Connect with us

Sách hay

Những hoang đường có thật của văn học

Được phát hành

,

Trong “Tuyệt không dấu vết”, tiểu thuyết gia đất Hà Thành chỉ ra cho độc giả của mình thấy: những hoang đường của văn học là có thật.

Cơ địa tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà

Tôi đồng ý với Kundera trong Nghệ thuật tiểu thuyệt, rằng dù muốn hay không, đối với một nhà tiểu thuyết, trong mỗi tác phẩm của anh ta đều chứa đựng cách nhìn ngầm ẩn về ý tưởng thế nào là tiểu thuyết.

Thực ra, không cần đến Tuyệt không dấu vết, với “bộ ba” Cơ hội của Chúa – Khải huyền muộnBa ngôi của người, theo tôi, Nguyễn Việt Hà đã hoàn tất công việc định nghĩa “cơ địa tiểu thuyết” của mình. Chưa kể, những mầm mống ý tưởng về tiểu thuyết đã rải rác ngay cả ở những truyện ngắn được viết rất sớm của anh.

Vòng quay 20 năm của tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà (19992019) gần như được khép lại bằng Thị dân tiểu thuyết – nơi tác giả gói ghém không ít tham vọng đi tìm bản lai diện mục, đi vào “tâm” của cái Hà Nội này (tất nhiên cần phải hiểu “Hà Nội” với tư cách một thực thể văn học). Đang trong thang độ tràn ngập màu sắc Ki-tô (với những Chúa-Khải huyền-Người-Ngôi lời kể lể nhỏ) ấy, sẽ là dễ hiểu, khi thoạt nhiên bạn đọc có cảm giác băn khoăn về một sự “chệch hướng” ở Tuyệt không dấu vết – cuốn tiểu thuyết mới nhất này của anh.

Cần phải nói thêm rằng, Nguyễn Việt Hà là mẫu nhà văn mà chúng ta không nên bàn nhiều về những quan niệm, những diễn ngôn cụ thể, rồi thô bạo gò vào một vài “khung lý thuyết” tân thời và yên tâm với một vài kết luận.

Điều quan yếu là phải nhìn ra cách nhà văn thể hiện và dung hòa chúng trong nghệ thuật tiểu thuyết của mình. Đọc Cơ hội của Chúa, Đoàn Cầm Thi từng nhận định “tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà là một lò thử nghiệm văn phong khổng lồ” (Cơ hội của Chúa: từ nhật ký đến hậu trường văn học, 2006) thì tới Tuyệt không dấu vết, cái văn phong ấy đã thành tựu ở phiên bản hoàn thiện nhất của nó. Đó là thứ ngôn ngữ tiểu thuyết được cá nhân hóa, điển hình hóa triệt để, gần như san định thành một lối bạch thoại của thị dân Hà Nội.

Chính anh vừa là một cá nhân vô thức trong cộng đồng, một “native speaker”, vừa là một “nhà ngữ pháp” vạch ra những quy phạm, những cấu trúc bề sâu của cái hệ thống ngôn ngữ sinh động ấy. Và cuộc khảo thí ngôn ngữ ở quy mô tiểu thuyết này đã từng bước đặt Nguyễn Việt Hà vào một vị trí đặc biệt trong văn học Việt Nam đương đại.

Lối viết “dĩ ảo vi thực” độc thủ

Trên tư cách độc giả, cá nhân tôi chưa từng mong đợi những phiêu lưu phi thường kịch tính ở trong khuôn khổ tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà. Ngay cả ở đây, khi tác giả như cố tình tạo nên một cú “twist” về mặt thể loại ở lời đề từ (“tiểu thuyết trinh thám-kiếm hiệp”), để dành khoảng hoang mang háo hức cho những “độc giả trong trắng” của mình.

Trước tiên ở kết cấu chương hồi theo lối “diễn chí” với những hồi mục nửa Đông nửa Tây, nửa kim nửa cổ, nửa Nôm nửa Hán – một kiểu parody nhuần nhuyễn điển hình của Nguyễn Việt Hà. Tương thích với kết cấu ấy là một cốt truyện điều tra – phá án, dần hé mở cho độc giả một loạt những dấu hiệu bất thường, dở khóc dở cười của hệ thống các nhân vật không thể nói là bình thường.

Câu chuyện của Tuyệt không dấu vết quả nhiên vẫn được đặt trong lòng Phố, trong lòng cái Hà Nội âm trầm “sóng lớp phế hưng” – với tất cả đặc tính cốt lõi trở đi trở lại trong các tác phẩm của anh. Nói theo ngôn ngữ sách giáo khoa, Phố là một chủ thể trữ tình, một “sợi chỉ đỏ xuyên suốt”, kiến tạo nên sinh quyển tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà.

Chỉ có điều, Phố ở trong Tuyệt không dấu vết dường như được xóa mờ đi ranh giới của một thực tại đời sống đô thị cụ thể, để dễ bề lùi vào hậu cảnh, phục vụ cho ý đồ tạo dựng hiệu ứng “trinh thám-kiếm hiệp” của tác giả.

Ngay ở những dòng đầu tiên cái không-thời gian ấy đã mang đầy dấu vết ngụy tạo: “Phố nửa như đang Thu, nửa như đang Xuân, nên chắc là mùa Đông. Người đi trên phố nửa quê nửa tỉnh nửa cao bồi, rất hiếm cao thủ. Gió lạnh hoang mang mưa, trời rét như cắt da cắt thịt. Ngày xưa, cũng chưa xưa lắm, người ta lãng mạn gọi là rét ngọt. Ngày nay tàn bạo hơn, gọi là rét hại. Ngày xưa người ta chống rét bằng cách cầm tay nhau, cùng lắm là hôn nhau. Còn bây giờ, nhà nghỉ đã nhiều hơn quán rượu”.

Thông qua biểu dụ “giang hồ”, lại là một thứ “giang hồ thời mạt”, Phố bỗng phát vãng đến độ hoang đường như thế. Nhưng cũng chẳng lấy gì làm xa lạ, người đọc gần như cùng lúc sẽ nhận ra ngay những chỉ dấu lồ lộ của một đời sống chạng vạng thành thị quen thuộc, nơi mà“Thập loại chúng sinh luôn tự nghĩ đang mang đủ loại trọng bệnh, nườm nượp chen nhau tới cửa Phật. Có bệnh đến từ đắc thời, có bệnh đến từ thất thế. Rồi ngoại tình, rồi vỡ tình, rồi thất tình. Có ung thư muộn giai đoạn cuối, có mới làm quan giai đoạn đầu, cửa chùa từ bi rộng mở chữa tất”.

Dày đặc tâm linh nhưng hoàn toàn thiếu vắng đức tin, ấy là căn bệnh trầm kha của “thời mạt”. Và khi chẳng biết bám víu vào đâu thì, “má mì cũng giống như quan chức, thường rất khó hạ cánh an toàn” và các “sồn sồn thiếu phụ” cũng nườm nượp đốn ngộ ưng vô sở trụ chẳng khác Huệ Năng Lục tổ ngày trước là mấy.

Ngỡ tưởng đây là “buổi hoàng hôn của các thánh thần”, cái cảnh giới mà Nietzsche đã nghiền ngẫm tổng kết – nơi con người vượt thoát khỏi tôn giáo để vươn tới chân hạnh phúc bằng chân thành bản năng. Nhưng không, “VTV rụt rè đưa tin về một đạo lạ mới xuất hiện ở Đắc Nông. Càng gần đến doomsday thì càng đông những tôn giáo tân kỳ. Có những đạo trưởng bắt tín đồ phải mua chum, úp mặt hét vào đấy để xả bớt tham sân si. Có cái lạ là đa phần đám đạo sư đều là đàn bà”. Chắc triết gia lừng danh cáu kỉnh phẫn nộ này cũng phải bật cười khi nhìn vào sự hoang mang trống rỗng thường trực ở các nhân vật của Nguyễn Việt Hà.

Trong cái vòng kim cô – lộn xộn những chân lý mập mờ chế định cõi giang hồ-thời hiện đại ấy, văn phong Nguyễn Việt Hà có điều kiện phát huy hết tiềm năng của lối viết “dĩ ảo vi thực” độc thủ. Vẫn những chiêu số quen thuộc ấy thôi, nhưng chủ ý đưa ra một hình thức-chuyện kể mới lạ rõ ràng đã đắc dụng, giúp nhà văn thoải mái tổ chức chất liệu đời sống theo nguyên lý “nửa hư nửa thực” – “Đám nhà văn buồn cười lắm, họ tưởng tượng nhưng lại tin rằng điều mình tưởng tượng là thực”. Và chẳng phải nó cũng hoàn toàn ăn nhập với cái “Hà Nội muôn đời sâu sắc lãng mạn là nhờ hoang đường, dịu dàng phù phiếm là nhờ hoang tưởng” này hay sao?

Tôi cho rằng, Nguyễn Việt Hà không chủ định tạo dựng nên một thứ tựa như “huyền thoại phố phường” nhưng bản thân những cấu phần câu chuyện được kể lại, tự nó đã mang tính huyền thoại.

Như một thói quen thăm dò thời đại, các cuốn tiểu thuyết trước của anh luôn song hành một mạch truyện lịch sử. Ở đây, dường như cái mạch lịch sử ấy được kéo về tiệm cận, gần như đồng hiện ở trong mạch đương đại.

Những “người muôn năm cũ” của một thời giang hồ đầy tráng khí được tái hiện qua loạt hồi tưởng đan cài của các nhân vật thuộc nhiều thế hệ. Đáng kể nhất trong ấy, và mang tính biểu tượng thời đại, là văn sĩ Đức Trọng – ông nội Thám tử – một nhà văn “chuyên viết truyện trinh thám lẫn kiếm hiệp, lứa đàn em của văn sĩ lừng danh Phạm Cao Củng”, “từng làm báo cùng ông Vũ Bằng, ông Ngọc Giao”, có giao hảo với “một ông nhà thơ hom hem, có tên trong tập khảo luận lừng danh của Hoài Chân- Hoài Thanh”.

Theo đó, ông là “cha đẻ” của nhân vật thám tử Michel Phát Kỳ viết từ hồi Pháp thuộc và rồi đây người cháu đích tôn – Nguyễn Ngọc Tuấn sẽ tiếp tục nối nghiệp ông nội, trước tác chính cuộc đời mình thành một hình mẫu thám tử.

Dễ thấy, “Tuấn còn được tử tế sống, còn minh mẫn biết uống whisky, hoàn toàn là nhờ ông nội”. Cảm hứng lịch sử được di dưỡng ở trong những mạch ngầm như vậy, không cần rạch ròi tách biệt thành một tuyến riêng, vừa đủ giữ cho Tuyệt không dấu vết một làn sương hư ảo cần thiết.

Để độc giả tự do trong những liên tưởng

Trở lại với phần lõi của cốt truyện “trinh thám-kiếm hiệp” này. Hai sự vụ mà thám tử Tuấn của văn phòng “Tam Tuấn” thụ lý, được ghi vào hai folder “Mission 12 – thiếu phụ 7” và “Mission 14 – thiếu phụ 9” thoạt nghe chẳng có gì đặc biệt. Giống đa phần các vụ án đồng dạng trước đây đều “nửa nhì nhằng ích kỷ, nửa thảm thiết tàn bạo, lẫn lộn cả hận lẫn yêu”, khiến thám tử “vừa chán vừa bải hoải”.

Theo đó, chồng của thiếu phụ 7 – Diệu Phong, được gọi với danh xưng “Hà Thành lãng tử” là mối tình đầu của thiếu phụ 9 – Sơn Linh. Tục lụy ái tình vẫn đeo đẳng trong những giấc mơ của “số 9”.

Thói giang hồ, bà ăn nem thì đương nhiên ông sẽ ăn chả, thứ trưởng phu quân của thiếu phụ 9 cũng công khai quan hệ bất chính với thiếu phụ 7.

Xuất phát từ những động cơ khác nhau, cả hai cùng hoang mang đi tìm chồng và đến cậy nhờ Thám tử. Chiểu theo “tự thú” của Lãng Tử, người đọc biết được rằng anh ta đã thực sự chết, nhưng sự chết ở đây dường như cũng chỉ mang bản-chất-mơ, để theo đó cuộc điều tra vẫn hữu lý tiếp diễn.

Người sống biết mơ thì người chết cũng biết mơ, mà một khi đang mơ thì lại không rõ mình đang sống hay chết. chết là hai trạng thái thay phiên nhau xóa nhòa thực tại ở trong tiểu thuyết này. Tức là thực tại hai lần hư cấu.

Đáng lưu ý là ngay từ đầu, thám tử đã nhận thấy ở vụ này “có một cái gì sâu kín cũ kỹ quen thuộc hoang mang tới mức không thể nhớ”; và rồi “rùng mình” khi: “Cách đây chưa lâu, khi vô tình thấy giờ sinh bên lề tờ khai sinh gốc của người mất tích [Lãng tử], thám tử đã lập tay lá số tử vi cho anh ta với bát tự là giờ Bính Ngọ, ngày Nhâm Ngọ, tháng Quý Hợi, năm Mậu Ngọ. Chúa ơi, nó trùng khít với 12h ngày 16 tháng 11 năm 1978, giống y thời gian sinh ra mình.” Những chỉ dấu song trùng xuất hiện không chỉ một lần, chắc hẳn sẽ đẩy về phía độc giả nhiều hoài nghi.

Từ đây, quá trình điều tra vô hình trung biến thành một cuộc thăm dò tiềm thức của chính Thám tử. Theo suy lý thông thường, thám tử đương nhiên phải là kiểu nhân vật tỉnh táo, mẫn tiệp bậc nhất. Vậy một vụ án sẽ đi tới đâu khi căn cước của chính người phá án cũng bị nghi ngờ?

Về mặt hiện tượng, nhân vật Tuấn thám tử ở đây cũng chẳng hoang đường hơn Sherlock Holmes trong truyện của Conan Doyle, Sở Lưu Hương trong “chưởng” của Cổ Long, hay thậm chí là Hoàng là Nhã trong Cơ hội của Chúa. Điểm khác biệt chỉ xuất hiện khi Nguyễn Việt Hà đặt nhân vật của mình vào một trạng thái tinh thần hoàn toàn khác.

Thám tử Tuấn là người không bao giờ mơ, nhưng cuối cùng có vẻ như anh ta cũng đang trong một giấc mơ, và trong giấc mơ ấy lại mơ là mình đang mơ tiếp một giấc mơ khác… Nỗ lực “bơi ngược dòng” để tìm đến một thực tại chắc chắn của nhân vật Thám tử khiến người đọc dễ liên hệ đến dự án triết học của Descartes ở thế kỷ XVII – đi tìm một điểm tựa duy lý vững chắc cho suy tưởng của con người – một vấn đề nhận thức luận (epistimology) bản lề trong triết học phương Tây Hiện đại.

Nôm na hơn, nó thường được minh họa bằng điển tích “Trang Chu mộng hồ điệp” trong sách Trang tử: “Có lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa, rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu. Không biết phải mình là Chu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm mộng thấy hóa Chu”.

Đó cũng chính là băn khoăn căn bản về một thực tại “u u minh minh” đeo bám vào cốt truyện: “Thực tại bản lai vốn là ảo hay là thật, hay đúng chỉ là một giấc mộng lớn”.

Trong ngữ cảnh nửa mê nửa tỉnh này, đối trọng với những ảo ảnh mộng mị nơi tuyến nhân vật Thám tử – Lãng tử – Thiếu phụ lại chính là sự tỉnh táo bất thường ở Bách (và đâu đó cả ở nhân vật đệ tử Tuấn Anh) – người bạn thân thiết lâu năm của Thám tử.

Bách – sĩ quan an ninh, xuất hiện lạnh lùng chớp nhoáng qua những cuộc gặp. Người đọc cũng không biết gì thêm về hành tung của nhân vật này ngoài việc nhận thấy cuối cùng, mối quan tâm ở anh ta là chiếc cặp Samsonite chứa “sinh mệnh chính trị của biết bao nhiêu người cao quý” – một vấn đề “thuần túy chuyên môn”.

Tỉnh táo sắc sảo là thế, không ngạc nhiên khi Bách chính là người “giải ảo”, mở ra lối thoát cho những chập chờn nghi hoặc liên miên không hồi kết. Nhưng cũng theo một cách cũng hoang đường chẳng kém, anh ta dụng công đọc hết Thành duy thức luận – hệ thống siêu hình học cơ bản của Phật giáo, lấy đề tài là toàn thể kinh nghiệm của Tâm Thức con người – để “vạch mặt” người bạn thám tử của mình: “…Không phải là Freud đâu, chính những đại sư tông Duy Thức mà cậu vô cùng thích đã phân tích như thế. ‘Lãng tử’ chỉ là bản phô tô đầy lỗi phóng chiếu từ tâm thức đã bị tẩu hỏa nhập ma của một người thích diễn vai thám tử”. Cùng đó, hai cô nhà báo “số 7”, tiểu thư “số 9” “đều là bệnh nhân tâm thần phân liệt”.

Tới đây, một câu hỏi rốt ráo phải được đặt ra: “Cứ cho là thám tử đã bịa ra Lãng tử, vậy ai đã bịa ra Thám tử”? Có lẽ để giải đáp câu hỏi này, ở hồi thứ hai mươi, hồi cuối cùng của tiểu thuyết (“Tứ cú”), Nguyễn Việt Hà đã để cho Thám tử lần đầu tiên xuất hiện với tư cách một chủ thể xưng “Tôi”. Tất nhiên, theo phương pháp luận hoài nghi của Descartes (“nguyên lý thứ nhất”), dù hoang đường mộng mị tới đâu thì cái “Tôi” biết suy tư luôn tiền giả định sự tồn tại của chính nó (“…Và khi tôi quan sát thấy rằng sự thật này: tôi đang suy nghĩ, do đó tôi tồn tại, là hoàn toàn chắc chắc, và đầy đủ bằng chứng hiển nhiên tới mức không có cơ sở nào để nghi ngờ…

Chẳng phải đắn đo, tôi chấp nhận nó như nguyên lý đầu tiên của thứ triết học mà tôi đang nghiên cứu” – (Discourse on the Method of Rightly Conducting One’s Reason and of Seeking Truth in the Sciences, Oxford University Press, Part IV, p.28, – a new translation of Ian Maclean (2006)).

Việc xác lập một cái “Tôi” chắc chắn cho nhân vật Thám tử ở “phút 90” có thể là khởi điểm của một cuộc “lội ngược dòng” nữa, hay nói cách khác, một manh mối quan trọng giúp xoay chuyển “vụ án” này theo những chiều diễn dịch khác nhau. Và thẩm quyền của độc giả tiểu thuyết là được tự do trong những liên tưởng như vậy.

Thực tại và hoang đường trong nghệ thuật tiểu thuyết

Yếu tính của văn học là hư cấu (fictional). Văn học đưa người đọc đến một “thế giới khả dĩ” (possible world), nhưng chính cái thế giới phi thực ấy vẫn phải kết nối với thực tại (reality) bằng logic của nghệ thuật tiểu thuyết.

Trong khuôn khổ bài viết này, tôi tự giới hạn, chú mục vào trình bày và phân tích một vài dấu vết hoang đường trong Tuyệt không dấu vết để thuyết phục bạn đọc rằng: đây là một cuốn tiểu thuyết bình thường của Nguyễn Việt Hà. Giống như khi đọc Edwin Drood của Dickens, Vụ án của Kafka hay Tội ác và trừng phạt của Dostoevsky, ta thấy bình diện thứ nhất của nội dung không nằm ở lớp vỏ trinh thám, phiêu lưu, điều tra phá án mà là cuộc tìm sâu vào đời sống tâm thức con người – với đầy rẫy những khía cạnh phi lý dường như chỉ có thể tiệm cận qua con đường văn học.

Đấy cũng là khi nhà tiểu thuyết chỉ ra cho độc giả của mình thấy: những hoang đường của văn học là có thật.

Nguồn: https://znews.vn/nhung-hoang-duong-co-that-cua-van-hoc-post1446939.html

Sách hay

‘Bản đồ’ cơ thể người

Được phát hành

,

Bởi

Được biên soạn công phu, giáo trình y khoa “Sobotta Atlas giải phẫu người (đầu, cổ, chi trên, ngực, bụng, chi dưới)” có thể hỗ trợ hiệu quả cho công tác nghiên cứu, khám chữa bệnh.

Theo GS.TS Đào Văn Dũng, giải phẫu học tuy là môn cơ bản bắt buộc đối với những ai học khối ngành sức khỏe, nhưng lại là môn khó học. Giải phẫu đầu mặt cổ, giải phẫu thần kinh trung ương và ngoại biên nằm trong chương trình năm nhất của sinh viên y khoa, đồng thời liên hệ mật thiết với các môn học bệnh học về sau này.

Do đó, giáo trình giải phẫu học cần đảm bảo sự hấp dẫn để lôi cuốn sinh viên, giảm cảm giác nhàm chán trong quá trình học tập. Atlas giải phẫu học cơ thể người vì vậy đã ra đời.

Trước đây, trong trường y của nước ta, môn Giải phẫu học giảng dạy bằng tiếng nước ngoài. Atlas giải phẫu in trắng đen, chú thích bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Latin. Điều này ít nhiều gây khó dễ cho người học, nhất là với những sinh viên trình độ ngoại ngữ còn những hạn chế nhất định.

“Có những cuốn atlas giải phẫu người chính xác về mặt chuyên môn, chuẩn về mặt thuật ngữ bằng tiếng Việt, lại in màu đẹp là ước mơ của người học trong khối ngành sức khỏe”, GS Dũng cho hay.

sobotta anh 1

Sách Sobotta Atlas giải phẫu người (đầu, cổ, chi trên, ngực, bụng, chi dưới). Ảnh: Đ.A.

Theo đánh giá của Hội đồng Giảm khảo Giải Sách Quốc gia hạng mục Sách Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Sobotta Atlas giải phẫu người(đầu, cổ, chi trên, ngực, bụng, chi dưới) in lần thứ 14 bản dịch tiếng Việt đã đáp ứng được những yêu cầu trên.

Sobotta Atlas giải phẫu người(đầu, cổ, chi trên, ngực, bụng, chi dưới) vốn là kiệt tác do nhà giải phẫu học nối tiếng người Đức, GS Giải phẫu học Johannes Sobotta (1869-1945) biên soạn. Sách đã được dịch ra 20 thứ tiếng trên thể giới, qua nhiều lần chỉnh lý, bổ sung với sự tham gia của nhiều nhà giải phẫu học nổi tiếng khác của các trường đại học khối ngành sức khoẻ nước Đức. Trong lần in thứ 14, sách được chỉnh lý, bổ sung hoàn thiện và do hai GS giải phẫu học R. Putz và R. Pabst hiệu đính.

Sách do Elsevier – một công ty xuất bản học thuật, chuyên tài liệu y học và khoa học – in và giữ bản quyền. Bản dịch tiếng Việt do các giảng viên Bộ môn Giải phẫu học, Khoa Y Đại học Y Dược TP.HCM thực hiện. Trong đó có BS Nguyễn Hoàng Vũ, GS.TS.BS Lê Văn Cường, PGS.TS.BS Dương Văn Hải, TS.BS Võ Văn Hải, ThS.BS Nguyễn Xuân Anh, ThS.BS Nguyễn Phước Vĩnh, ThS.BS Trang Mạnh Khôi, ThS.BS Nguyễn Trường Kỳ, ThS.BS Võ Thành Nghĩa, BS Nguyễn Trung Hiếu.

Sobotta Atlas giải phẫu người có phần hướng dẫn sử dụng sách rất chi tiết và khoa học. Sách gồm 13 chương, các mục nhỏ được ký hiệu bằng 3 chữ số. 148 nội dung chi tiết với hơn 2.000 hình ảnh được trình bày khoa học, ngắn gọn, dễ hiểu. Mỗi chương được in bằng một màu xác định có sơ đồ tổng quan ngay từ những trang đầu để người đọc tra cứu, theo dõi.

Mô tả rất chi tiết cấu trúc giải phẫu người nhưng sách không làm mất đi tính tổng thể của giải phẫu người. Theo GS Dũng, nét đặc sắc này giúp người học tham khảo trong quá trình học tập và áp dụng vào hoạt động lâm sàng về sau.

GS.TS Nguyễn Khoa Cường nhận định bản dịch thể hiện được chính xác nội dung khoa học, đồng thời vẫn giữ lại các thuật ngữ tương ứng bằng tiếng Anh, tạo thuận lợi cho người đọc khi tra cứu, đối chiếu.

Đặc biệt, với mục đích giải phẫu học phục vụ thực hành lâm sàng, các nội dung biên dịch được bổ sung các hình ảnh lâm sàng, tích hợp các kĩ thuật hình ảnh học mới như chụp X – quang, chụp cộng hưởng từ, cắt lớp điện toán…, các hình nội soi, ảnh màu trong lúc mổ, ảnh bệnh nhân với các triệu chứng điển hình – được thiết kế phù hợp với mọi chương trình học.

Với giá trị khoa học, thực tiễn của mình, Sobotta Atlas giải phẫu người (đầu, cổ, chi trên, ngực, bụng, chi dưới) được đề cử tại Giải thưởng Sách Quốc gia 2024.

Hội đồng giám khảo cho rằng cuốn sách có nội dung phù hợp, rất cần thiết cho học tập, nghiên cứu trong đào tạo đại học, sau đại học… Sách đặc biệt có ý nghĩa với hoạt động giảng dạy theo module và áp dụng vào lâm sàng. Theo đó, công trình này sẽ giúp đội ngũ y bác sĩ chẩn đoán bệnh được chính xác hơn, nhất là chẩn đoán định khu, phẫu thuật thực hành và trong thực hành các kỹ thuật của y học truyền thống (châm cứu, bấm huyệt…).

Nguồn: https://znews.vn/ban-do-co-the-nguoi-post1513256.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Điều ẩn sâu trong thế giới lượng tử

Được phát hành

,

Bởi

Theo nhà vật lý lý thuyết Sean Carroll, cơ học lượng tử và thuyết đa Vũ Trụ không chỉ mang lại tri thức khoa học mà còn góp thêm một góc nhìn để trả lời câu hỏi triết học ngàn đời: Ta là ai?

Sự phát triển của cơ học lượng tử trong những năm đầu thế kỷ XX, với những cái tên như Planck, Einstein, Bohr, Heisenberg, Schrödinger, và Dirac là thành tựu trí tuệ vĩ đại trong lịch sử loài người.

The gioi luong tu anh 1

Sách Điều gì đó ẩn sâu. Ảnh: ML.

Chúng ta chưa thực sự hiểu đúng về cơ học lượng tử

Cơ học lượng tử là lý thuyết tốt nhất để giúp chúng ta hiểu về thế giới vi mô, nó mô tả cách thức nguyên tử và các hạt tương tác thông qua các lực của tự nhiên, đem lại những tiên đoán thực nghiệm với độ chính xác đáng kinh ngạc. Các nhà vật lý thiên văn, vật lý hạt, vật lý nguyên tử, vật lý laser – tất thảy họ ngày ngày đều sử dụng cơ học lượng tử. Chất bán dẫn, transitor, vi mạch, laser và bộ nhớ máy tính đều hoạt động dựa trên cơ học lượng tử.

Tuy nhiên, trong cuốn Điều gì đó ẩn sâu Sean Carroll lại chỉ ra một điều nghe có vẻ thật lạ lùng nhưng lại đang diễn ra trong ngành vật lý lý thuyết đó là cơ học lượng tử là lĩnh vực ai cũng “kinh sợ”.

Nguyên nhân của sự “kinh sợ” này là các nhà vật lý chân chính thừa nhận rằng chúng ta chưa thực sự hiểu đúng về cơ học lượng tử, dù chúng ta đang sử dụng khoa học lượng tử để thiết kế những công nghệ tiên tiến và tiên đoán kết quả thử nghiệm.

Theo Sean Carroll, từ thuở bình minh của lĩnh vực này cho đến nay, các nhà vật lý vẫn chưa tìm được tiếng nói chung về nền tảng thực sự của cơ học lượng tử và vẫn chưa đi đến thống nhất về cơ học lượng tử thực sự nói gì.

Các nhà vật lý có xu hướng sử dụng cơ học lượng tử để giải thích thế giới. Tuy nhiên, chúng ta chưa thể làm được điều đó, bởi có những cách xử lý phổ biến có khuynh hướng cường điệu hóa rằng cơ học lượng tử mang tính huyền bí, khó giải thích, không thể thấu hiểu. Điều này đi ngược với những nguyên tắc căn bản của khoa học, trong đó bao gồm quan niệm cho rằng thế giới về cơ bản là có thể hiểu được.

Điều này cũng dẫn tới tình trạng nhiều cơ sở nghiên cứu không coi trọng việc tìm hiểu ý nghĩa của cơ học lượng tử. Các nhà khoa học chỉ coi trọng những kết quả hữu hình – những công nghệ mới lạ, những tiên đoán cụ thể, có khả năng thương mại hóa.

Trước thực trạng này, tác giả đặt ra câu hỏi: Vậy ai sẽ tìm hiểu về bức tranh toàn cảnh, mà nếu không có nó, ngành Vật lý rất khó đi được xa thêm?

The gioi luong tu anh 2

Nhà vật lý lý thuyết Sean Carroll. Nguồn: preposterousuniverse.

Cơ học lượng tử và thuyết đa Vũ Trụ

Điều gì đó ẩn sâu là nỗ lực của Sean Carroll trong việc lấy lại vị thế của cơ học lượng tử. Sách cố gắng làm cho cơ học lượng tử dễ hiểu – ngay cả khi chúng ta vẫn chưa hiểu được nó – và việc đạt được những hiểu biết như vậy phải là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của khoa học hiện đại.

Cơ học lượng tử là độc nhất vô nhị trong số các lý thuyết vật lý nhằm mô tả sự khác biệt rõ ràng giữa những gì chúng ta quan sát thấy với những gì mới là thực tại. Điều đó đặt ra thách thức đặc biệt đối với tư duy của các nhà khoa học (và toàn thể những người còn lại), những người đã quá quen thuộc với lối suy nghĩ về những gì chúng ta quan sát thấy là “thực tế” không phải bàn cãi và cố gắng giải thích mọi thứ cho phù hợp.

Nhưng đó không phải là chướng ngại vật không thể vượt qua, và nếu giải phóng được tư duy của mình khỏi lối tư duy trực giác và lạc hậu thì chúng ta sẽ thấy rằng cơ học lượng tử không hề huyền bí một cách tuyệt vọng hoặc không thể giải thích được. Nó chỉ đơn thuần là vật lý mà thôi.

Điều gì đó ẩn sâu cũng chỉ ra những bước tiến trong việc thấu hiểu cơ học lượng tử đã đạt được, theo cách tiếp cận mà tác giả cho là con đường nhiều triển vọng nhất: Cách diễn giải Everett (*) hay đa Vũ Trụ về cơ học lượng tử.

Theo tác giả sách, cơ học lượng tử là rường cột chống đỡ các định luật khoa học mô tả hành vi bất thường của photon, electron hay bất kỳ hạt nào tạo nên Vũ Trụ.

Còn đa Vũ Trụ – giả thuyết về các Vũ Trụ tồn tại song song như trong phim khoa học viễn tưởng, nơi tồn tại bản sao của con người Trái Đất – là “phương pháp thuần khiết nhất” để hiểu cơ học lượng tử. Đó cũng chính là đích đến nếu chúng ta bước trên cung đường có ít sự chống cự nhất khi bàn về các hiện tượng lượng tử một cách nghiêm túc.

Bằng những câu chuyện hay cuộc đối thoại, Carroll dẫn dắt người đọc kết nối những kinh nghiệm thường ngày của chúng ta với một thế giới đa Vũ Trụ.

Theo Carroll “Tất cả đều là lượng tử”; những lý thuyết về hàm sóng và đa Vũ Trụ không chỉ mang lại tri thức khoa học mà còn góp thêm một góc nhìn để trả lời câu hỏi triết học ngàn đời: Ta là ai? Ta đang ở đâu? Ta sẽ như thế nào?

Ví dụ ta là chính ta của ngày hôm qua nhưng đồng thời cũng khác, và sẽ một phần, nhưng không phải toàn bộ, của ta ngày mai. Và cùng một thời điểm này, theo đa Vũ Trụ, sẽ có rất nhiều “ta” ở những Vũ Trụ khác nhau. Những bản sao không ngừng được sinh ra.

Điều gì đó ẩn sâu cũng nêu lên những lý thuyết đề xuất mới mẻ, chưa hoàn toàn được công nhận, trong nỗ lực tìm hiểu bản chất của không – thời gian, và nguồn gốc cùng với số mệnh sau cùng của Vũ Trụ. Đồng thời, sách cũng xem xét các nghiên cứu quan trọng khác từ góc độ cơ học lượng tử, ví dụ như những công bố về lỗ đen của Stephen Hawking.

——————–

*. Ý tưởng đa Vũ Trụ ban đầu do nhà vật lý Hugh Everett viết trên một tờ báo vào năm 1957.

Nguồn: https://znews.vn/dieu-an-sau-trong-the-gioi-luong-tu-post1513275.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Chỉ có bạn mới trả lời được câu hỏi của cuộc đời mình

Được phát hành

,

Bởi

108 chủ đề được bàn luận trong sách đều là những vấn đề rất thiết thực, gần gũi, đặc biệt trong giai đoạn nhân loại chịu nhiều tổn thất sau đại dịch Covid, như: cách điều khiển những cảm xúc tiêu cực; cách lắng nghe tâm trí và thân thể mình; cách đặt ra lằn ranh cho bản thân; cách để ngừng trì hoãn và thực hiện những điều mình yêu thích, v.v…

Khi bạn trao cho người khác quyền được quyết định xem bạn có đáng được yêu thương hoặc có giá trị hay không, bạn đã tự phản bội chính mình rồi.

Sự hài lòng đến từ bên trong

Nếu có thể dành cho chính mình lúc trẻ một lời khuyên, thì tôi sẽ bảo rằng: Sự hài lòng không nằm ở đâu xa vời cả; nó ở ngay trong mình.

Khi bạn trao cho người khác quyền được quyết định xem bạn có đáng được yêu thương hoặc có giá trị hay không, bạn đã tự phản bội chính mình rồi, bạn thân yêu ạ. Khi bạn hướng tới người khác để đạt được sự công nhận rằng mình đã “đủ giỏi” hay đang làm “tốt”, bạn chỉ đang tự tạo khoảng cách với con người thật của mình.

Hãy nhìn vào sâu bên trong và lắng nghe bản thân.

Hai long anh 1

Ảnh minh hoạ. Nguồn: BBC.

Bạn là người duy nhất hiện diện mọi ngày trong cuộc đời của bạn. Khi đưa ra những quyết định dựa trên những gì hợp lý hoặc không đối với mình, bạn đã kiến tạo một cuộc đời chân thật của riêng mình. Mọi ý kiến khác sẽ dần phai đi một khi bạn trân trọng và tin tưởng vào những điều mang lại cho bạn ý nghĩa và hạnh phúc.

Khi những tiếng ồn của thế giới bên ngoài trở nên quá náo nhiệt – điều chắc chắn sẽ xảy ra – hãy nhớ ngừng lại, đứng yên, và tự hỏi mình:

Điều gì phù hợp và chân thành nhất đối với mình?

Hãy để câu hỏi đó chín muồi cho tới khi câu trả lời từ từ hiện ra. Và rồi thực hiện điều đó.

Tận dụng tài năng của mình

Tôi từng trò chuyện với một tiểu thuyết gia về cuốn sách cô ấy đã ấp ủ suốt mười năm (tận mười năm!). Khi tôi hỏi cuốn sách đã được viết đến đâu rồi và khi nào tôi có thể đọc thử, cô ấy bảo, “Ồ, tớ không biết nữa. Có quá nhiều tiểu thuyết đã được viết rồi. Tớ không biết có đáng để viết không. Đằng nào thì cũng đã có người thực hiện nó rồi.”

Trong mọi nỗi sợ liên quan đến niềm thôi thúc và ước mơ mà tôi từng được nghe kể, “Đã có người thực hiện rồi” là thứ khiến tôi đau lòng nhất.

Dĩ nhiên, đúng là đã có hàng triệu quyển sách, bộ phim và các phát minh được sáng tạo trên thế giới này. Nhưng bạn có muốn biết thêm một sự thật không?

Chưa thứ nào trong số đó được sáng tạo bởi bạn.

Khi truyền tải những kinh nghiệm sống, góc nhìn và cảm xúc của mình vào một tác phẩm – một thứ gì đó phản ánh lòng hiếu kỳ và chuyện đời của bạn – những gì bạn tạo ra sẽ chân thật, nguyên bản và độc nhất.

Vì vậy, mỗi khi bạn chùn bước vì nghĩ rằng “đã có người thực hiện điều đó rồi” – hãy nhớ lấy điều này:

Có thể nó đã được thực hiện. Nhưng nó chưa được thực hiện bởi bạn.

Tận dụng tài năng của mình sẽ mang lại rất nhiều điều kì diệu, niềm vui và bất ngờ cho cuộc sống của bạn – nếu bạn chấp nhận chúng. Hãy xem như đây là lời mời gọi bạn tiến một bước nhỏ đến điều đang thôi thúc mình ngày hôm nay.

Tìm sự tường tận trong hành động

Một dược sĩ từng tìm đến tôi với mong mỏi được kết nối với bản chất nghệ sĩ bên trong mình. Khi chia sẻ những hoài bão và ước mơ với tôi, cô ấy luôn kéo theo sau một chuỗi các câu hỏi “lỡ như”:

Lỡ như tôi không thích làm điều đó? Lỡ như tôi không giỏi làm điều đó? Lỡ như nó không thành công? Lỡ như hoá ra nó khác với những gì tôi nghĩ? Lỡ như tôi đang phí phạm thời gian của mình?

Lỡ như…Lỡ như…Lỡ như…

Cuộc trò chuyện đó khiến tôi nhớ lại quãng thời gian chuẩn bị tiến một bước trọng đại ở một hướng đi mới, nhưng lại bị mắc kẹt ở giai đoạn chuyển giao, cố gắng hiểu tường tận mọi thứ trước khi dám cất bước đầu tiên.

Dù là rời khỏi thế giới công nghệ để theo đuổi con đường nghệ thuật, chuẩn bị “chời bài ngửa” trong một mối quan hệ, hay tạo ra một thay đổi lớn trong việc kinh doanh của mình – tôi từng nghĩ rằng một khi có được “kế hoạch hoàn hảo” thì mới có thể bắt đầu được.

Sự thật là như thế này: Không có kế hoạch nào là hoàn hảo cả. Sự rõ ràng sẽ đến khi ta hành động. Chúng ta không thể biết chắc được điều gì thành công hay thất bại, có thích hợp hay khôgn, cho đến khi tự mình nhìn thấy, chạm vào trải nghiệm. Chỉ khi đó ta mới có được sự khôn ngoan và hiểu biết để tự điều chỉnh và phát triển – rồi từ đó đưa ra các lựa chọn sáng suốt hơn để bước tiếp.

Bạn có đang chờ một kế hoạch hoàn hảo để bắt đầu theo đuổi điều gì đó? Thay vào đó, bước đầu tiên bạn có thể làm là gì?

Hãy nhớ rằng: Sự rõ ràng theo sau hành động. Từng bước, từng bước một.

Nguồn: https://znews.vn/ai-la-nguoi-ban-can-lam-hai-long-nhat-post1513431.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng