện sẽ tiêu diệt.

Nhiều tin đồn lan truyền trong ngày cuối tuần mùa đông định mệnh ấy và tin đồn gây quan ngại nhất không phải là vô căn cứ. Có tin cho biết Schleicher định âm mưu với Tướng Kurt von Hammerstein, Tư lệnh Lục quân, để làm cuộc nổi loạn với sự hậu thuẫn của doanh trại Potsdam nhằm bắt giữ Tổng thống và thành lập chế độ độc tài quân phiệt. Có cả tin đồn về việc Quốc xã định cướp chính quyền.

Đội ngũ S.A. ở Berlin, được hỗ trợ bởi những cảm tình viên Quốc xã trong lực lượng cảnh sát, định chiếm lấy khu Wilhelmstrasse, nơi tọa lạc Dinh Tổng thống và phần lớn văn phòng các bộ. Cũng có tin đồn về một cuộc tổng đình công.

Hitler anh 1
Hitler – Cái tên ám ảnh của một giai đoạn lịch sử nhân loại. Ảnh: BBC.

Ngày 29 tháng 1 năm 1933, hàng trăm nghìn công nhân biểu tình ở trung tâm Berlin để phản đối việc chỉ định Hitler làm Thủ tướng. Một trong những lãnh đạo công nhân cố bắt liên lạc với Tướng von Hammerstein nhằm đề xuất hành động kết hợp giữa quân đội và nghiệp đoàn nếu Hitler được chỉ định cầm đầu Chính phủ. Trước đó, trong cuộc nổi loạn Kapp năm 1920, một cuộc tổng đình công cũng đã giúp cứu nguy cho nền Cộng hòa sau khi Chính phủ trốn chạy khỏi thủ đô.

Trong những ngày này, Hitler đi đi lại lại trong căn phòng ở khách sạn Kaiserhof ở Quảng trường ReichskanzlerplatzA cách Phủ Thủ tướng không xa. Tuy lo lắng, nhưng ông vẫn tin chắc rằng thời khắc của mình sắp đến. Trong gần một tháng, ông bí mật đàm phán với Papen và phe Hữu bảo thủ. Ông phải dung hòa. Ông không thể lập được một Chính phủ Quốc xã thuần túy, nhưng trở thành Thủ tướng của một Chính phủ liên hiệp gồm 11 thành viên và 8 người trong số đó tuy không phải là Quốc xã, nhưng đã đồng ý với mưu đồ xóa bỏ nền Cộng hòa thì lại là chuyện có thể.

Chỉ có một kẻ ngáng đường duy nhất, chính là vị Tổng thống già nua, cứng rắn. Mới chỉ vào ngày 26 tháng 1 thôi, Tổng thống còn nói với Tướng Kurt von Hammerstein rằng ông “không hề có ý định trao cho viên hạ sĩ người Áo ấy chức Bộ trưởng Quốc phòng hay chiếc ghế Thủ tướng của nước Đức”.

Tuy thế, dưới ảnh hưởng của người con trai – Thiếu tá Oskar von Hindenburg, của Ottovon Meissner – Bí thư cho Tổng thống, của [cựu Thủ tướng] Papen và những thành viên khác trong nhóm quân sự, cuối cùng vị Tổng thống đã phải nhượng bộ. Ông đã 86 tuổi và đang lún sâu vào tình trạng lão suy. Xế chiều ngày 29 tháng 1 năm 1933, trong khi Hitler đang dùng trà và bánh cùng với Goebbels và các trợ lý khác thì Chủ tịch Nghị viện, Hermann Goering – nhân vật số Hai trong Đảng Quốc xã, thông báo rằng Hitler sẽ được cử làm Thủ tướng vào ngày hôm sau.

Gần trưa ngày 30 tháng 1 năm 1933, Hitler đi đến Phủ Thủ tướng để hội đàm với Hindenburg trong buổi gặp gỡ định mệnh đối với chính ông, đối với nước Đức và đối với toàn thế giới. Từ một cửa sổ của khách sạn Kaiserhof, Goebbels, Roehm và các thủ lĩnh Quốc xã khác âu lo dõi mắt nhìn cánh cửa của Dinh Thủ tướng nơi Lãnh tụ sắp bước ra. Goebbels nhận xét: “Chúng tôi có thể nhìn nét mặt ông ấy để biết rằng ông có thành công hay không”. Nhưng ngay cả vào lúc đó, họ vẫn không chắc chắn. “Trái tim chúng tôi như bị giằng xé giữa nghi ngờ, hy vọng, niềm vui và sự chán nản”. Goebbels đã ghi vào nhật ký của mình:

“Chúng tôi đã thất vọng quá nhiều lần nên không thể toàn tâm tin vào một phép lạ lớn lao nào”.

Nhưng sau đó, họ đã được chứng kiến một phép lạ thật sự. Con người với bộ râu kiểu danh hài Charlie Chaplin, gã thanh niên từng lông bông trên đường phố thủ đô Vienna của Áo, người lính vô danh trong Thế chiến thứ nhất, người sống vật vờ trong những ngày hậu chiến, kẻ cầm đầu cuộc bạo loạn có phần khôi hài ở một nhà hàng bia, người thậm chí còn không mang trong mình dòng máu Đức và giờ chỉ mới 43 tuổi, đã vừa được cử hành lễ tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng nước Đức.

Hitler lái xe hàng trăm mét trở về khách sạn Kaiserhof để gặp lại những phụ tá thân tín: Goebbels, Goering, Roehm và các nhân vật chỉ huy lực lượng S.A.- những người đã hỗ trợ ông trên con đường chông gai tiến đến quyền lực. Goebbels ghi chép: “Ông ấy không nói gì và tất cả chúng tôi cũng không nói gì, nhưng đôi mắt ông ấy đẫm lệ”.

Cả buổi tối ấy cho đến sau nửa khuya, hàng chục nghìn binh sĩ S.A. cuồng nhiệt của Quốc xã đã đốt đuốc diễu hành để mừng chiến thắng. Trong những đội hình có kỷ luật, họ đi qua công viên Tiergarten, qua cổng Brandenburg rồi đi xuống khu Wilhelmstrasse, với ban nhạc nổi lên những khúc quân hành cổ xưa hùng tráng theo nhịp trống như sấm dậy, cất tiếng hát theo bài hát mới của Horst Wessel cùng những bài hát lâu đời của nước Đức. Trong tiếng giày đinh rầm rập, những ngọn đuốc giơ lên cao tạo nên một con rồng lửa ngoằn ngoèo soi sáng cả phố phường, giữa tiếng hò reo của dân chúng kéo ra xem.

Từ trên một khung cửa sổ của Phủ Tổng thống, Hindenburg nhìn xuống đoàn diễu hành, lấy cây gậy gõ theo nhịp của khúc quân ca, có vẻ như mãn nguyện vì đã chọn được một Thủ tướng có thể khơi dậy toàn dân theo cách thức Đức truyền thống. Người ta không rõ ông có ý niệm nào về những chuyện sẽ xảy ra sau này hay không. Nhưng chẳng bao lâu sau, một câu chuyện, có lẽ là được ngụy tạo, đã được lan truyền ở Berlin: Giữa buổi diễu hành, Hindenburg đã quay sang một vị tướng già và nói: “Tôi không biết ta đã bắt được nhiều tù binh người Nga đến thế”.

Riêng Hitler thì đứng ở khung cửa sổ của Phủ Thủ tướng, tỏ vẻ cực kỳ phấn khích và vui sướng, nhảy nhót tới lui, liên tục giơ tay chào theo kiểu Quốc xã, cười và cười cho đến khi nước mắt lại giàn giụa.

Một người nước ngoài nhìn cuộc diễu hành đêm ấy với cảm nghĩ khác. AndréFrançois-Poncet, vị Đại sứ Pháp, viết: “Con sông lửa chảy qua trước Đại sứ quán Pháp, qua đó tôi đã nhìn thấy một luồng ánh sáng với con tim nặng trĩu chứa đầy cảm nghĩ về điềm gở”.

Lúc 3 giờ sáng đêm ấy, Goebbels trở về nhà, mệt mỏi nhưng sướng thỏa. Trước khi đi ngủ, ông ghi vào nhật ký: “Gần như là một giấc mơ… một câu chuyện cổ tích… Đế chế mới đã ra đời. 14 năm nỗ lực đã mang đến thành công. Cuộc Cách mạng Đức đã bắt đầu!”

Hitler bạo miệng tuyên bố rằng Đế chế Thứ Ba ra đời ngày 30 tháng 1 năm 1933 sẽ kéo dài 1.000 năm. Trên thực tế, chế độ này chỉ kéo dài 12 năm 4 tháng. Nhưng chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, nó đã gây ra cho toàn thế giới sự bạo lực dữ dội hơn bất cứ thời kỳ nào trước đó.

Chế độ này đã đưa người Đức lên đến đỉnh cao mà họ chưa từng trải qua trong hơn một thiên niên kỷ, biến họ thành chủ nhân của cả châu Âu, trải dài từ Đại Tây Dương đến sông Volga, từ cực Bắc xuống đến Địa Trung Hải và rồi sau đó dìm họ xuống vực sâu của sự tàn phá và tiêu điều ở cuối cuộc Thế chiến. Chế độ này đã […] gieo rắc làn sóng khủng bố lên các dân tộc khác trong những cuộc diệt chủng có chủ đích, vượt qua tầm mức của mọi chế độ hà khắc nhất từ trước đến giờ.

Nhân vật lập nên Đế chế Thứ Ba, người đã cai trị một cách tàn bạo, với sự tinh ranh khác thường, người đã dẫn dắt nước Đức lên một tầm cao chóng mặt và tụt xuống kết cục bi thảm, đúng là người có biệt tài, chỉ có điều biệt tài đó lại được áp dụng cho những mưu đồ đen tối.

Nếu không có Adolf Hitler – với cá tính như ác quỷ, ý chí sắt đá, bản năng độc đoán, tàn nhẫn lạnh lùng, một kẻ mang trong mình một khối lượng tri thức đáng kể, óc tưởng tượng vượt bậc và khả năng diệu kỳ về việc đánh giá đúng con người và tình huống – thì chắc chắn hẳn đã chẳng bao giờ có Đế chế Thứ Ba.

Nguồn: https://znews.vn/con-duong-tu-ga-thanh-nien-long-bong-toi-dinh-cao-quyen-luc-cua-hitler-post1531941.html

Tiếp tục đọc
Nhấn vào đây để bình luận

You must be logged in to post a comment Login

Leave a Reply

Sách hay

Chuyện gì thực sự đã xảy ra tại thảm kịch Everest 1996?

Được phát hành

,

Bởi

Gần 30 năm trôi qua, vẫn còn nhiều tranh cãi xoay quanh nguyên nhân dẫn đến thảm kịch Everest khiến 8 nhà leo núi bỏ mạng hồi tháng 5/1996.

tham kich everest anh 1

Cảnh từ bộ phim Everest (2015). Ảnh: Trail to peak.

Tháng 5/1996, 43 nhà leo núi đi thành nhiều đoàn thám hiểm, bao gồm hai đoàn thương mại lớn do Rob Hall (Adventure Consultants) và Scott Fischer (Mountain Madness) dẫn đầu, đang trên đường chinh phục Everest.

Ngày 10/5, thời tiết ban đầu có vẻ thuận lợi, nhưng một số yếu tố như lịch trình chậm trễ, sai lầm trong quản lý thời gian đã dẫn đến tình trạng tắc nghẽn trên tuyến đường lên đỉnh, nhiều nhà leo núi mắc kẹt ở độ cao nguy hiểm.

Về chiều, cơn bão tuyết dữ dội bất ngờ ập đến khiến tầm nhìn giảm mạnh và nhiệt độ hạ xuống cực thấp. Nhiều nhà leo núi bị lạc hoặc kiệt sức trong nỗ lực quay trở về trại. Rob Hall và Scott Fischer đều thiệt mạng trên núi. Kết cục, số người thiệt mạng lên đến tám.

tham kich everest anh 2

“Thánh kinh” của giới leo núi Into thin air.

Thảm kịch đã dấy lên tranh cãi về ngành leo núi thương mại trên Everest. Nhiều quy định an toàn đã được siết chặt sau sự kiện này.

Vụ việc cũng trở thành đề tài cho nhiều tác phẩm như các sách Into Thin Air (1997; tạm dịch: Vào thinh không; cùng năm được dựng phim truyền hình) của Jon Krakauer – một nhà báo tham gia chuyến thám hiểm, The Climb (tạm dịch: Chuyến leo núi) của Anatoli Boukreev – hướng dẫn viên sống sót trong vụ tai nạn và phim điện ảnh Everest (2015) tái hiện lại sự kiện này một cách chân thực.

Trong số đó, Into Thin Air là nổi tiếng hơn cả, được xem như “thánh kinh” của giới leo núi. Hướng dẫn viên Anatoli Boukreev viết The Climb để phản bác Into Thin Air mà ông cho là đã miêu tả bất công về ông.

Theo Slate, gần đây, luật sư Michael Tracy phát động chiến dịch YouTube công kích Krakauer, cho rằng ông đã bóp méo sự thật. Tracy cáo buộc Krakauer đổ lỗi cho những người leo nghiệp dư như Sandy Hill Pittman thay vì các hướng dẫn viên thiếu trách nhiệm. Tuy nhiên, Krakauer đã phản bác mạnh mẽ, thừa nhận một số sai sót nhỏ nhưng khẳng định phần lớn nội dung Into Thin Air vẫn chính xác.

Theo Tracy, vì cuốn sách của Krakauer mà Pittman chịu chỉ trích lớn từ cộng đồng, những hành động đầy tính kỳ thị phụ nữ. Tuy nhiên, tờ Slate cho rằng ác cảm với nhân vật này đến từ những nguồn khác, đặc biệt là một số tờ báo như Vanity Fair.

Ngoài ra, một số cáo buộc nặng nề nhất của Tracy, như việc Krakauer bỏ mặc Yasuko Namba sắp chết, đã bị cộng đồng kịch liệt phản đối, buộc ông phải gỡ bỏ video.

Đến nay, gần 30 năm trôi qua nhưng cuộc tranh cãi về nguyên nhân thảm kịch vẫn kéo dài. Nhiều chi tiết quan trọng không thể xác minh, vì những người chứng kiến đã bỏ mạng trên núi.

Con người luôn muốn tìm một thủ phạm rõ ràng để giải thích những bi kịch phức tạp, nhưng như Krakauer nhấn mạnh, thảm kịch trên là hậu quả của nhiều yếu tố đan xen: tắc trách, tham vọng, thời tiết khắc nghiệt, thể chất suy yếu và số phận xui rủi.

Nguồn: https://znews.vn/chuyen-gi-thuc-su-da-xay-ra-tai-tham-kich-everest-1996-post1532757.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Nghệ thuật binh pháp kinh điển của người Nhật Bản

Được phát hành

,

Bởi

“Binh pháp gia truyền thư” là cuốn sách kinh điển về nghệ thuật chiến đấu của người Nhật Bản do Yagyū Munenori viết từ thế kỷ 17.

Cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, trong đó có tiếng Anh, tiếng Trung…. Bản dịch tiếng Việt (Nguyễn Mạnh Sơn dịch) Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM vừa mới phát hành dịch theo bản Binh pháp gia truyền thư được in trong tập thứ hai của bộ Hiyaki Daimyo Bunko, do Fukui Kyūzo biên tập, Koseikaku xuất bản, Tokyo, 1937.

Binh phap gia truyen thu anh 1
Sách Binh pháp gia truyền thư bản tiếng Việt. Ảnh: QM.

“Kiếm giết người” và “Kiếm cứu người”

Yagyū Munenori (1571-1646) sinh ra trong một gia đình có truyền thống quân sự. Gia tộc Yagyū vốn được nhiều người gọi là gia tộc tình báo. Cha ông là Yagyū Muneyoshi, là một trong những kiếm sĩ nổi tiếng thời ấy. Sau này Munenori trở thành người sáng lập phái Shinkage. Ông là thầy dạy binh pháp, quân sự cho tướng quân Tokugawa Iemitsu. Sau đó ông trở thành daimyo, và lãnh chúa đầu tiên của vùng Yamoto Yagyu. Ông qua đời vì bệnh tật tại Azabu, Edo.

Yagyū Muneyoshi được đánh giá là kiếm sĩ xuất sắc nhất trong số các kiếm sĩ thời đó. Ông có rất nhiều đệ tử đảm nhiệm nhiều chức trách khác nhau, từ tướng quân cho đến các daimyo. Munenori coi kiếm cứu người là lý tưởng của binh pháp, ngay từ đầu không sử dụng vũ lực thì tốt hơn, nhưng nếu phải sử dụng vũ khí để loại bỏ một người mà cứu được cho cả vạn người thì cũng đáng.

Binh pháp gia truyền thư có dung lượng khoảng 100 trang, gồm 4 quyển: Cầu dâng giày (cây cầu để dẫn các môn đệ đến với đạo binh pháp); Sát nhân đao (Hiểu trực nghĩa là đao / kiếm dùng để sát nhân); Hoạt nhân kiếm (Kiếm cứu người); Vô đao (Không dùng đến dao kiếm).

Nói về việc đặt tên các quyển này, Yagyū Munenori viết: “Ta đặt tên cho quyển thượng và quyển hạ là “Kiếm giết người” và “Kiếm cứu người” với ý nghĩa rằng, thanh kiếm các kiếm thủ có thể giết người nhưng cũng có thể mang lại sự sống cho con người. Ở trong thời thế loạn lạc này, nhiều người bị giết một cách vô cớ. Có thể dùng “kiếm giết người để kiểm soát thời loạn lạc, còn vào thời thịnh trị, lẽ nào “kiếm giết người” không trở thành “kiếm cứu người được sao?”.

Binh pháp gia truyền thư không chỉ bàn về kỹ thuật chiến đấu tay đôi giữa kiếm sĩ mà còn đề cập nhiều khía cạnh khác trong khi tác chiến như chiến thuật, chiến lược, tâm lý, và đạo đức.

Thậm chí, người đời nay còn học được từ đó nhiều bài học hữu ích, đó là sự tập trung và kiên trì trong rèn luyện; là việc tìm hiểu và ứng biến trước mọi biến cố đối thủ có thể đưa đến; là đạo đức và tinh thần của chiến binh thực thụ; là năng lực kiểm soát cảm xúc và tâm lý trong quá trình tham chiến; là kỹ năng giải quyết vấn đề khi gặp trường hợp bất trắc; và hơn hết là hiểu và tôn trọng chính mình lẫn đối thủ.

Binh phap gia truyen thu anh 2
Tượng Yagyū Munenori (1571-1646). Nguồn: tokumeikan.

Kiếm thuật còn là nghệ thuật quản trị hòa bình

Theo dịch giả Nguyễn Mạnh Sơn, cùng Ngũ luân thư của Miyamoto Musashi, Binh pháp gia truyền thư của Yagyū Munenori là trước tác binh pháp kinh điển của người Nhật Bản. Trước tác này có ảnh hưởng sâu rộng, không chỉ trong lĩnh vực binh pháp, kiếm thuật mà còn đến nhiều lĩnh vực và trước tác khác ở đời sau, điển hình là Võ sĩ đạo của Inazo Nitobe.

Trước khi hai binh thư nổi tiếng này ra đời, Yagyū Munenori, là một kiếm sĩ, cũng thường được mọi người so sánh với Miyamoto Musashi, bởi hai người sống cùng thời. Thế nhưng dường như quan điểm về kiếm thuật của họ lại hoàn toàn khác nhau.

Thanh kiếm của Musashi thể hiện triết lý của một chiến binh thực thụ với kỹ năng thần diệu trong việc chém đối thủ. Trong khi đó, Munenori lại khao khát tạo ra kiếm pháp có thể lợi dụng con người để thống trị thế giới, có khả năng trấn áp đối thủ ngay cả khi bản thân không có vũ khí. Bởi ông hiểu rằng mục đích luyện kiếm của một vị tướng không phải để trở thành kiếm sĩ mạnh nhất thế giới mà để có được kiến thức và kỹ năng cai trị đất nước.

Trong lịch sử Nhật Bản, Yagyū Munenori là nhân vật hiếm hoi xuất thân tầm thường rồi lên đến daimyo, sau đó trở thành binh pháp gia và chính trị gia nổi danh. Ông luôn tâm niệm rằng, kiếm thuật không chỉ là kiếm thuật mà còn là nghệ thuật quản trị hòa bình, môn khoa học thống trị thế giới, cai trị xã hội samurai hòa bình mà không cần chiến đấu. Có lẽ đây là điểm khác biệt lớn nhất giữa phái Shinkage với các trường phái khác sử dụng kiếm giết người để giành chiến thắng.

Bên cạnh nội dung chính 4 quyển, để bản dịch tiếng Việt cuốn sách thêm phần trực quan và sinh động, dịch giả còn bổ sung phần mục lục tranh hướng dẫn các thế kiếm của phái Shingake và phụ lục phần dịch trước tác của Takuan Soho, một thiền tăng, mang tên “Bất động trí thần diệu lục”.

Đây là bài giảng của thiền sư Takuan dành cho Munenori về tư tưởng kiếm và thiền là một. Trong bài giảng này Takuan chỉ dẫn cách thức để Munenori có thể phát huy toàn bộ kiếm thuật của bản thân khi phải đối mặt với nhiều đối thủ và khi lãnh đạo nhiều thuộc cấp trong vai trò một chính trị gia.

Nguồn: https://znews.vn/nghe-thuat-binh-phap-kinh-dien-cua-nguoi-nhat-ban-post1532001.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Phần tiếp theo – con dao hai lưỡi

Được phát hành

,

Bởi

Một số tiểu thuyết nổi tiếng đã được tác giả viết phần tiếp theo sau nhiều năm. Nhiều tác phẩm tiếp tục được đón nhận nhưng có cuốn bị phản đối gay gắt vì không đạt được kỳ vọng.

Tranh minh họa “Chuyện người tùy nữ”. Nguồn: massolit.

Những phần tiếp theo của tác phẩm văn học được phát hành sau nhiều thập kỷ so với phần trước thường tạo ra sự phấn khích, hoài niệm nhưng cũng kèm theo cả sự hoài nghi. Những phần tiếp theo được mong đợi từ lâu này hứa hẹn sẽ tái hiện lại các nhân vật được yêu thích, mở rộng thế giới được trân trọng và trả lời câu hỏi còn bỏ ngỏ.

Tuy nhiên, ngược lại thì câu chuyện tiếp diễn cũng có nguy cơ không đáp ứng được kỳ vọng, làm hoen ố “di sản” để lại của tác phẩm gốc. Vậy, liệu có hiệu quả khi các tác giả tái hiện lại những sáng tạo của họ sau nhiều thập kỷ?

Yếu tố hoài niệm

Một trong những lý do lớn nhất khiến các tác giả quay lại với một câu chuyện được yêu thích là tình cảm bền bỉ mà độc giả dành cho nó. Hoài niệm có thể là sức hút mạnh mẽ, khơi dậy sự quan tâm đến cuốn sách gốc và thế giới của nó. Những phần tiếp theo như Go Set a Watchman (Hãy đi đặt người canh gác) của Harper Lee, được phát hành 55 năm sau To Kill a Mockingbird (Giết con chim nhại), đã khai thác nỗi nhớ này.

Tuy nhiên, mối liên hệ cảm xúc này có thể là con dao hai lưỡi. Người hâm mộ thường mang đến kỳ vọng rất cao, hy vọng phần tiếp theo sẽ mang lại chiều sâu cảm xúc giống bản gốc. Vì vậy, khi tác phẩm không làm được như vậy, độc giả chắc chắn có phản ứng dữ dội và gay gắt.

Bên cạnh đó, các tác giả thường phát triển và thay đổi theo năm tháng, và tác phẩm của họ phản ánh sự tiến hóa này. Khi Margaret Atwood viết The Testaments (tạm dịch: Di chúc) nhiều thập kỷ sau The Handmaid’s Tale (Chuyện người tùy nữ), phần tiếp theo của bà đã thể hiện một tông điệu đương đại hơn, đề cập đến các vấn đề hiện đại về giới tính và quyền lực.

Đối với nhiều người, sự tiến hóa này là bản cập nhật đáng hoan nghênh, chứng minh rằng phần tiếp theo có thể tạo được tiếng vang với khán giả mới trong khi vẫn tôn vinh tác phẩm gốc.

Tuy nhiên, điều này cũng khiến tác phẩm có nguy cơ mất kết nối. Người đọc có thể thấy phong cách hoặc góc nhìn mới của tác giả xung đột với giọng điệu của tác phẩm gốc, khiến họ cảm thấy xa lạ.

Tieu thuyet phan tiep theo anh 1
The Testaments của Margaret Atwood được đón nhận sau thành công nhiều thập kỷ của The Handmaid’s Tale. Ảnh: Thebookerprize.

Nguy cơ của việc viết lại

Phần tiếp theo được viết sau nhiều thập kỷ thường liên quan đến việc diễn giải lại hoặc mở rộng câu chuyện gốc. Điều này đôi khi có thể dẫn đến việc viết lại, trong đó các chi tiết mới mâu thuẫn hoặc diễn giải lại các sự kiện trong quá khứ.

Ví dụ, Go Set a Watchman gây tranh cãi khi mô tả Atticus Finch theo hướng ít anh hùng hơn, thay đổi cách độc giả cảm nhận nhân vật mang tính biểu tượng này.

Trong khi thay đổi tình tiết gốc có thể làm tăng thêm sự phức tạp cho một câu chuyện, nhưng cũng khiến người hâm mộ cảm thấy bị phản bội bởi những thay đổi đối với các nhân vật hoặc thế giới mà họ yêu thích. Việc cân bằng những ý tưởng mới với các quy tắc đã được thiết lập là một nghệ thuật tinh tế có thể tạo nên hoặc phá vỡ phần tiếp theo.

Kỳ vọng hiện đại so với ý định ban đầu

Khi phần tiếp theo được phát hành sau nhiều thập kỷ, tác giả chắc chắn phải đối mặt với những nhạy cảm và bối cảnh văn hóa hiện đại. Những gì hiệu quả trong quá khứ có thể không còn được độc giả đương đại đồng tình nữa.

Trong một số trường hợp, các tác giả giải quyết vấn đề này trực tiếp, kết hợp chủ đề hiện đại vào tác phẩm của họ, như Atwood đã làm với The Testaments. Tuy nhiên, điều này cũng có thể dẫn đến căng thẳng. Người hâm mộ bản gốc sẽ cảm thấy phần tiếp theo đi quá xa so với ý định ban đầu của câu chuyện, trong khi độc giả mới có thể không đánh giá đầy đủ bối cảnh của cuốn sách đầu tiên.

Tieu thuyet phan tiep theo anh 2
Harper Lee đã không thành công khi viết Go Set A Watchman, phần tiếp theo của To Kill A Mockingbird, khi miêu tả nhân vật chính khác lạ. Ảnh: Bookbed.

Thành công và sai lầm

Một số phần tiếp theo được mong đợi từ lâu đã được chào đón nồng nhiệt. The Silmarillion của J.R.R Tolkien, được xuất bản sau khi ông mất nhiều thập kỷ với The Lord of the Rings, đã mở rộng thế giới thần thoại theo cách làm sâu sắc thêm sự trân trọng của người hâm mộ đối với lịch sử Trung Địa. Tương tự, The Testaments của Atwood đã nhận được sự hoan nghênh của giới phê bình, giành giải Booker danh giá.

Mặt khác, một số phần tiếp theo đã gặp phải những phản ứng trái chiều. Go Set a Watchman, mặc dù ban đầu được ca ngợi khi ra mắt, lại gây ra tranh cãi vì miêu tả Atticus Finch khác lạ. Doctor Sleep của Stephen King, phần tiếp theo của The Shining (Thị kiến), đã nhận được lời khen ngợi nhưng cũng phải đối mặt với sự chỉ trích vì đi chệch hướng về tông điệu so với phần trước.

Vậy nó có hiệu quả không?

Khi được thực hiện tốt, phần tiếp theo được phát hành sau nhiều thập kỷ có thể làm phong phú thêm câu chuyện gốc, cung cấp góc nhìn mới mẻ và giới thiệu lại các nhân vật được yêu thích cho thế hệ mới. Chúng có thể khơi dậy tình yêu dành cho bản gốc và mở rộng di sản của nó.

Tuy nhiên, rủi ro cũng đáng kể không kém. Những phần tiếp theo không tôn trọng tông điệu, chủ đề hoặc nhân vật của bản gốc có thể khiến độc giả xa lánh và làm hoen ố danh tiếng của câu chuyện.

Cuối cùng, liệu phần tiếp theo của tác phẩm ra mắt sau nhiều thập kỷ có thành công hay không phụ thuộc vào khả năng cân bằng giữa sự hoài niệm với đổi mới, tôn vinh tác phẩm gốc trong khi mang đến điều gì đó mới mẻ của tác giả.

Nguồn: https://znews.vn/phan-tiep-theo-con-dao-hai-luoi-post1531192.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng