Connect with us

Sách hay

Những ký ức không bao giờ phai về Cuba

Được phát hành

,

Sách “Ký ức Cuba – Memorias” là 87 câu chuyện về kỷ niệm xoay quanh những năm tháng không thể nào quên khi được sống và học tập trên mảnh đất Cuba tươi đẹp.

Sau gần 13 tháng ấm ủ và ươm mầm, cuốn sách Ký ức Cuba – Memorias của Hội Cựu du học sinh Việt Nam tại Cuba ra mắt cuối năm 2020.

Với hơn 500 trang gồm hồi ký, thơ, văn, ảnh, Ký ức Cuba – Memorias chính là những mảnh ghép của một hành trình tuyệt đẹp về thời thanh niên sôi nổi của nhiều thế hệ Việt Nam đeo balo giã từ đất mẹ để lên đường học chữ bên Tây bán cầu.

Theo lời Ban biên tập, “đứa con tinh thần” ấy là kết quả của nỗ lực sưu tầm tài liệu, triển khai viết lách, biên tập, in ấn, xuất bản… từ nhiều người đã hoặc đang học tập, công tác tại Cuba từ những năm tháng của thập kỷ 1960, khi Việt Nam và Cuba thiết lập quan hệ ngoại giao, cho đến nay.

Họ, từ những nhà báo, người yêu văn thơ, đến những người học khối tự nhiên xa lạ với con chữ, tất cả đều viết và kể về mảnh ký ức thanh xuân tươi đẹp của mình bằng tất cả tình yêu son sắt với mảnh đất mà họ luôn gọi là chốn quê nhà thứ hai: Cuba.

Ky uc Cuba anh 1
Sách Ký ức Cuba – Memorias. Ảnh: Huế Trần.

Nửa vòng trái đất đến Cuba

Cuốn sách bắt đầu bằng tên gọi “Nửa vòng trái đất đến Cuba”. Giữa những năm tháng chiến tranh leo thang khốc liệt, những đợt ném bom, bắn phá ồ ạt của Mỹ diễn ra liên tiếp tại các tỉnh miền Bắc, có một đoàn thanh niên bừng bừng sức trẻ phải ngậm ngùi chôn chặt nỗi niềm xót xa trước cảnh quê nhà đang gồng mình chống giặc, để nhận quyết định “đi Tây học”.

Gọi là “đoàn thanh niên” bởi chẳng có số liệu nào thống kê cụ thể đến nay đã có bao nhiêu lớp sinh viên Việt Nam rời xa Tổ quốc để “nhập ngũ trên giảng đường Tây”. Năm 1961 ấy một đoàn, và những năm sau đó, cứ thế, từ nhóm này đến tốp kia.

Có lẽ, phải sống trong những tháng năm bom rơi lửa đạn ấy thì mới hiểu được nỗi trăn trở của gia đình họ, và đôi khi là của chính bản thân những chàng trai, cô gái, những người con mang trên mình trọng trách cao cả chẳng kém phần những chiến sĩ xung phong ra trận.

Không có những cái ôm đưa tiễn, cũng chẳng có bất kỳ buổi tiệc chia tay nào như người ta vẫn thường thấy trước mỗi chuyến đi. Đoàn thanh niên hơn trăm người năm ấy nhận quyết định, leo lên các thùng xe tải lắc, xóc nảy người, để rồi chuyển tàu ra khơi vượt đại dương hơn chục vạn dặm.

9 câu chuyện trong “Chương I” là 9 mảnh ký ức mà nhóm tác giả – cựu sinh viên du học tại Cuba kể về chuyến đi nửa vòng trái đất của mình để tới chốn đảo xanh, cát trắng, xa cách nghìn trùng. Nếu như nói “cuộc đời là những chuyến đi” thì chuyến đi Cuba của đoàn thanh niên nam, nữ Việt Nam những năm tháng bấy giờ chẳng khác nào một hành trình lịch sử xuyên không gian.

Ky uc Cuba anh 2
La Habana đầy màu sắc trong ký ức du học sinh Cuba. Ảnh: Barcelo.

Đời sinh viên, một thời để nhớ

Hành trang mang theo chỉ được xếp vỏn vẹn với vài bộ quần áo và chút đồ dùng cá nhân, nhưng ngày trở về, chất trên vai họ là cả một bầu trời thương nhớ.

“Chương II: Đời sinh viên, một thời để nhớ” có lẽ là nơi tập hợp nhiều mảnh ghép ký ức của thế hệ cựu du học sinh Việt Nam tại Cuba. 44 tác phẩm là hội tụ của 44 câu chuyện, hồi ký, văn, thơ của những người con mang trong tim hai từ Tổ quốc.

Dù không sang cùng năm, cũng chẳng học cùng một địa điểm, dường như cái gọi là “một thời để nhớ” của tất cả cây bút không chuyên ấy đều có chung một điểm: Miền ký ức đẹp của một thời thanh niên sôi nổi vừa học, vừa sống một cuộc đời theo đúng nghĩa “ở phương trời Tây”.

Họ kể về những kỷ niệm nơi hòn đảo sóng mênh mông bốn bề; những cô gái Cuba ngực căng sức trẻ trong điệu nhảy salsa bốc lửa, mê đắm tình người; với âm thanh đường phố rộn ràng, tấp nập người bán kẻ mua; với những chiều thong dong trên cánh đồng mía, xì gà; với những đêm ê a học chữ, đặt câu, đánh vần; hay với những cuối tuần hò hẹn cine…

Những năm tháng ấy, Cuba qua ký ức của các tác giả là một bức tranh sống động và nhiều màu sắc. Hừng hực sức trẻ, họ vượt trùng dương từ Đông sang Tây bán cầu để học hỏi và sống hết mình với một nền văn hóa mới.

Đọc cuốn hồi ức, độc giả có thể cảm nhận được những phút giây thú vị, nhẹ nhàng với câu chuyện kể về mối “tình trong như đã mặt ngoài còn e”, một vài chuyện tình đẹp đi đến hồi kết và cũng có cả những mối quan hệ bắt đầu vụng trộm, kết thúc dở dang.

Nhiều địa danh cũng trở thành cái nôi chung của miền ký ức mang tên Cuba. Một cách vô tình nào đó, những cái tên Siboney, La Habana, Oriente, quán kem Coppelia, nhà Quốc hội Capitolio, pháo đài Morro, bãi biển Varadero, hay Santa María đều được lặp lại rất nhiều ở những câu chuyện khác nhau.

Rong ruổi với từng câu chữ, độc giả có thể hình dung và đắm mình với những miền ký ức gợi nhớ về những hàng dài người mua vé mùa liên hoan phim; những chiều hẹn hò trên bờ Malecón; những đêm chờ xem balet của nghệ sĩ huyền thoại Alicia Alonso hay đêm nhạc Cabaret, Tropicana.

Những ly coctail trứ danh tại quán bar yêu thích của nhà văn Hemingway; những điếu xì gà đậm vị ngâm nghê bên ly rượu rum cay nồng; những điệu nhảy salsa, casino hay âm nhạc reguetón không thể nóng bỏng hơn; và cả những nét ẩm thực nồng nàn vị biển nhiệt đới, đậm chất Caribe… hiện lên sống động qua trang hồi ức các du học sinh.

Ky uc Cuba anh 3
Ban biên tập cuốn sách Ký ức Cuba – Memorias và một người bạn Cuba. Ảnh: FBVN.

Nếu như ở những chương trước, người đọc chỉ cảm nhận được cảnh vật và lối sống ở xứ trời Tây thì đến chương này, độc giả Việt Nam còn hiểu hơn về tình người Cuba.

Nhiều câu chuyện gắn với những tên tuổi nổi tiếng được hồi tưởng lại như câu chuyện về Nữ anh hùng Cuba Melba Hernández, nhà cách mạng – thuyết gia quân sự Che Guevara, anh hùng dân tộc José Martí, và đặc biệt là những buổi gặp mặt với nhà lãnh đạo Cuba – Fidel Castro.

Chương cuối khép lại với Những bức ảnh đi cùng năm tháng (do cựu du học sinh Nguyễn Thanh Hải đảm nhiệm lọc, tìm ảnh và ghi chú thích)như một minh chứng hùng hồn và đầy thuyết phục cho mảnh ghép hoàn hảo cuối cùng của miền ký ức mang tên “Cuba”.

Nguồn: https://zingnews.vn/nhung-ky-uc-khong-bao-gio-phai-ve-cuba-post1193198.html

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng