Connect with us

Văn mẫu 8

Phân tích bài “Ôn dịch thuốc lá”

Được phát hành

,

Là một bác sĩ lâu năm giàu kinh nghiệm, tác giả Nguyễn Khắc Viện đã viết bài Từ thuốc lá đến ma tuý – bệnh nghiện để phân tích tác hại to lớn của thuốc lá đối với đời sống cá nhân và cộng đồng, thông qua đó nêu lên quyết tâm chống thuốc lá của Nhà nước ta. Đoạn ôn dịch, thuốc lá được trích từ văn bản này.

Trước hết, ta nên hiểu tựa để trên như thế nào cho đúng?

Thuốc lá là cách nói tắt của tệ nghiện thuốc lá. Ôn dịch là từ dân gian dùng để chỉ chủng các loại bệnh nguy hiểm, dễ lây lan và làm chết người hàng loại. Ví dụ dịch tả, dịch HIV, SARS… Tác giả so sánh tác hại đáng sợ của thuốc lá với hậu quả ghê gớm của ôn dịch là rất chính xác. Từ ôn dịch còn được dân gian dùng làm tiếng chửi rủa với hàm ý ghê tởm. Có thể diễn giải một cách cụ thể ý nghĩa của tựa đề bài văn như sau: Thuốc lá là một thứ ôn dịch.

Cấu trúc văn bản này chia thành bốn phần:

– Phần 1: Từ đầu… đến nặng hơn cả AIDS: Nhận xét khái quát về tác hại của thuốc lá.

– Phần 2: Tiếp theo… đến tổn hao sức khoẻ: Chứng minh tác hại cụ thể của thuốc lá đối với sức khoẻ người hút.

– Phần 3: Tiếp theo… đến con đường phạm pháp: Nêu tác hại của khói thuốc lá đối với những người không hút.

– Phần còn Ịại: Cảm nghĩ và lời bình của tác giả.

Mở đầu đoạn trích, tác giả nêu nhận xét chung về hậu quả ghê gớm của những nạn dịch từ trước đến nay và lấy đó làm cơ sở để khẳng định tác hại nghiêm trọng của thuốc lá: Dịch hạch, thổ tả, hàng vạn hàng triệu người chết, nhờ tiến bộ y học, loài người hầu như đã diệt trừ được những dịch khủng khiếp ấy. Nhưng vào cuối thế kỉ này lại xuất hiện những ôn dịch khác.

Cả thế giới đang lo âu về nạn AIDS, chưa tìm ra giải pháp, thì nhiều nhà bác học, sau mấy chục năm và hơn năm vạn công trình nghiên cứu đã lớn tiếng báo động: Ôn dịch thuốc lá đang đe doạ sức khoẻ và tính mạng loài người còn nặng hơn cả AIDS.

Câu cuối này chính là luận đề của văn bản. Phần sau giải thích và chứng minh cho luận đề. Cách đặt vấn đề nhự vậy thật độc đáo. Tác giả dùng phương pháp tăng cấp để thu hút sự chú ý của người đọc và nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề được đặt ra trong bài viết của mình.

Ở phần 2, tác giả khẳng định rằng thuốc lá đã và đang đe doạ sức khoẻ và tính mạng loài người.

Tác giả đã mượn câu nói nổi tiếng của nhà quân sự thiên tài Trần Hưng Đạo: “Nếu giặc đánh như vũ bão thì không đáng sợ, đáng sợ là giặc gặm nhấm như tằm ăn dâu” để so sánh những khó khăn trong việc chống thuốc lá không kém gì việc chống giặc ngoại xâm. Khói thuốc lá được ví như thứ giặc vô hình, rất khó đối phó. Các chất độc trong khói thuốc không tàn phá ngay một lúc sức khoẻ con người mà nó gặm nhấm từng chút một theo kiểu tằm ăn lá dâu, rốt cuộc là không còn gì cả. Người hút không thấy ngay tác hại của thuốc lá và càng không hể biết rằng hơn bốn ngàn chất độc trong khói thuốc lá cố khả năng gây ra những bệnh hiểm nghèo. Ngược lại, họ còn thấy sảng khoái, thư giãn khi ngậm điếu thuốc phì phèo nhả khói, thậm chí còn coi đó là một biểu tượng quý trọng (!) Nhiều thiếu niên còn lấy thuốc lá để chứng tỏ là mình “sành điệu” và khẳng định rằng mình đã lớn. Tại sao mọi người lại có thái độ chủ quan, coi nhẹ tác hại của thuốc lá như vậy? Bởi vì, người hút thuốc lá không lăn đùng ra chết, không say bê bết như người uống rượu nên không sợ.

Ở phần 2, tác giả đã phân tích cặn kẽ và nêu ra hàng loạt dẫn chứng cụ thể để chứng minh mức độ nguy hại của khói thuốc:

Khói thuốc lá chứa nhiều chất độc, thấm vào cơ thể. Nạn nhân đầu tiên là những lông rung của những tế bào niêm mạc ở vòm họng, ở phế quản, ở nang phổi bị chất hắc ín trong khói thuốc lá làm tê liệt Các lông mao này có chức năng quét dọn bụi bặm và các vi khuẩn theo luồng không khi tràn vào phế quản và phổi; khi các lông mao ngừng hoạt động, bụi và vi khuẩn không được đẩy ra ngoài nữa, tích tụ lại gây ho hen và sau nhiều năm gây viêm phế quản.

Trong khói thuốc lá lại có chất ô-xít các-bon, chất này thấm vào máu, bám chặt các hồng cầu không cho chúng tiếp cận ôxi nữa. Không lạ gì sức khoẻ của người nghiện thuốc ngày càng sút kém.

Thấm vào các tế bào, chất hắc ín lại thường gây ra ung thư. Ta đến bệnh viện K sẽ thấy rõ: Bác sĩ viện trưởng cho biết trên 80% ung thư vòm họng và ung thư phổi là do thuốc lá.

Ta đến Viện Nghiên cứu các bệnh tim mạch, bác sĩ viện trưởng cho biết: Chất ni-cô-tin của thuốc lá làm các động mạch co thắt lại, gây những bệnh nghiêm trọng như huyết áp cao, tắc động mạch, nhồi máu cơ tim. Có thấy một bệnh nhân bị tắc động mạch chân lên những cơn đau như thế nào, rồi phải cắt dần từng ngón chân đến cả bàn chân; có thấy những người 40 – 50 tuổi đã chết đột xuất vì nhồi máu cơ tim; có thấy những khối ung thư ghê tởm mới nhận ra tác hại ghê gớm của thuốc lá.

Cuối cùng, tác giả kết luận về tác hại ghê gớm của khói thuốc lá không chỉ đối với sức khoẻ con người mà cồn đối với các lĩnh vực khác trong xã hội, cao hơn nữa là cả nền kinh tế quốc dân:

Không cần nhắc đến những việc nghiêm trọng như vậy, chỉ riêng bệnh viêm phế quản của hàng triệu người cũng đã làm mất bao nhiêu ngày công lao động và làm tổn hao sức khoẻ cộng đồng.

Vậy thì những bệnh nặng hơn do thuốc lá gây ra như ung thư, tim mạch… sẽ làm tổn hao bao nhiêu tiền của cho người bệnh và công sức của những người phải bỏ việc để phục vụ bệnh nhân? Rõ ràng, thuốc lá gây thiệt hại rất lớn cho bản thân, gia đình và xã hội.

Bên cạnh việc nêu lên tác hại của khói thuốc lá đối với bản thân người hút, tác giả còn nêu ra tác hại đối với cả những người không hút thuốc. Để làm nổi bật điều này, tác giả nhắc lại những lời chống chế thường gặp ở những người nghiện hút: Tôi hút, tôi bị bệnh, mặc tôi! Bằng những lập luận chặt chẽ, dẫn chứng sinh động và cả sự bức xúc, tác giả đã bác bỏ luận điệu sai lầm ấy:

Xin đáp lại: Hút thuốc là quyền của anh, nhưng anh không có quyền đầu độc những người ở gần anh. Anh uống rượu say mềm, anh làm anh chịu. Nhưng hút thuốc thì người gần anh cũng hít phải luồng khói độc. Điều này hàng nghìn công trình nghiên cứu đã chứng minh rất rõ.

Vợ con, những người làm việc cùng phòng với những người nghiện thuốc cũng bị nhiễm độc, cũng đau tim mạch, viêm phế quản, cũng bị ung thư. Anh có quyền hút, nhưng có mặt người khác, xin mời anh ra ngoài sân, ngoài hành lang mà hút.

Tội nghiệp thay những cái thai còn nằm trong bụng mẹ, chỉ vì có người hút thuốc ngồi cạnh mẹ mà thai bị nhiễm độc, rồi mẹ đẻ non, con sinh ra đã suy yếu. Hút thuốc cạnh một người đàn bà có thai quả là một tội ác.

Bố và anh hút, chú bác hút không những đầu độc con em mình mà còn nêu gương xấu…

Tác giả đã cụ thể hoá hai khái niệm được các nhà nghiên cứu y học sử dụng là hút thuốc lá chủ động và hút thuốc lá bị động. Người không hút nhưng thường xuyên phải hít khói thuốc cũng bị ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ. Bản thân người hút tự làm hại mình đồng thời cũng làm hại bao nhiêu người khác. Đây là điều mà mọi người cán biết và lên án.

Để chứng minh thuốc lá gây thiệt hại như thế nào về mặt kinh tế, tác giả đã lấy dẫn chứng từ xã hội Âu – Mĩ xa xôi để so sánh với nước ta:

Tỉ lệ thanh thiếu niên hút thuốc ở các thành phố lớn nước ta ngang với tỉ lệ các thành phố Âu – Mĩ. Chi có khác là với một thanh niên Mĩ 1 đô la mua một bao thuốc lá là một khoản tiền nhỏ, còn đối với một thiếu niên Việt Nam, muốn có 15.000 đồng mua một bao 555 – (giá hiện nay là sáu mươi ngàn đồng) vì đã hút là phải hút thuốc sang – chỉ có một cách là trộm cắp. Trộm một lần, quen tay. Từ điếu thuốc sang cốc bia rồi đến ma tuý, con đường phạm pháp thực ra đã mở đầu với điếu thuốc.

Cứ tưởng điếu thuốc lá là chuyện nhỏ không đáng kể nhưng thực ra nó không nhỏ chút nào. Trung bình mỗi năm có bao nhiêu tỉ đồng bị đốt thành khói, trong khi đó đời sống vật chất của nhiều người vẫn ở mức nghèo khổ?! Người nghiện hút có tiền mua thuốc đã đành, còn không thì khi thấy người khác hút là lên cơn thèm, đành chìa tay xin hoặc nhặt nhạnh từng mẩu thuốc lá thừa người khác vứt đi. Tư cách lúc ấy thật thảm hại. Tệ hơn nữa là lấy trộm tiền của gia đình để mua thuốc hút và sau đó thì chuyện nhúng tay vào những việc xấu xa và sa chân vào vòng tù tội chi còn trong gang tấc.

Từ góc độ của một nhà giáo dục, tác giả chỉ ra rằng: Bố và anh hút thuốc, chú bác hút không những đầu độc con em mình mà còn nêu gương xấu…

Người lớn hút thuốc trước mặt trẻ em, lấy điếu thuốc làm một cử chỉ cho biểu tượng quý trọng, chính là đã đẩy con em vào con đường phạm pháp.

Đúng như vậy! Ngày nay, không ít học sinh Trung học cơ sở và Trung học phổ thông đã tập tành phì phèo điếu thuốc trên môi. Không chỉ nam mà cả nữ.

Đó là những hình ảnh không đẹp về tuổi học trò trong trắng, hồn nhiên. Nhà trường và gia đình cần lưu tâm khuyên nhủ và ngăn chặn kịp thời.

Trước những tác hại ghê gớm của thuốc lá, tác già đã bày tỏ sự bức xúc của mình và đưa ra một số giải pháp tích cực để khống chế và dần dần đi đến việc cấm sản xuất và sử dụng thuốc lá trên phạm vi toàn thế giới:

Ngày nay, đi các nước phát triển, đâu đâu cũng nổi lên chiến dịch chống thuốc lá. Người ta cấm hút thuốc ở tất cả những nơi công cộng, phạt nặng những người vi phạm (Ở Bỉ, từ năm 1987, vi phạm lần thứ nhất phạt 40 đô la, tái phạm 500 đồ la). Khắp nơi, những tài liệu, khẩu hiệu chống thuốc lá dần dần lấn át những quảng cáo của các hảng thuốc lá. Và nhiều nước đã cấm quảng cáo thuốc lá trên báo chí, vô tuyến truyền hình. Chỉ trong vài năm, chiến dịch chống thuốc lá này đã làm giảm hẳn số người hút, và người ta đã thấy triển vọng có thể nêu lên khẩu hiệu cho những năm cuối thế kỉ XX: “Một châu Âu không còn thuốc lá”. Nước ta khác với các nước châu Âu, đang còn trong tình trạng có nhiều bệnh tật do vi trùng, kí sinh trùng gây ra, nay lại theo đòi các nước phát triển, nhiễm thêm các bệnh do thuốc lá; sốt rét, bệnh phong, lao, ỉa chảy chưa thanh toán được, lại ôm thêm ôn dịch thuốc lá này. Nghĩ đến mà kinh. Đã đến lúc mọi người phải đứng lên chống lại, ngăn ngừa nạn ôn dịch này.

Trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa chủ đề tác hại của thuốc lá vào chương trình Ngữ văn ở trung học cơ sở để giúp học sinh nhận thức được tác hại ghê gớm của thuốc lá và hạn chế dần tệ hút thuốc lá trong cán bộ, công nhân viên, đặc biệt là đội ngũ giáo viên, những người mà hai lá phổi của họ là “công cụ” quan trọng nhất của nghề dạy học. Riêng đối với học sinh, khi đã nhận thức đầy đủ về tác hại của thuốc lá, các em sẽ lánh xa tệ nghiện hút và góp phần đẩy lùi tệ nghiện thuốc lá trong gia đình cũng như ngoài xã hội.

Giống như ôn dịch, nạn nghiện thuốc lá rất dễ lây lan và gây những tổn thất nghiêm trọng cho sức khoẻ và tính mạng con người. Nạn nghiện thuốc lá còn nguy hiểm hơn cả ôn dịch bởi nó gặm nhấm sức khoẻ nên người ta khó nhận biết. Bên cạnh đó nó còn gây ra tác hại nhiều mặt đối với cuộc sống gia đình và xã hội. Bởi vậy, muốn tiêu diệt thuốc lá, mọi người cần phải có quyết tâm cao và biện pháp triệt để hơn cả việc phòng chống những nạn ôn dịch khác.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 8

Bình luận bài thơ “Ông đồ”

Được phát hành

,

Bởi

Đấy là một thế hệ người. Mà nhiều khi chỉ còn dăm bảy người. Lúc đầu, đông đúc, rôm rả lắm, nhưng mà cái gì cũng thế thôi, ngày càng thưa thớt dần, quạnh quẽ dần…

Ông Vũ Đình Liên dừng lại, không nhìn vào tôi, ông nhìn đi đâu, xa chừng, hun hút:

– Tôi nói quạnh quẽ lắm, nghe mà thương, anh ạ. Anh có thấy thương không, một lớp người họ từng ngồi vào cái chỗ anh và tôi đương ngồi, nói cái chuyện anh và tôi đương nói, chuyện năm, chuyện tháng, chuyện thời gian… Đang nói vui vẻ thế thì tự nhiên hết năm, hết tháng, và họ cũng hết nốt… Cho nên, bức xúc thì mình đã có sẵn, bây giờ chỉ lựa chỗ để đưa họ vào, vào thật êm mà không bật ra:

Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua.

Đừng để câu thơ trống, gánh một gánh chữ mà không làm được việc gì. Anh thấy tôi viết như chơi ấy. Thế là đã có một ông đồ rồi đấy nhé. Bốn câu, câu nào cũng có nhiệm vụ văn học của nó. Khác thể anh kéo ra một tấm màn sân khấu, tấm màn màu hoa đào hực hỡ, rồi cho ông đồ lọt thỏm vào giữa. Mỗi năm nghĩa là năm nào cũng thế. Hoa ấy, cứ đến tiết thì lại trồi. Người ấy, cứ đến tiết thì lại nở. Cho nên mới nói Lại thấy ông đồ già. Cứ Khoắng chữ lên là gặp. Ông đồ đang làm gì? Ông ta không làm gì ra trò. Ấy là tôi nói đã vào cái thời tàn. Ông cụ cứ loay hoay bày đặt. Ông bò ra, giữa cái nhí nhố của cuộc sống này mà bày mực tàu giấy đỏ. Phố thì đông, ông thì quạnh. Bày ra, là bày cái ở trong lòng ra giữa thanh thiên bạch nhật. Như vậy thì ông phải trân trọng lắm, và cái chỗ ông ngồi bên mái phố là một chỗ thiêng:

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay

Đấy là vào thời hạnh phúc nhất của ông. Bao nhiêu người là đông người lắm. Tấm tắc ngợi khen, không phải chỉ ngợi khen suông mà lời khen đọng lại trên khoé miệng, thầm thì, nắc nỏm. Đây là khổ thơ cao trào. Nó bắn lên như pháo hoa rồi tàn lụi dần. Phượng múa rồng bay là vẽ vời ra lắm thứ ngoạn mục rồi trở về với hư vô:

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu.

Nhưng mỗi năm mỗi… Cứ hiu hắt dần đi. Cây thì rụng lá, hoa thì rụng cuống. Thời gian làm một cuộc hành trình đi về phía vô tận. Ông đồ, hững hờ mà cuống quít ném vào giữa đời một câu hỏi, cũng chẳng là hỏi ai. Người thuê viết nay đâu? Hỏi thời gian? Hỏi không gian? Không, không hỏi ai cả. Hỏi chính lòng mình, tức là hỏi cái quy luật khắc nghiệt và buồn thảm. Trước câu hỏi ấy, giấy đỏ buồn không thắm, đỏ mà lại không thắm thì đỏ cái nỗi gì? Và mực mài ra là để viết, chứ sao lại để đọng? Đọng không ngoài nghiên mà trong nghiên, vì thế cái nghiên cũng phải sầu!

Đến đây, cái thời tàn nó rõ mồn một:

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay.

Ông đồ, thì cứ vẫn ông đồ, chứ chả lẽ ông gì? Đâu thì lại ngồi đấy thôi. Dưới tấm màn mưa bụi, nghĩa là tấm màn đan bằng những hạt mưa nhỏ tí xíu như là hạt bụi, bụi thời gian, ném vào ông đồ từng đợt sóng lãng quên, ông bị va đập và níu kéo, bào mòn. Thôi rồi, không còn thể thống gì nữa cái ông đồ, ông vẫn ngồi đấy, tưởng là định vị, nhưng hình tượng hăm hở ấy cứ mờ nhoè, ngút ngấm… cho đến một lúc tả ra như lá, như bụi mưa… Ngoài trời mưa bụi bay… Anh có thấy ra cái điều này không? Bụi mưa, mưa bụi, nó thoảng thớt là thế, mà khắc nghiệt là thế. Nó ưu ái bám lấy con người ta, nhào nắn, rút tỉa, nó cũng gạt gẫm và phỉnh phờ kia đấy, cho đến một ngày, nó nâng bổng người ta lên, ném vào nơi ký ức xoá mờ…

Năm nayđào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

Những người muôn năm cũ, là những người không thể nào cũ hơn được. Những con người ấy bây giờ đang ở đâu? Phàm ở đời, cái mới không ngừng nảy sinh, trong lúc cái cũ không ngừng tàn tạ. Như thế nó mới là cuộc sống con người.

Bài thơ nó còn là cái chỗ này: Làm một nơi cư ngụ mong manh cho hồi ức con người về một thế hệ đã tàn phai, và đấy phải chăng là sứ mệnh của văn học?

Đông Trình – Báo Thừa Thiên Huế, xuân 2000

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 8

Cảm nghĩ về hành động của các nhân vật trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”

Được phát hành

,

Bởi

Trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, thái độ của chị Dậu đối với tên cai lệ và người nhà lí trưởng có cả một quá trình diễn biến. Khi anh Dậu run rẩy bưng bát cháo, vừa mới kề vào miệng thì cai lệ và người nhà lí trưởng sầm sập tiến vào. Trước thái độ hống hách của tên cai lệ và người nhà lí trưởng, lúc đầu, chị Dậu hết sức nhún nhường. Chị lễ phép run run nói: “Nhà cháu đã túng, lại phải đóng cả suất SƯU của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bê tiền SƯU của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí hãy cho cháu khất…”. Nhưng chị Dậu càng van xin tha thiết, tên cai lệ càng sừng sộ, sai tên người nhà lí trưởng trói anh Dậu lại, điệu ra đình. Khi thấy người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, tên cai lệ sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu. Chị Dậu hốt hoảng chạy đến đỡ lấy tay hắn và một lần nữa, khẩn thiết xin tha: “Cháu van ông, nhà cháu mới tỉnh lại được một lúc, ông tha cho!”. Cai lệ tát vào mặt chị Dậu rồi nhảy vào trói anh Dậu. Hành động tàn bạo của tên cai lệ đã thổi bùng ngọn lửa căm thù trong lòng chị Dậu. Chị nghiến hai hàm răng: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Rồi bằng sức mạnh của lòng căm thù, chị đã lần lượt quật ngã tên cai lệ và người nhà lí trưởng.

Như vậy là, trước hành động tàn bạo của tên cai lệ và người nhà lí trưởng, chị Dậu đã từ thái độ van xin ôn hoà đến chỗ quyết liệt, vùng lên quật ngã bọn tay sai hung ác.

Hành động của chị Dậu trong hoàn cảnh đó không thể khác. Để bảo vệ tính mệnh cho chồng, chị không thể không vùng dậy chông lại hành động tàn bạo của bọn tay sai. Sức mạnh bất ngờ kì lạ của chị Dậu chính là sức mạnh của lòng căm thù bọn tay sai bất nhân, tàn ác.

Đoạn văn trích cho ta thấy người nông dân lao động vốn hiền lành, nhẫn nhục, nhưng khi bị dồn đến cùng đường, họ cũng biết vùng lên chống cự lại một cách dũng cảm. Hành động đánh lại tên cai lệ và người nhà lí trưởng của chị Dậu thể hiện sức mạnh tiềm tàng, tinh thần kiên cường, bất khuất của người nông dân Việt Nam, người phụ nữ Việt Nam. Hành động của chị Dậu cũng phản ánh qui luật “tức nước vỡ bờ”, “con gian xéo mãi cũng quằn, “có áp bức, có đấu tranh”.

Trong đoạn trích, Ngô Tất Tố cũng đã thành công trong việc khắc hoạ bộ mặt tàn ác, đểu cáng, không chút tính người của tên cai lệ và người nhà lí trưởng.

Với những “roi song, tay thước và dây thừng”, tên cai lệ và người nhà lí trưởng hùng hổ xông vào nhà chị Dậu. Tên cai lệ ra oai, hách dịch ngay từ những giây phút đầu tiên. Gõ đầu roi xuống đất, hắn lên giọng quát anh Dậu phải mau mau nộp thuế. Trước lời van xin nhũn nhặn của chị Dậu, hắn “trợn ngược hai mắt”, lớn tiếng quát tháo: “Mày định nói cho cha mày nghe đó à! Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất!”. Không một chút mủi lòng trước cảnh anh Dậu đang đau ốm, bỏ ngoài tai lời van xin tha thiết của chị Dậu, tên cai lệ doạ dỡ nhà, quát tên người nhà lí trưởng, rồi trói cổ anh Dậu lại, điệu ra đình. Khi tên người nhà lí trưởng còn đang “lóng ngóng ngơ ngác” thì tên cai lệ đùng đùng “giật phắt lấy cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu”. Chị Dậu vẫn nhẫn nhục van xin. Nhưng không một chút tình người, tên cai lệ đã đấm vào ngực, tát vào mặt chị Dậu rồi nhảy tới anh Dậu, không kể gì tới mạng sống của anh. Hành động của tên cai lệ thật đểu cáng, bất nhân, không còn chút tình người.

Tên người nhà lí trưởng cũng đểu cáng, bất nhân không kém. Hắn cười mỉa mai khi thấy anh Dậu vì sợ hãi quá mà lăn đùng xuống phảng. Rồi hắn “sấn cổ bước đến giơ gậy chực đánh chị Dậu”. Hành động tàn ác của cả tên cai lệ và người nhà lí trưởng đã đẩy chị Dậu tới chỗ không thể không vùng lên chông trả để bảo vệ mạng sông cho anh Dậu.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 8

Cảm nhận của em về đoạn trích “Hai cây phong”

Được phát hành

,

Bởi

Hai cây phong là phần đầu của truyện Người thầy đầu tiên của nhà văn xứ Cư-gơ-rư-xtan – một nước Cộng hoà ở vùng Trung Á thuộc Liên Xô trước đây. Bài văn có hai mạch kể và tả xen lẫn vào nhau rất nhuần nhuyễn tạo nên một sắc thái đặc biệt về cảm nhận.

Trước hết, bằng lối miêu tả đầy xúc động của một tầm hồn nhạy cảm, người kể chuyện tự giới thiệu mình là hoạ sĩ. Bức tranh vẽ giữa ngọn đồi có hai cây phong. Tuy nhiên đầy không phải là nét vẽ bằng cây cọ, mà bằng lời kể và tả thật duyên dáng, sâu lắng.

Bức tranh ấy chỉ thể hiện lên mỗi lần “chúng tôi” (lời xưng hô của chủ thể trữ tình) đi xa và nghĩ thầm với một nỗi buồn da diết: “Ta sắp được thấy chúng chưa, hai cây phong sinh đôi ấy? Mong sao chóng về đến làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong!”.

Như vậy, cảnh sắc quê hương được cảm nhận bằng những hình ảnh đậm nhạt, cao thấp, xa gần, khác nhau. Đó là tâm tình của người hoạ sĩ tài hoa trước phong cảnh đầy cảm xúc dâng trào.

Nhưng ở một góc độ cảm nhận, tác giả (nhân vật trữ tình) đã kết hợp tự sự với miêu tả và biểu cảm tạo nên sức hút kì lạ. Bởi vì người kể đã khơi dậy hoài niệm của tuổi thơ.

Đó là vào năm học cuối cùng, bọn trẻ đã reo hò, huýt còi ầm ĩ rồi công kênh nhau bám vào các mắt mấu của hai cây phong mà leo lên. Quên làm sao được “lũ nhóc đi chân đất” ấy “làm chấn động cả vương quốc loài chim” ở trên “những cành cao ngất”. Ôi, ở đây, “bọn nhóc” còn vô cùng sung sướng ngắm nhìn cảnh vật một cách vừa trịnh trọng, vừa yêu thương.

Chúng giương hết tầm mắt nhìn vào nơi xa biêng biếc của thảo nguyên. Chúng “nép mình ngồi trên các cành cây lắng nghe tiếng gió ảo huyền và tiếng lá cây đáp lại lời gió…”. Hai cây phong đã làm cho tuổi thơ rạo rực, bị quyến rũ về vẻ đẹp vừa uy nghi vừa hoang sơ của nó.

Như vậy, đoạn trích Hai cây phong chan chứa một thi vị của quê hương. Nghệ thuật tả và kể của bài văn đã làm cho mạch kể hết sức sinh động.

Đoạn văn thể hiện tâm hồn riêng của hai cây phong là hay nhất, rung động nhất. Đoạn trích chính là một bài ca về tình nghĩa quê hương và về người thầy vĩ đại đã “trồng cây và trồng người”.

Tiếp tục đọc

Xu hướng